← Quay lại trang sách

Chương VIII Lộ trình sôi sục

Từ Bhu-tan đến Nê-pal, đúng như lời ông Hoàng tuyên phán, tình hình đang sôi sục thật sự…

Thủ đô Kát-man-đu mất hản tính chất trầm lặng, khề khà cố hữu, vì lễ « bò thần », một trong các hội vui lớn nhất trong năm rầm rộ bắt đầu. Ngày thường, Kát-man-đu là thị trấn nửa vui tươi, nửa tẻ ngắt. Vui tươi với những ngôi nhà sơn phết màu sắc chói lọi. Nhà tu mặc cà sa vàng đông đặc trên đường phố, với những đám trẻ ngây ngô chỉ biết cười hở hai hàm răng với bất cứ ai. Tẻ ngắt với các cửa hàng tối om, người bán ngồi xổm trên ngưỡng cửa, tơ lơ mơ với điếu thuốc say « cây nhà lá vườn », với những trẻ nít tòng teng trên đầu quang gánh của cha mẹ chúng, tòng teng như đang gánh nước.

Bầu không khí từ vùng thôn dã xa xôi đến ngoại ô thủ đô mỗi lúc một thêm náo nhiệt. Dân chúng phục sức lòe loẹt, lũ lượt đổ về, cùng đoàn « bò thần ». Lễ « bò thần » kéo dài cả tuần. Tối hôm ấy, cuộc lễ chính thức bắt đầu…

Sự hân hoan của dân chúng không che lấp được bầu không khí căng thẳng đang buông xuống thị trấn. Mọi lối ra vào thành phố đều có xe bọc sắt và binh sĩ võ trang tận răng chắn giữ. Trong quá khứ, vấn đề kiểm soát giấy tờ ít khi được đặt ra vì giấy tờ tùy thân là xa xỉ phẩm. Người bản xứ luôn luôn quên mang theo hoặc quên xin chính quyền cấp phát. Do đó, những nút chặn bất thường này làm một số đường bị tắc nghẽn.

Một yếu tố khác đã gia tăng sự tắc nghẽn: đó là những cuộc chuyển dịch như thoi đưa của nhiều đoàn xe hơi lộng lẫy, công xa của các yếu nhân đến phủ Thủ tướng tham dự một phiên họp khẩn cấp. Nê-pal không phải là xứ có nhiều thời sự nóng bỏng, mọi việc đều xảy ra theo nhịp độ bình thường. Hội đồng Nội các nhóm họp cho có chuyện. Thật ra chẳng có gì quan trọng để làm. Các yếu nhân giáp mặt nhau, mỗi tháng hoặc vài ba tuần một lần, với mục đích trao đổi những lời thăm hỏi, rồi sau đó bệ kiến quốc vương. Ngay cả việc bệ kiến cũng được tỉnh giảm triệt để: vua cha luống tuổi, không màng tới chính sự, thái tử thì ở nước ngoài. Mọi quyền bính được tập trung vào một nhóm nhỏ do tướng Khẩu Cầm giựt dây, nên từ nhiều tháng qua, việc triệu tập Hội đồng Nội các chỉ còn là một thủ tục vô nghĩa nhàm chán.

Những cuộc họp cao cấp luôn luôn được tổ chức vào buổi chiều để kết thúc bằng dạ tiệc thịnh soạn. Lần này, giờ họp diễn ra giữa trưa nắng chang chang. Đến bữa ăn mà phòng họp chỉ có nước trà nóng, thuốc hút và bánh ngọt. Thủ tướng, một lão thần gần 70, mắc bệnh phong thấp kinh niên, không thể đến chủ tọa, và ủy quyền cho « cụ phó ».

Gọi là « cụ phó » thật ra phó Thủ tướng chỉ trên ngũ tuần. Nếp sống nhàn nhã hưởng thụ tối đa làm cụ đỏ da thắm thịt tới mức căng áp huyết, thành ra cụ chỉ mang cái mã khỏe mạnh, còn tạng phủ là hòn hỏa diệm sơn chưa biết phun lửa tàn phá lúc nào. « Cụ phó » nổi tiếng về tác phong dĩ hòa vi quý. Cụ không muốn làm mích lòng ai. Phe tướng Khẩu Cầm đang làm mưa làm gió tuy cụ không tán thành, cụ cũng không bao giờ chống đối.

