← Quay lại trang sách

Chương VII Trở về khởi điểm

Tiếng nói nghe rất gần, nhưng tốp lính còn cách đoàn người đào tẩu chừng 200 mét. Đành rằng họ trèo núi giỏi, khoảng cách xa 200 mét này, họ khó thể vượt qua trong vòng mươi phút.

Căn cứ vào yếu tố địa hình hiểm trở ấy, Văn Bình chỉ vội vàng chứ không hối hả. Với Bô-kha nằm ngang trên hai cánh tay, chàng bước thoăn thoắt lại bờ suối. Quang cảnh trước mắt Văn Bình là một công trình kiến trúc tuyệt hảo của hóa công. Giòng suối lặng lờ bao nhiêu thì ngọn thác từ trên cao đổ nước xuống suối ồn ào bấy nhiêu. Nước dội dội vào đá tạo ra những âm thanh lạnh tanh, độc đáo khiến chàng có cảm giác như hàng trăm cái muỗng bạc đang được khuấy cùng lúc trong hàng trăm cái ly pha lê. Phụ họa vào tiếng lanh tanh của suối, tiếng gió thổi vù vù liên tiếp từ thạch động thổi ra và từ ngoài thổi thốc vào mơn trớn nền đá lóe sáng lân tinh như ngón tay lướt trên phím đàn, giao phát những tiết tấu rộn ràng.

Đẹp quá, buổi sáng trên núi Bhu-tan đẹp quá. Nếu có máy chụp hình, Văn Bình có thể bỏ quên ăn uống. Nếu có thêm giai nhân một bên chàng sẵn sàng bỏ quên cuộc sống thị thành, ở lại đây, khát uống nước suối, đói ăn lá cây, bầu bạn với tình yêu giữa chim muông, hoa cỏ, trăng sao và trời đất.

Quang cảnh đẹp quá mà chàng không được thưởng thức. Vì thực tại phũ phàng chềnh ềnh tứ phía. Phía sau là tốp lính rượt đuổi. Bên trái là rừng tre không tiện ẩn núp. Vách núi bên trái dựng đứng như tường thành, chàng có thể trèo qua nhưng các bạn đồng hành của chàng bắt buộc phải đứng chết ở dưới. Con đường sống của chàng là cái hang đá đen ngòm. Muốn đến cửa hang phải băng qua suối. Tuy lòng suối không sâu, nó có thể cuốn kéo bất ngờ nếu người băng qua thiếu thận trọng. Và dẫu vào được hang đá cũng chưa chắc thoát hiểm. Vì lính địa phương không thể không biết tới sự hiện diện của hang núi dưới thác nước. Đây là hang đục sâu vào ruột núi, có lối thoát ra ngoài hay dẫn đến ngõ kẹt?

Một lô dấu hỏi bay liệng trong óc Văn Bình như những con diều một ngày bão tố. Chàng ra lệnh cho Mahan:

-Anh xuống trước. Mặt quay lại, đối diện Tuyết Lê. Anh phải bước lùi, sẽ rất vất vả, và khó khăn, nhưng Tuyết Lê và Huy-gô sẽ vững tâm hơn. Cẩn thận. Bước thật ngắn, thật chậm. Bấm mũi giày thật vững. Trong trường hợp trượt ngã, đừng buông tay cáng. Nắm thật chắc, tôi sẽ tiếp cứu.

Mahan gật đầu một cách ngoan ngoãn. Tuyết Lê cười mũi:

-Xin lỗi anh Z.28. Trong đời, em tắm suối cả ngàn lần. Băng qua suối cũng cả ngàn lần. Nghe anh căn dặn em cứ tưởng chú em là con nít.

Mahan hơi sẵng giọng:

-Mày chẳng chịu phục thiện gì cả. Suối ở nhà mình khác, suối ở đây khác.

-Khác với chú, với cháu thì suối nào cũng là suối. Nước nó trong veo như mắt mèo, mặt nó không chút gợn, chứ đừng nói là có sóng. Đi qua suối cũng như đi qua ao, có gì đáng ngại đâu.

Văn Bình nói:

-Đừng tưởng hỏa diệm sơn nằm im không phun lửa. Đừng tưởng đàn bà hiền khô, tâm địa cũng hiền khô. Rồi em sẽ thấy, em đừng tưởng suối lặng lờ này không nguy hiểm.

Tuyết Lê phụng phịu:

-Vâng, nó nguy hiểm. Anh giàu kinh nghiệm, em xin nghe anh. Nhưng em không chịu nổi lối nói ví von của anh. Nước suối ăn nhập gì đến đàn bà…Anh mượn chuyện nước suối để mắng xéo em. Thôi, anh đi một mình.

Nàng ngồi bệt xuống tảng đá. Trời đất, đến phút thiên nan vạn nan này nàng còn nhõng nhẽo như những lúc ở trong phòng kín…Mahan nắm vai nàng:

-Đứng dậy. Khiên băng-ca lên, bọn lính sắp đến nơi.

Tuyết Lê không nhúc nhích. Văn Bình gõ nhẹ mê huyệt gần đốt xương sống thứ 13 của nàng. Nàng ngã xấp. Hoa tiêu Huy-gô ngồi nhỏm trên cáng:

-Anh khỏi cần khiêng. Tôi có thể…

Xẹt…một atêmi khác của Văn Bình vung ra. Đầu ngón trỏ của chàng chạm khớp xương vai Huy-gô. Đến lượt Huy-gô lăn nhào.

Thế là trong đoàn có 5 người thì 3 đã bị Văn Bình ru ngủ bằng diệu thủ điểm huyệt.

Văn Bình đặt thái tử Bô-kha xuống, rồi xốc Tuyết Lê bất động lên vai. Mahan sửng sốt:

-Sao anh không mang thái tử qua trước?

Văn Bình cười tủm tỉm:

-Về công vụ, mạng sống của Bô-kha đáng giá hơn ai hết. Nhưng tôi vẫn sợ tôi mang Bô-kha vào hang, đến khi trở ra thì cô cháu của anh bị lính bắt giữ.

Mahan hứ một tiếng:

-Tưởng anh đàng hoàng, té ra anh cũng sính tình cảm vụn. Lần này là lần cuối, lần sau anh đừng hòng mời tôi hoạt động chung với anh.

-Tuyết Lê cũng nói từ rày về sau, ông chú đa sự của nàng sẽ bị cho về vườn. Nào mời anh. Kẻ thiếu đàng hoàng là tôi xin đi trước.

Mahan nhìn theo Văn Bình, vẻ mặt nửa khâm phục, nửa thương mến. Văn Bình đáng là bậc thầy: giòng suối lặng lờ che giấu bên dưới một sức cuốn kéo ác liệt. Chàng vừa thả chân nó đã sủi bọt ầm ầm. Văn Bình nín thở để bớt nặng. Trong chớp mắt, chàng sang đến bờ đối diện, biến dạng sau những lùm cây xanh rì.

Mahan đợi chừng một phút mà có cảm tưởng dài lê thê như một giờ. Sau cùng, Văn Bình tái hiện. Mahan khệ nệ ôm thái tử Bô-kha. Hắn rẽ nước chầm chậm, hai chân luôn luôn tréo góc để giữ thăng bằng. Tuy hắn gia tăng thận trọng, giòng nước ma quái vẫn xô hắn về bên trái. Hắn mất trớn suýt chúi ngã. Văn Bình phải đỡ giùm gánh nặng cho Mahan. Hắn bước một mình, không phải vác Bô-kha còn bị giòng suối lấn át. Thế mới biết Văn Bình có sức mạnh khác thường.

Trèo lên bờ, Mahan loạng choạng vịn rễ cây. Chân hắn mỏi rừ. Gân cốt hắn như bị rần bằng roi cao su bọc chì, loại roi tra tấn không lưu lại thương tích mà rất hữu hiệu. Nước suối trong veo này được pha trộn lá cây có nhựa độc. Chất nhựa này ngấm qua lỗ chân lông vào nội quan làm sự yếu mỏi gia tăng tột độ. Đó là lý do khiến Văn Bình căn dặn Tuyết Lê đề cao cảnh giác.

Văn Bình vượt suối chuyến thứ ba với cái băng-ca cuốn tròn quặp ngang nách và khối thịt phì nộn, nặng như trái núi của Huy-gô tòng teng trên vai. Bước chân của Văn Bình kém hùng dũng và kém chính xác hơn hai lần trước. Dựa gốc cây, Mahan chứng kiến tường tận những cố gắng ghê gớm của bạn. Bề ngang con suối không lấy gì làm rộng mà Văn Bình phải dừng lại nhiều bận, miệng há hốc, thở bằng mũi và miệng, dường như buồng phổi bị dồn ép tối đa đang cần oxigen khẩn cấp. Đồng thời mặt chàng đỏ gay, còn đỏ hơn cả những đóa hoa cầm máu lấp loáng dưới nắng…

Văn Bình phải có một kho nghị lực vô tận, nếu không chàng đã sụm ngã giữa giòng. Chàng tưởng xỉu trên bờ, gần gốc cây Mahan nghỉ khỏe. Nhưng Mahan không tài nào đứng vững. Văn Bình thở phù phù rồi tiếp tục vác Huy-gô vào thạch động. Lưng chàng cúi gập như lưng ông già bị chứng cong xương sống. Chàng đi từng bước mà như bò lết.

Chàng kêu Mahan:

-Ráng lên. Bọn lính đến gần lắm.

Mahan lăn tròn trên đất. Chàng gượng bò bằng cánh tay. Mệnh lệnh của óc không sai khiến được thần kinh chi dưới được nữa. Hắn nghe tiếng « huỵch », tiếng Văn Bình gieo xuống nền động cùng gã Huy-gô đồ sộ. Lát sau lại thấy Văn Bình chân nam đá chân xiêu ở cửa hang. Tội nghiệp, bị mệt ứ hơi mà Văn Bình vẫn nghĩ đến bạn.

Thái độ hào hoa của Văn Bình như liều thuốc bổ màu nhiệm chích vào huyết quản giám đốc trú sứ Mahan. Hắn cười với Văn Bình rồi giang rộng vòng tay. Hai người ôm nhau, khập khiễng tiến vào bên trong thạch động.

Đây không hẳn là thạch động. Gọi là khe núi có lẽ đúng hơn vì nó chỉ là hốc đục sâu trong đá, không hơn không kém. Hốc này cao bằng đầu người Á đông, nghĩa là Văn Bình đứng thẳng thì đụng. Nó rộng vừa xoẳn một chiếc xe hơi nhỏ đậu lọt. Nó tọa lạc ở nơi thoáng gió, và nhìn về hướng đông, tia sáng mặt trời vẫn không chiếu đến nơi. Những đám cây leo nhằng nhịt như rắn quấn kết thành tấm bình phong kiên cố, người lạ tạt qua không nhìn thấy bên trong.

Vị thế thuận lợi này chỉ thuận lợi với Văn Bình nếu chàng có súng. Chàng có thể lừa toán lính lội suối rồi bắn tỉa từng tên. Khốn nỗi trong tay chàng không có lấy một tấc sắt. Cả những viên đá nhọn dùng thay phi tiễn cũng không. Nền hang nhẵn thín, chắc đây là « tổ ấm » của một gia đình hổ. Hổ chồng, hổ vợ, hổ con nằm ngủ ngày này qua tháng khác bào mặt đá trơn tru, láng bóng. Rừng Bhu-tan có một giống hổ lông vằn, khoái ăn thịt người. Họ hàng nhà hổ chắc ra ngoài kiếm mồi. Vô phúc chúng kéo về…

Văn Bình rờn rợn xương sống. Đi cũng dở, ở lại cũng dở. Một đàng là binh sĩ truy kích, đàng kia là hổ ăn thịt người. Thôi thì vái Trời đến đâu hay đến đấy.

Mahan đụng ngực Văn Bình, thì thầm:

-Mùi hôi hôi, tanh tanh…

Văn Bình đáp:

-Ngửi thấy rồi. Mùi hổ. Lẫn mùi thịt rữa.

-Đúng. Mùi hổ. Anh tính sao?

-Anh còn lửa không?

-Còn. Anh chặn bít luồng gió để tôi đánh diêm.

Gió từ đáy thạch động hắt ra. Nhè nhẹ. Lành lạnh. Mang theo âm thanh vi vu kỳ quái. Sự hiện diện của luồng gió này cho thấy hang đá không bị bít kín. Chắc có một lối nhỏ ăn thông với một hang đá khác trong lòng núi.