Phiên họp bất thường của Hội đồng Nội các được « cụ phó » khai mạc bằng câu nói ngắn:

-Như quý vị rõ, tình hình nước ta trong mấy ngày nay rất khẩn trương. Sau khi xin lệnh hoàng thượng, cụ Thủ tướng mời quý vị đến đây bàn bạc. Những việc đã xảy ra, và những biện pháp đã và sắp được áp dụng có liên hệ tới lãnh vực quân sự an ninh, nên tôi xin nhường lời cho thiếu tướng Khẩu Cầm.

Với cánh tay trái bị bó bột cứng nhắc, tướng Khẩu Cầm càng tăng vẻ hiên ngang. Ông đứng dậy, nghiêng đầu chào một vòng quanh bàn họp rồi ngồi xuống ghế bành. Vệ sĩ riêng của ông kéo cái ống vi âm lại gần. Phòng họp yên lặng, không ai dám thở mạnh. Cửa phòng được đóng kín. Khẩu Cầm đến bằng xe bọc sắt được hộ tống hùng hậu. Vệ sĩ của ông gồm một tiểu đội võ trang đủ loại và cỡ súng. Một sơn nhân khổng lồ khoanh tay đứng hầu sau lưng. Hai sơn nhân vạm vỡ khác án ngữ cửa chính vào phòng họp. Những sự bố trí chặt chẽ này cho thấy Nê-pal sắp bước vào thời nguy biến trầm trọng.

Tướng Khẩu Cầm nói:

-Tôi sẽ không làm quý vị mất nhiều thời giờ. Tôi sẽ đưa ra một số chứng cớ về mưu đồ đen tối của địch nhằm lật đổ chính phủ, đưa Nê-pal vào vòng nô lệ ngoại bang. địch ở đây là CIA, và ngoại bang ở đây là Mỹ. Tình báo CIA tung tiền bạc ra mua chuộc một số phần tử phản nghịch, như tên Thu-lát và đồng lõa của Thu-lát mà tôi đã nắm được tên tuổi. Theo lời cung khai của tên Thu-lát trước khi chết, CIA dự định tổ chức đảo chính, hạ sát quốc vương và thái tử tôn kính của chúng ta. CIA cử một nhân viên cải trang làm híp-py đến Kát-man-đu gặp Thu-lát để cầm đầu cuộc đảo chính. Nhờ sự mẫn cán đắc lực của lực lượng an ninh, và nhất là nhờ hồng phúc của quốc vương, chúng ta đã hạ sát được tên gián điệp híp-py, đồng thời phăng ra đầu dây của chúng.

Kế hoạch thâm độc này bị xuyên thủng, hai tên CIA quan trọng khác nhập nội với tư cách thương gia đồ cổ và nhân viên phái đoàn thám hiểm người tuyết, đã cướp phi cơ nhẹ của ta với hy vọng trốn thoát khỏi nước ta. Đơn vị phòng không của ta đã bắn trúng phi cơ gần biên giới. Chúng lết đến gần Lôi địa thì bị rớt. Ta đã liên lạc với Ấn độ để tiến hành công cuộc bắt giữ hai tên gián điệp, và điều tra ngọn ngành.

Những thất bại liên tiếp ấy khiến địch phải đốt cháy giai đoạn. Theo tin tức đích xác trăm phần trăm, CIA vừa cho nhiều biệt kích tình báo nhảy dù xuống nước ta, tìm cách khuấy động, súi giục bộ lạc này xung đột với bộ lạc kia, chơi trò ngao cò tranh chấp, ngư ông thủ lợi, nhằm xâu xé nước ta làm 10 mảnh theo đường phân chia của 10 bộ lạc.(1)

Tình trạng này phải được ngăn chặn kịp thời. Những tên phản nghịch sửa soạn tiếp tay cho địch cũng phải được hóa giải. Cuộc họp bất thường này được triệu tập để quý vị đồng thanh thỉnh cầu quốc vương ban hành những biện pháp bất thường. Nếu không, tổ quốc chúng ta sẽ biến thành vùng đất mất tự do, nghèo nàn, ngu dốt. Bản kiến nghị đã được thảo sẵn, mời quý vị đặt bút ký, sau đó « cụ Phó » và tôi sẽ thay mặt quý vị tới bệ kiến quốc vương.