Mahan quẹt một hơi nửa bao diêm mà không cháy hoặc chỉ cháy thoáng rồi tắt phụt. Nguyên do không phải gió. Nguyên do là sự lóng cóng. Mahan sợ. Văn Bình thấy rõ bồ hôi chảy từng giòng, từng giòng trên mặt Mahan.

Đến que diêm thứ mười mấy, Mahan mới thành công. Hắn giơ cao, dưới ánh sáng vàng leo lét hiện ra đống xương trắng hếu. Xương ống dài, và xương đốt tay chứng tỏ đây là xương người. Nếu còn cố tình chưa tin thì mấy cái đầu lâu lăn lông lốc ở góc hang đã xác nhận hùng hồn tính cách ăn thịt người của gia đình hổ. Xương còn tươi. Một số còn dính thịt. Như vậy có nghĩa là những vụ ăn thịt người mới xảy ra. Hừ…đoàn người đào tẩu gồm 5 người, trên dưới 300 kí thịt. Một món quà trời ơi đất hỡi vô cùng quý báu đối với họ hàng chúa sơn lâm.

Mahan nói:

-Bất ngờ chúng nó về hang thì chúng mình thác…

Dĩ nhiên gia đình hổ sẽ làm thịt cả đoàn trong chớp mắt. Văn Bình có thể giết hổ bằng tay không. Nhưng đó là quần thảo với một con. Gặp một cặp, triển vọng thắng thế của chàng suy giảm rất nhiều. Vả lại, khả năng giết hổ bằng tay không của chàng chỉ được tận dụng hữu hiệu khi chàng sung sức. Giờ đây chàng mệt nhoài.

Văn Bình cũng sợ như Mahan. Bồ hôi lạnh cũng vã đầy như Mahan. Vì chàng là người cầm đầu, chàng không có quyền thú nhận sự sợ hãi. Chàng nói cứng:

-Chẳng sao, tôi có cách đối phó.

Tuyết Lê trở mình, thức dậy, hứng hắng ho. Văn Bình bịt miệng nàng:

-Đừng ho, em ơi.

Nàng tỉnh lại ngay. Nàng nắm tay chàng:

-Bọn lính?

Chàng đáp:

-Ừ.

-Anh điểm huyệt em?

-Hoàn cảnh bắt buộc.

-Rồi anh biết tay em.

-Suỵt. Tiếng chân người.

Mahan suỵt cô cháu gái vì tưởng nàng bô lô ba la như thường lệ. Không dè câu dọa « rồi anh biết tay em » chỉ là cớ để Tuyết Lê ôm cứng Văn Bình, hôn công khai trước mặt chú Mahan. Thái độ quấn quít quá lố của nàng làm Văn Bình ngượng ngùng. Nguy hiểm đang bủa vây tứ phía, chàng không còn lòng dạ nào thưởng thức sự mơn trớn đầy rung cảm của cô gái đa tình Ấn độ nữa.

Mahan lại suỵt.

Tốp lính lố nhố bên kia bờ suối. Chúng gồm 6 tên, nai nịt gọn ghẽ, dáng dấp hùng dũng, võ trang súng tốt đàng hoàng. Thoáng thấy tốp lính, Văn Bình muốn bật tiếng « ủa » kinh ngạc. Chuyến trước –cách đây không lâu- chàng ghé Bhu-tan chỉ gặp toàn binh sĩ ô hợp, phục sức rất « văn nghệ », súng ống từ thuở hồng hoang đến giờ chưa một viên đạn nào được bắn khỏi nòng.

Thật vậy. Quân đội Bhu-tan có lẽ là quân đội độc nhất trên thế giới xử dụng súng cà-nông bằng da. Vâng, bằng da. Họ lấy một loại da sơn dương khá dầy, phơi cho khô cứng, khâu nhiều tấm lại với nhau rồi cuộn tròn thành nòng đại bác. Chung quanh họ buộc đai sắt. Khẩu cà-nông da này bắn được, không phải để dùng làm đồ trang trí. Hồi quân đội viễn chinh Anh quốc lò dò đến hông Hy mã lạp sơn bất thần bị cà-nông từ đỉnh cao nã xuống như mưa. Sĩ quan Anh không hiểu binh sĩ chậm tiến Bhu-tan làm cách nào vận chuyển cà-nông lên đỉnh núi. Sau đó họ mới khám phá ra cà-nông da dê.

Tình trạng cà-nông da dê khó thể kéo dài muôn năm vì cả Ấn lẫn Trung hoa đều muốn nuốt chửng vương quốc. Ấn lên mặt cha chú chứ không chinh phạt. Bắc Kinh thì khác. Cướp được Tây tạng xong, họ xua quân đông nghẹt đến biên giới phía bắc Bhu-tan. Hoảng hồn, quân đội bèn vứt bỏ cung tre, súng ống dài ngoằng từ thuở thế chiến thứ nhất, và tấm khiên da tê giác cổ lỗ sỉ và mua sắm đồ mới.

Họ mặc kaki màu rêu, dận giày trận nhẹ, cầm súng cạc-bin. Bán tiểu đội được phân hai, một nửa lội qua suối, nửa kia chĩa súng lăm lăm bố trí canh phòng.

Văn Bình hy vọng giòng suối độc gây khó khăn cho tốp lính và làm chúng nản chí. Chàng không dè ba tên sang trước đã đặt chân lên bờ đối diện một cách thoải mái. Thì ra chúng sinh trưởng trong vùng. Nước suối chỉ tác hại với người lạ, hoàn toàn vô thưởng vô phạt đối với chúng.

Một tiếng oang oang:

-Tìm thấy dấu chân không?

Tiếng đáp:

-Không.

Hú vía! Nếu tốp lính đi ngược lên 10 mét, chúng sẽ thấy những khoảng cỏ ướt bị giẹp lép dưới sức nặng của cái băng-ca. Từ suối lên, Văn Bình đã vẩy nước tung tóe khắp nơi.

-Quái, bên này có dấu chân thật rõ…Không lẽ họ có phép tàng hình độn thổ…

-Bên ấy có dấu chân thật rõ là chuyện dĩ nhiên. Họ đâu dám vượt qua suối thiêng. Họ đến bằng máy bay, tất họ là người lạ. Tôi sống ở đây từ nhỏ mục kích tận mắt hàng chục người lạ báng bổ thần linh bị ngất xỉu sau khi lội suối một cách khinh miệt.

-Đúng, đúng, tao quên. Thôi chúng mày chịu khó lội về.

Tiếng lõm bõm vẳng vào tai Văn Bình. Rồi tiếng kêu cứu. Một trong ba tên lính bị sức mạnh ngầm của giòng suối cuốn trôi. Nạn nhân chới với giữa giòng, sắp sửa chìm nghỉm. Tên lính đi sau nhoài lên nắm tay bạn. Hắn bị nạn nhân hoảng hốt ôm cứng, níu xuống. Cả hai đều bị uống nước sặc sụa. Tên thứ ba bị mất tinh thần chỉ biết há miệng kêu la mà không biết làm gì để cứu bạn.

Báo hại ba tên còn lại trên bờ phải nhảy ùm xuống suối. Bầu không khí cực kỳ hỗn độn diễn ra. Tốp lính vứt súng, lưỡi lê và lựu đạn mỗi nơi một món, hì hục níu hai tên suýt chết đuối vào bờ. Rồi tất cả nằm lăn trên đất, thở như bò rống.

Trong đám lính, tên tiểu đội trưởng tỏ ra sung sức hơn hết. Hắn đi đi lại lại, tay xoa cằm bộ điệu suy tư. Chốc chốc hắn hỏi đàn em:

-Khỏe chưa, để còn đi.

Một tên năn nỉ:

-Anh cho chúng em nghỉ rốn mươi phút nữa. Mệt muốn chết luôn, anh ơi!

Tên tiểu đội trưởng hừ một tiếng tức bực. Hắn tiếp tục nện đế giày cồm cộp trên nền đất cứng. Bỗng hắn reo to:

-Dậy mau, dậy mau…Tao vừa thấy dấu chân.

Bọn lính nhao nhao:

-Đâu, dấu chân ở đâu?

Giọng tên tiểu đội trưởng khản đặc vì kinh hãi:

-Dấu chân « ông nội »…Phen này thì chết mất xác. Không phải một mà hai, ba…Chắc hang của « ông nội » quanh quẩn đâu đây. Tao vù trước. Thằng nào to gan lớn mật cứ ở lại để gặp « ông nội ».

Tên tiểu đội trưởng khoác khẩu tiểu liên vào vai, tất tưởi phóng xuống chân đồi. Bọn lính lếch thếch chạy theo, mặt xanh lè như nhuộm phẩm lục.

Đứng bên Văn Bình, Mahan run lẩy bẩy không khác bị kinh phong. Vì « ông nội » là tiếng lóng của người địa phương để chỉ giống hổ ăn thịt người. Hổ ăn thịt người rất hiếm. Trên khắp xứ Bhu-tan còn lại vài ba chục con. Hiền thì hiền như đất, hễ dữ thì không con thú nào bằng. Giống hổ ăn thịt người này là mối nguy số một của thợ rừng. Nó luôn luôn ẩn náu trong hang sâu và bụi rậm, chờ nạn nhân đi lạc là táp chết. Đuôi nó cứng như sắt, nó quật nhẹ là rập xương, gẫy lìa xương sống, răng nó dài và nhọn, nói ngoạm đầu cắn một miếng có thể nát sọ Nó rất khôn: cạm bẫy, thịt sống tẩm thuốc độc chẳng ăn thua gì đối với nó. Các nhà thiện xạ ra mặt là nó lẩn trốn. Vì vậy, trong nhiều năm liền, với nhiều đoàn thiện xạ võ trang tinh nhuệ, hữu hiệu lục lạo khắp thâm sơn cùng cốc, không con hổ ăn thịt người nào bị bắn hạ. Kết cuộc nó tiếp tục ngự trị và hoành hành trong rừng núi. Những ai lỡ gặp dấu chân của nó là rút lui…có cờ.

Mahan nói nhỏ:

-Hang cọp thật rồi, anh Z.28 ơi. Mà cọp « ông nội ». Mình phải đào tẩu càng nhanh càng tốt.

Văn Bình đáp:

-Hơi muộn. Khu rừng này là giang sơn của họ hàng nhà hổ. Đang lang thang trên đường mòn đụng nó còn dễ chết hơn.

-Đây là sào huyệt của nó. Bọn mình chiếm nhà nó, nó sẽ không tha.

-Đằng nào nó cũng không tha. Thà trêu ngươi nó, thà vuốt râu hùm. Anh để yên tôi tính. Mình ráng sức khiêng mấy phiến đá lại, chặn bít cửa hang, hổ sẽ hết lối vào. Nếu có đủ thời giờ, tôi đẵn cành cây làm ná, và vót tên vầu. Một con bị giết, những con còn lại sẽ cong lưng chạy hết.

-Nghĩa là mình cố thủ tại đây?

-Phải.

-Còn vấn đề về Nê-pal?

-Tạm gác. Việc gì phải đến sẽ đến, trái đang xanh lè có rung cây nó cũng không rụng. Như tôi nói hồi nãy, Tuyết Lê và tôi chờ xẩm tối lẻn vào đờ-dông ở sườn đồi sau rừng tre…

-Tôi ở trong hang này với trách nhiệm bắn hổ.

-Hy vọng gia đình hổ về hang trước khi tôi đi.

-Nhưng nếu …

-Nếu hổ về sau thì tôi đành chịu, chứ biết sao! Đáng tiếc là thân tôi không thể phân làm đôi, nửa đột nhập đờ-dông, nửa cầm cự với họ hàng ông ba mươi giùm anh. Thôi, đừng lý sự cùn nữa, mình kéo nhau ra ngoài, kiếm đá tảng và khí giới.

Thái tử Bô-kha và hoa tiêu Huy-gô còn đắm mình trong giấc điệp. Văn Bình vẫy Tuyết Lê theo chàng ra cửa thạch động. Sau những phút dài giằng giặc trong hang, ngửi quen hơi thối thum thủm của thịt rữa, trộn với mùi hôi của hổ dữ, Văn Bình cảm thấy không khí bên ngoài là liều thuốc bổ thần tiên. Tốp lính đã biến dạng. Tiếng chân người nhòa hẳn vào khoảng xa. Đâu đây chỉ còn tiếng suối reo, tiếng gió thổi.