Tướng Khẩu Cầm mở tép da lấy ra 3 tờ giấy đánh máy. Nơi ghi « chữ ký » đã có sẵn chữ ký của thủ tướng và phó thủ tướng. Hai tờ giấy được chuyền lần lượt từ đầu xuống cuối bàn. Mọi người lẳng lặng cầm bút. Không ai dám hé môi vì biết nói vô ích, phe Khẩu Cầm không những gạt bỏ ngoài tai, ngoài ra họ còn rước họa vào thân nữa. Phiên họp Nội các cũng như bản kiến nghị chẳng qua là một hình thức bầy hàng…

Phân nửa cử tọa đã ký, hai tờ giấy được đẩy đến trước mặt ông bộ trưởng bộ Tục lệ. Ông bộ trưởng không cúi đầu xuống như những vị khác. Ông cũng không cầm bút. Ông ngước mặt nhìn tướng Khẩu Cầm, giọng sang sảng:

-Tôi có điều thắc mắc muốn được thiếu tướng giải tỏa.

Khẩu Cầm nhổm đít khỏi ghế bành:

-Vâng, mời ông.

Ông bộ trưởng bộ Tục lệ, trạc 48, 49, phục sức xuềnh xoàng nhưng đứng đắn, vầng trán rộng, cặp mắt sâu và sáng. Thoáng nhìn ông, người ta thấy ngay ở ông một sự cương quyết sắt đá. Con người như ông chỉ có thể tan xương nát thịt chứ không thể đầu hàng trong ô nhục. Tướng Khẩu Cầm và đồng bạn của ông hiểu rõ điều đó. Từ lâu, bộ trưởng bộ Tục lệ là cái đinh nhọn sẵn sàng đâm vào mặt Khẩu Cầm:

-Thưa « cụ phó », thưa quý vị, tôi muốn nhắc đến thái tử Bô-kha. Quốc vương không trực tiếp nắm quyền chính, tất cả đã giao cho thái tử. Vì vậy, tôi đề nghị toàn thể quý vị triệu thỉnh thái tử về để đích thân kiểm soát tình hình.

Khẩu Cầm đáp:

-Thái tử đang bận « vào hạ ». Lệ thường, mỗi khi đức ngài « vào hạ » thì công việc quan trọng và khẩn cấp đến mấy, đức ngài cũng tạm gác. Tuy nhiên, đây là hoàn cảnh đặc biệt, sự hiện diện của đức ngài xét ra rất cần thiết. Với sự đồng ý của quý vị, tôi xin gửi ngay một bức điện cho thái tử. Tôi hy vọng trong vài ba ngày thái tử sẽ về đến Kát-man-đu.

-Hoan nghênh sáng kiến của thiếu tướng. Tôi đề nghị hoãn mọi việc chờ đức ngài hồi hương.

Khẩu Cầm dằn tay xuống bàn:

-Không được. Bọn tay sai của địch bị động ổ có thể bỏ trốn. Ta cần hành động ngay.

-Thưa quý vịn xin quý vị chấp thuận đề nghị chính đáng của tôi…

-Ông bộ trưởng bộ Tục lệ ơi, ý kiến của ông là ý kiến thiểu số. Ông hãy nhìn quanh ông xem có những vị nào giơ tay tán thành …

Ông bộ trưởng Tục lệ không ngạc nhiên hoặc lo sợ khi thấy các đồng liêu ngồi im phăng phắc. Đa số là phe cánh của tướng Khẩu Cầm. Từ lâu, thiểu số chống đối đã theo chiến thuật ngậm miệng. Chỉ còn lại đại tá Sankru và ông. Sankru đã nằm xuống. Dầu cô đơn, yếu thế, ông vẫn phải tranh đấu. Tranh đấu đến cùng. Tranh đấu không ngừng mặc dầu biết trước thất bại, mạng sống bị đe dọa.

Giọng ông bộ trưởng vẫn sang sảng:

-Thiếu tướng thừa rõ toàn thể Nội các, trừ tôi, sẽ chấp thuận bản kiến nghị. Nhưng thưa thiếu tướng, vấn đề đặt ra ở đây không chỉ giản dị ở chỗ chấp thuận hay không chấp thuận. Một lần nữa, tôi trân trọng kêu gọi thiếu tướng xét lại. Chúng ta thuộc giòng ra-jờ-pút bị người Hồi giáo trục xuất khỏi bắc Ấn, phải lếch thếch kéo nhau lên miền đông bắc, thành lập nước Nê-pal. Và từ hạ bán thế kỷ thứ 16 đến nay, ta sinh sống thanh bình, hòa hợp dưới một vương quyền sáng suốt.(2) Sự bành trướng và dòm ngó của các siêu cường đặt nước ta vào hoàn cảnh trên đe dưới búa. Theo thiển nghĩ, thượng sách của ta là đừng theo phe nào. Tôi có ấn tượng đồng bào ta sắp lâm vào cảnh nồi da xáo thịt…

Khẩu Cầm lớn tiếng:

-Cảnh nồi da xáo thịt do bọn tay sai của CIA gây ra.