Mahan chỉ một tảng đá trắng như đường phèn nằm sát bờ suối. Văn Bình quỳ xuống đẩy thử rồi nói:

-Nặng quá. Anh và tôi lay không chuyển, đừng nói là khiêng nổi. Giá Huy-gô không què chân thì…

Một giọng nói đàn ông ngắt lời chàng:

-Sẵn sàng. Què chân chứ tay không què…

Hoa tiêu Huy-gô đã ra đến gần chỗ hai người. Quả hắn là kho nghị lực vô tận. Hắn không di chuyển được bằng chân thì xử dụng bằng tay. Hắn có lối bò nhanh nhẹn như người lính dù thiện chiến mặc dầu toàn thân hắn là khối thịt bề thế cộng thêm đống bông băng ở lưng và đùi. Huy-gô ngước mặt, vừa nói vừa cười.

Tuy mặt mũi đỏ gay sau hồi vận sức, tảng đá ác ôn vẫn không thèm nhúc nhích. Văn Bình đành lặng lẽ thú nhận sự bất lực của mình. Nước suối độc đã làm sức mạnh của chàng vơi giảm phân nửa. Chàng cần được nghỉ ngơi, thưởng thức một bữa cơm bổ dưỡng và ngủ một giấc dài.

Mahan lắc đầu chán nản:

-Chịu. Chung quanh hang không có tảng đá nào nhỏ cả. Tảng này tương đối nhỏ nhất.

Huy-gô bỗng thở phì phì rồi đưa một tay lên không:

-Có tiếng động cơ. Phải rồi, tiếng máy bay. Không khéo Pi-ô cũng nên.

Tai hắn thính thật. Văn Bình phải nghiêng về phía gió thuận mới nhận được tiếng rì rì độc đáo của phi cơ nhẹ. Huy-gô cuống quýt:

-Băng-ca đâu, phiền các anh khiêng tôi ra chỗ trống.

Cách thạch động gần trăm mét về mạn ngược là ngọn đồi trọc. Trong khoảnh khắc, Huy-gô được khiêng đến chân đồi. Nếu trèo được lên đỉnh đồi, đoàn người mắc kẹt dưới đất có nhiều hy vọng lọt vào tầm mắt quan sát của phi công. Chân đồi bị cành lá um tùm che khuất, hy vọng tiếp cứu chỉ là con số không to tướng. Bằng mọi cách, một người trong đoàn phải lên đỉnh đồi trước khi phi cơ bay qua…

Chấm đen lớn dần, lớn dần ở phía tây. Mặt trời qua khỏi đỉnh đầu, và bị đám mây trắng xóa bao phủ. Vị trí này rất thuận tiện để phi công lục soát bên dưới.

Huy-gô la lớn:

-Phải rồi, đúng là chiếc Thiên mao của Pi-ô…

Văn Bình co chân nhảy qua đám bụi cây đầy gai nhọn tua tủa. Rồi chàng cắm đầu cắm cổ chạy lên đỉnh đồi. Tất cả những gì là tinh hoa của nghệ thuật khinh công điêu luyện đều được chàng dồn xuống đôi chân. Trên đường phẳng, khinh công mới có đủ điều kiện thi thố toàn vẹn. Lộ trình hiểm trở, từ thấp lên cao, thường bất lợi, võ sĩ khinh công lại phải cố gắng tối đa.

Văn Bình vấp ngã nhiều lần. Chàng chỉ bị trầy da, chảy máu, tốc độ bị chậm lại chứ chưa lần nào phải nằm mọp. Còn cách đỉnh đồi 50 mét, chàng sa chân xuống cái hố khá sâu. Cũng may đáy hố có nước và đất bùn, nếu không chàng đã mang thương tích trầm trọng. Chàng xây xẩm mặt mày, nước bẩn ập vào mắt, mũi và miệng. Vất vả một hồi chàng mới rút được hai chân khỏi bùn.

Phi cơ sau rừng tre vừa xuất hiện. Nó là phi cơ một máy, nhỏ bé, mảnh khảnh. Văn Bình chưa lên khỏi hố nước, không thể nhìn thấy nó. Phi cơ bay rất chậm, gần như bám sát ngọn cây. Loại Thiên mao nhẹ như lông này được CIA dùng trong điệp vụ trinh sát, không những nó được trang bị ống ảnh cực tốt, hoa tiêu có điều kiện quan sát dưới đất bằng hệ thống viễn kính đặc biệt.

Nó chỉ chở được một người. Những ống ảnh lắp dưới cánh và ngang hông được tháo gỡ, điều này có nghĩa nó có thể hạ cánh bốc thêm một hành khách nữa.

Một sự trớ trêu đã khiến phi cơ không lượn bên trên cái hố bùn nơi Văn Bình sẩy chân. Đang bay thẳng, nó đổi hướng. Thình lình nó rú ga lớn, vọt lên cao rồi biến dạng sau lớp mây trắng.

Văn Bình thở dài cay đắng. Chàng đã bỏ vuột cơ hội thoát thân giữa lúc nó đến trong tầm tay.

Chàng lảo đảo trở xuống đồi. Miệng chàng lầm bầm như người mất trí:

-Hết, hết!

Hết thật rồi. Pi-ô chỉ huy trưởng Căn cứ vận tải 906 đích thân lái chiếc Thiên mao từ đồn điền trà bí mật bị ngập nước ở Át sam đến Phun-sô-linh, và sau nhiều giờ kiên nhẫn, thận trọng, phải quay về với bản báo cáo chua chát: « hết hy vọng ».

5 rưỡi sáng, Pi-ô phúc trình tai nạn của chiếc phi cơ tiếp cứu do Huy-gô điều khiển.

5 giờ 50 phút, giờ địa phương, từ Trung ương CIA ở Lan-gờ-li, ông tổng giám đốc Sì-mít gửi khẩn điện cho Pi-ô, ra lệnh tìm kiếm phi cơ lâm nạn. Hoa tiêu đang nằm liệt giường vì bệnh sốt rét rừng. Không ai lái, trừ Pi-ô. Theo chỉ thị, Pi-ô phải túc trực tại phòng chỉ huy của căn cứ, không được bay trên trời. Vì nếu Pi-ô vắng mặt, mọi hoạt động viễn thông sẽ bị tê liệt.

Pi-ô đành xin phép ông tổng giám đốc.

Mãi đến 6 rưỡi sáng, ông Sì-mít mới cho phép. Chắc trong khoảng thời gian từ 6 giờ đến 6 rưỡi, ông Sì-mít phải liên lạc với các trạm CIA gần rặng Hy mã lạp sơn dặn họ tạm thời thay thế nhiệm vụ viễn thông của căn cứ 906.

Pi-ô gọi điện thoại báo tin cho vợ. Rồi y mở cửa hầm, đến nơi đậu chiếc Thiên mao. Nếu là mùa khô chỉ cần 30 phút sửa soạn dưới hầm là cất cánh được. Đây lại là mùa nước. Sông thần Brahmaputra cuồn cuộn kéo đến. Đồng ruộng, rừng rú, nhà cửa ngập nước trắng xóa. Do đó Pi-ô phải chuẩn bị trong hai tiếng đồng hồ.

Khi đồng hồ tay chỉ 8 giờ 40 phút thì chiếc Thiên mao với Pi-ô cầm lái rời sân bay kín đáo giấu trong núi, nhằm tây-bắc trực chỉ.

Không lực Bhu-tan chưa có rađa và các tiện nghi phòng không nên Pi-ô không mấy lo ngại. Bay ở đây chỉ ngán sương và núi. Trời nắng chang chang, hoa tiêu cũng không dám lè phè vì những giẫy núi không có tính cách liên tục, đùng một cái nó hiện ra sừng sững như che kín không gian, đùng một cái nói mất tích như trong chuyện thần thoại. Những buổi sa mù dầy đặc, hoa tiêu phải điều khiển con chim sắt không những bằng cơ khí điện tử, mà còn bằng lục phủ ngũ tạng vì chung quanh phòng lái là bốn bức tường trắng dật dờ, ảm đạm như vải liệm xác chết.

Đường bay từ căn cứ 906 không lấy gì làm xa, nhưng vì có quá nhiều sương Pi-ô phải hạn chế tốc độ, và hơn một giờ sau mới đến làng Chimakôti.

Nhờ thời tiết quang đãng, Pi-ô thấy ngay đống sắt phi cơ cháy đen. Binh sĩ và an ninh địa phương đã có mặt tại chỗ. Pi-ô không thể lần khân, sợ họ ngờ vực. Y bay đảo qua một vòng, đủ thời giờ chụp hình, rồi chuồn thẳng.

Cách Chimakôti 50 cây số, Pi-ô lộn lại, nương theo những khu rừng và đồi trọc xen kẽ nhau dẫn đến biên giới Sik kim. Pi-ô cố bám lấy hy vọng mong manh là tìm thấy đoàn người đào tẩu ở dọc đường. Tuy nhiên, y không thể bay hoài, bay mãi. Pi-ô miễn cưỡng phải quay về trước khi chiếc Thiên mao tiêu thụ hết những giọt xăng cuối cùng.

Pi-ô tính không sai. Khi chiếc Thiên mao hạ cánh xuống phi đạo bí mật thì thùng xăng cạn rặc.

Bức điện Pi-ô chuyển về Trung ương hàm chứa một sự buồn nản ghê gớm:

« Tuân lệnh Trung ương, tôi đích thân lái chiếc Thiên mao đi tìm phi công Huy-gô và đoàn người bị kẹt. Phi cơ của Huy-gô đã bị cháy ra than ở tọa độ 4322 tây-tây-nam làng Kôn. Không thấy Huy-gô. Nhân viên chính quyền Bhu-tan đã bủa vây nơi phi cơ bị nạn, tôi không thể đáp xuống. Tôi bay thêm 30 phút, trong đường kính 100 cây số của tọa độ 4322 và không thấy gì. Thiếu nhiên liệu, tôi đành phải gián đoạn cuộc tìm kiếm.

Nếu căn cứ 906 còn nhiên liệu, tôi có thể chuẩn bị một chuyến bay mới vào ngày mai. Không thể bay buổi chiều vì sương mù quá nguy hiểm, và khí tượng tiên liệu nhiều gió mạnh. Việc chuẩn bị cho ngày mai không thể thực hiện vì lẽ căn cứ không còn lít xăng nào nữa. Hầm chứa nhiên liệu bị ngập nước sông Brahmaputra, không rõ lý do.

Nói cách khác, kể từ giờ phút này, căn cứ vận tải 906 hoàn toàn bị tê liệt.

Chờ đợi chỉ thị mới.

Trân trọng.

Pi-ô »

Giờ ở Lan-gờ-li, gần thủ đô Hoa thịnh đốn sớm hơn giờ căn cứ vận tải 906, Át sam, đúng nửa ngày. Giữa trưa ở 906 là nửa đêm ở tổng hành doanh CIA của ông Sì-mít.

Trú sứ Tân đề-li bị tê liệt, giám đốc Phờrôn và các cộng sự viên bị chết hoặc loại khỏi vòng hoạt động. Ông Sì-mít còn đặt tin tưởng vào khả năng lật ngược thế cờ của các phi công vận tải ma quái ở căn cứ 906. Sau khi đánh điện thỉnh cầu ông Hoàng đảm nhận toàn bộ điệp vụ Hoa Sen, và được ông Hoàng « ô-kê », ông Sì-mít bỏ ăn, bỏ ngủ, bỏ hết công việc, ngồi chờ tin tức của Pi-ô.

Bức điện của Pi-ô làm ông choáng váng. Ông dựa ghế, nhắm mắt giây lâu mới khỏi té xỉu.

Ông kêu đại tá Pit lại gần, đọc một bức điện mới, gửi ngay cho ông Hoàng.

Nội dung của nó có đoạn như sau:

« Công tác tiếp cứu Z.28 và Bô-kha hiện thất lạc trong vùng Chimakôti, chung quanh tọa độ 4322, bị trục trặc.

Và công tác này đã hoàn toàn bãi bỏ.

Thành thật thú nhận với ông là ở khu vực Hy mã lạp sơn tôi không còn chiếc phi cơ tiếp cứu nào khác. Giờ phút này, tôi xin chịu bó tay.

Tôi hy vọng ông có đủ tài ba và phương tiện để cứu chúng tôi và điệp vụ Hoa Sen ra khỏi ngõ bí. Vấn đề phí tổn không đáng kể. Miễn hồ mang được Bô-kha về đến Nê-pal, chặn đứng mưu đồ của phe soán nghịch khuynh tả. Phí tổn bao nhiêu, chúng tôi cũng xin sẵn sàng thanh toán. »

Bức điện được chuyển đi. Ông Sì-mít ngồi thừ, mặt tái mét. Đại tá Pit săn đón:

-Ông bị cảm, tôi xin kêu y sĩ?

-Tôi đang khỏe như vâm, anh thấy tôi già, anh rủa tôi chết, phải không?

Pit hết hồn:

-Thưa ông, tôi đâu dám hỗn xược. Chẳng qua tôi thấy mặt ông xanh mét, tay ông run, bồ hôi vã ra đầy trán.

Ông Sì-mít cười gượng:

-Thần kinh tôi đang căng thẳng. Tôi nóng nẩy, lỡ lời, anh đừng giận nhé. Không bị cảm. Đau ruột thì có.

Pit xun xoe:

-Vâng, hồi tối ông dùng cà phê quá đặc. Bụng ông vốn yếu, năm ngoái ông lại mổ ruột dư…

-Cái anh này chẳng chịu hiểu gì cả. Tôi đau ruột, nhưng không phải là đau ruột. Ruột tôi còn tốt nguyên.

-Vậy thì…

-Bệt, bệt…không ngờ càng có nhiều con anh càng bệt. Tôi đau ruột vì sắp phải chi tiền.

-Cho ông Hoàng?

-Phải. Chuyến trước, Z.28 tính sổ hơi nặng khiến tôi mè nheo, suýt nữa ông Hoàng mất lòng. Do sự kỳ kèo lôi thôi này, ông Hoàng không mấy sốt sắng với điệp vụ Hoa Sen. Sợ ông ta lừng khừng, tôi đành bấm bụng hứa « vấn đề phí tổn không đáng kể »…Thế là tôi đứt ruột đến nơi. Được thể, ông già Sàigòn chẳng ngần ngại mài dao cạo thật sắc…Tồi ra cũng từ 5 triệu trở lên. Trong vòng hai năm nay, ta trả cho ông Hoàng trên dưới một trăm triệu đô la. Anh tính, số tiền lớn như vậy bảo tôi không đau ruột sao được?

Ông tổng giám đốc CIA nhăn mặt, ôm bụng.

Tại Sàigòn, ông Hoàng không nhăn mặt, ôm bụng như ông Sì-mít. Mặt ông lộ vẻ hoan hỉ rõ rệt. Bức điện của ông Sì-mít được đặt trên bàn ông. Những chữ « vấn đề phí tổn không đáng kể » đập mạnh vào mắt ông. Thường ngày, hễ ông bỏ kiếng -cặp kiếng dầy cộm- ông không nhìn thấy gì. Giòng chữ của ông Sì-mít như có phép lạ chữa ông Hoàng khỏi bệnh cận thị nặng.

Trước mặt ông là tập hồ sơ cao một tấc, bọc bìa cứng màu đỏ, ngoài đề chữ « Nê-pal, Bhu-tan, Ấn độ ». Một bản đồ tiểu lục địa Ấn được treo ngay ngắn trên tường, kích thước khổng lồ, gấp đôi bản đồ tham mưu lớn nhất. Trên bản đồ, cả những làng mạc bé nhỏ, những con rạch vô danh cũng được ghi rõ.

Lê Diệp, phụ tá kiêm vệ sĩ của ông Hoàng, đứng cạnh bản đồ, tay cầm cây can gắn ở đầu một ngọn đèn sáng. Cây can này được dùng để chỉ địa điểm trên bản đồ.

Ông Hoàng ngẩng đầu nhìn Lê Diệp:

-Anh dặn Nguyên Hương liên lạc với văn phòng ông Sì-mít đòi cho vụ này 4 triệu.

Lê Diệp hơi ngạc nhiên:

-Thưa giá biểu của ta là 2 triệu đối với vụ dễ, nhân đôi thành 4 triệu nếu là vụ khó. Khó hơn nữa, như điệp vụ Hoa Sen thì tăng thêm 50 phần trăm. Nghĩa là nếu giầu lòng thông cảm với ông Sì-mít, ta cũng phải đòi 6 triệu. Vâng, 6 triệu mỹ kim là tối thiểu. Phương chi ông Sì-mít đã tuyên bố minh bạch « vấn đề phí tổn không đánh kể, bao nhiêu chúng tôi cũng xin sẵn sàng thanh toán… »

-Vậy anh muốn 6 triệu?

-Dạ, tối thiểu 6 triệu.

-Ông Sì-mít đang nghĩ như anh, nghĩa là tối thiểu tôi đòi 6 triệu. Không cứ 6 triệu, giá tôi bắt bí 7, 8 triệu, ông ta vẫn phải chấp nhận. Nhưng anh ơi, mình cần thả con săn sắt, bắt con cá rô…Mình tự động giảm giá xuống mức thấp không ngờ tới, ông Sì-mít sẽ cảm kích mà quên những điệp vụ trong quá khứ bị …chém khá đau. Sau điệp vụ Hoa Sen, ông Sì-mít còn nhờ Văn Bình một việc quan trọng khác. Hừ, khi ấy giá biểu tăng lên cũng chưa muộn. Anh hãy luôn luôn nhớ điều này: mình làm thuê cho mấy ông nhà giàu, họ coi đồng tiền liền khúc ruột, họ không rộng rãi, không hào hoa phong nhã như anh tưởng đâu. Họ làm không nổi họ phải nhờ đến mình. Mình đòi quá, họ bỏ mình. Không có mình, họ không chết. Mình không có tiền của họ, mình có thể chết. Ăn ít no lâu, ăn nhiều chóng đói. Anh nhớ chưa?

-Dạ…

-Anh đứng đấy làm gì nữa? Dặn Nguyên Hương sửa soạn cần câu. Bữa nay là kỳ câu cá gáy, anh quên ư?

Lê Diệp bàng hoàng, suýt buông rớt cây can:

-Thưa, tôi vẫn nhớ…nhưng còn Văn Bình…

Ông Hoàng mỉm nụ cười nhân từ, nụ cười của vị linh mục trước con chiên phạm lỗi:

-Anh muốn sử sự như thế nào?

-Thưa, Sở có một hệ thống điệp viên khá hùng hậu quanh vùng Hy mã lạp sơn. Ta có thể kêu người từ Sik kim vượt biên giới qua Bhu-tan, từ Át sam ngược lên, hoặc từ Thimbu xuống để …giải thoát cho Văn Bình.

-Giải thoát…nghĩa là, theo sự suy luận của anh, Văn Bình và mọi người trong đoàn đã bị bắt. Anh không nhớ điệp viên của chúng ta có loại đồng hồ điệp báo đặc biệt, có thể báo tin về Sở bằng cách đập vỡ mặt kiếng, tín hiệu S.O.S. sẽ phát ra…

-Vâng, vâng, Văn Bình cũng có chiếc đồng hồ tuơng tự…

-Nói cách khác, Văn Bình, Mahan, Tuyết Lê và thái tử Bô-kha chưa bị bắt…

-Dạ, nhưng…

-Tôi nghĩ có điều gì trục trặc, Văn Bình cần thời gian và hoàn cảnh thuận tiện để giải quyết. Đồng hồ Văn Bình được trang bị thêm một hệ thống phát âm một chiều. Anh ta có thể nói trong 2 tích tắc đồng hồ, nghĩa là anh ta có thể cho tôi biết vị trí chính xác hầu tôi cho phi cơ đến bốc lên. Tại sao Văn Bình nín thinh?

-Thưa ông, tôi bắt đầu hiểu…

-Tôi chưa gọi các nhân viên ta quanh vùng là vì thế. Thứ nhất, Văn Bình chưa cho biết vị trí thì sự hiện diện của lực lượng tiếp cứu trở nên vô ích. Thứ hai, một phần nhân viên ta quanh vùng Hy mã, như Mahan chẳng hạn, đã có liên hệ xa gần, công khai hoặc kín hở, với trú sứ CIA và MI-6 địa phương. Trú sứ do Phờrôn điều khiển ở Tân đề-li bị loại khỏi vòng chiến, nhân viên của ta cũng bị « dính » không nhiều thì ít. Để bảo vệ tính cách hữu hiệu và bí mật, tôi chỉ có thể triệu thỉnh một số nhân viên « chìm » trăm phần trăm, từ trước đến nay trà trộn trong tổ chức của địch hoặc trong chính quyền sở tại, tuyệt đối không hoạt động. Anh thấy không…địch chờ sẵn, nhân viên « chìm » của ta ló đầu ra lo họ chộp. Ta mất bao nhiêu năm tháng, bao nhiêu tiền của, bao nhiêu hy sinh, địch quét gọn trong chớp mắt. Hừ…địch chơi cút bắt với mình đây. Văn Bình đọc thấu gan ruột địch. Anh đừng lo. Văn Bình không lạ gì tên tuổi một số nhân viên « chìm » của tôi trong vùng. Khi cần, anh ta có thể nhờ cậy họ. Hừ…anh đừng tưởng Z.28 chỉ nghiện rượu và mê gái. Giờ Sàigòn không chênh lệch mấy với giờ Bhu-tan. Sàigòn 13 giờ thì Bhu-tan đúng ngọ. Chắc tối nay mới có chuyện, nên tôi dự định đi câu cá gáy đến chiều (xem « Cuba đêm dài không sáng » )

-Thưa ông, nghe nói cô Tuyết Lê…

-Ừ, Tuyết Lê, cháu của Mahan. Anh có tin tức gì?

-Thưa, tôi sợ cho Z.28…Dường như đàn bà Ấn độ có bùa yêu.

-Chắc lại mấy cô đa đoan bên ban Biệt vụ nhờ anh « hù » tôi. Phụ nữ đẹp nước nào, thời nào đều có bùa yêu, không riêng gì phụ nữ Ấn dưới thời nguyên tử năng. Lâu lắm, tôi chưa có dịp tâm sự với anh: anh đừng tưởng tôi ghét đàn bà. Già gần kề miệng lỗ như tôi lại đa mang đủ thứ bệnh: bệnh tim, bệnh phong thấp, bệnh thận, bệnh bao tử thế mà khi gặp người đẹp, tôi vẫn còn rung động. Huống hồ trai tráng khỏe đẹp, nồng nhiệt như Văn Bình. Thôi anh đừng nói nhiều lời, bảo tài xế đánh xe ra ngay kẻo tôi ngủ quên bây giờ…Tình hình Bhu-tan sắp nổ lớn rồi đó.

Như bừng tỉnh mộng, Lê Diệp chạy ra phòng ngoài. Chàng « sếu vườn » đã hiểu tính ông Hoàng. Ông cần dưỡng sức trước khi bắt tay vào công việc nặng nhọc, với nhiều giờ, nhiều đêm miệt mài bên đống hồ sơ và hệ thống chỉ huy viễn thông. Dưỡng sức đối với ông là đi câu cá gáy rồi lim dim ngủ bên bờ sông. Cực chẳng đã ông mới ngủ gục trên bàn giấy.

Sợ ông tổng giám đốc ngủ gục, Lê Diệp hoàn thành công tác trong vòng 2 phút đồng hồ ngắn ngủi. Khi chàng hối hả trở vào thì ông Hoàng đã ngáy khò khò. Lê Diệp rón rén bước lại nơi tắt đèn. Chàng vừa đặt tay vào núm bật thì chuông điện thoại reo. Mới xế trưa, Nguyên Hương tưởng ông Hoàng đang nghiên cứu hồ sơ nên nàng gọi ông. Nếu nàng biết ông cần dưỡng sức, nàng không dám quấy rầy.

Ông Hoàng choàng tỉnh. Ông ngoắt tay cho Lê Diệp:

-Tin tức Nê-pal. Anh nghe dùm tôi. Nói là tôi biết rõ. Đêm nay, sau khi được Z.28 báo cáo sẽ liệu.

Ông tổng giám đốc chụp mũ kết vào đầu. Ngồi dưới cây sung có bóng rợp nhưng cũng có những tia nắng xiên khoai quái ác, ông luôn luôn đội nón.

Dáng dấp bình thản, ông Hoàng đốt điếu xì gà Havan, loại xì gà đặc biệt Z.28 đích thân mang từ thủ đô Havan về Sàigòn cho ông nhân một chuyến vuốt râu hùm trên đảo Cuba. Nhìn ông, đố ai biết được nội tâm ông đang sôi sục cực độ trước những diễn tiến cũng sôi sục không kém.

Những diễn tiến từ Bhu-tan đến Nê-pal…