Ông bộ trưởng bộ Tục lệ bốp chát:

-Thiếu tướng còn quên bọn tay sai của Quốc tế Tình báo Sở.

-Yêu cầu ông bộ trưởng rút lại lời nói hàm hồ vô trách nhiệm này. Bắc Kinh rất tốt bụng với ta.

-Hừ…họ tốt bụng nên mới xua quân đánh chiến Tây tạng, và không ngần ngại xâm lăng Ấn độ.

-Ta là Nê-pal, không phải Tây tạng hay Ấn độ.

-Như vậy nghĩa là thiếu tướng nhìn nhận Bắc Kinh có tham vọng đế quốc. Chúng ta cần bắt tay nhau để cứu nước, thưa thiếu tướng…

-Ông bộ trưởng làm việc quá độ nên thần trí mất bình thường, ông cần dưỡng sức một thời gian.

-Cám ơn thiếu tướng. Ông khỏi cần lo, tôi sẽ tự sử. Bất quá người ta cũng chích cho tôi mũi thuốc nọc rắn là cùng.

-Ông bộ trưởng điên rồi.

-Tôi không điên.

-Ông bộ trưởng không ký thì thôi, Nội các hoạt động theo nguyên tắc dân chủ, đa số điều khiển thiểu số, và nếu ông bộ trưởng muốn, tôi sẽ ghi trong kiến nghị là ông bộ trưởng không ký.

-Xin thiếu tướng ghi thêm là một tuần trước khi bị ám sát đê hèn bằng nọc rắn Sônôran, Elapin và Gabun…

-A, ông bộ trưởng dựa vào đâu để vu cáo tôi ám sát đại tá ngự tiền văn phòng Sankru bằng nọc rắn?

-Tôi chưa nói đến tên nạn nhân cũng như tên chính phạm mà thiếu tướng đã biết. Càng hay, tấn tuồng mèo vờn chuột đến đây có thể chấm dứt. Bữa nay tôi xin nói hết với thiếu tướng. Một tuần trước khi chết, Sankru kể tôi nghe những việc ông ta làm và những việc thiếu tướng sẽ làm. Cái thảm kịch của nước Nê-pal rách nát này là triều đình phân làm hai phe, phe của thiếu tướng đông hơn, mạnh hơn, liên kết với Trung hoa cộng sản. Phe của Sankru thất bại trong việc bảo vệ nền trung lập của vương quốc phải quay về phía tây phương Vâng, tôi không chối cãi sự hợp tác với CIA, với tên híp-py, với kỹ sư Thu-lát. Nhưng đó là hậu quả của việc thiếu tướng công khai đi đôi với Tình báo Sở.

-Chứng cớ, ông bộ trưởng phải đưa chứng cớ.

-Kiang Pô hiện có mặt tại đây. Kiang đã họp hai lần với thiếu tướng trong vòng 24 giờ đồng hồ vừa qua. Đợt đầu của kế hoạch đoạt quyền vừa được Kiang phát động, với sự hỗ trợ của thiếu tướng. Nhân danh phe bảo hoàng và trung lập, tôi đề nghị giải hòa với thiếu tướng.

-Giải hòa…có gì mà giải hòa?

-Kiang Pô và bộ tham mưu của y phải rời khỏi Nê-pal. Về phía chúng tôi, mọi dây nhợ với CIA và MI-6 phải cắt đứt. Hoãn việc bệ kiến quốc vương. Chờ thái tử hồi hương. Làm lễ đăng quang tôn thái tử lên ngôi báu. Công việc xong xuôi, tôi và tất cả những người thuộc phe tôi xuống tóc vào chùa tu, thiếu tướng ở lại nắm quyền hành. Đây là những lời tâm huyết xuất phát từ cửa miệng đại tá Sankru. Sankru muốn trình tâu quốc vương từ đầu đến cuối, rồi xin đức ngài đứng ra giải hòa. Để tỏ thành tâm thiện chí, Sankru sẵn sàng hy sinh tối đa. Bắt Sankru tự vẫn. Bắt Sankru lưu vong. Bắt Sankru vào chùa. Việc gì Sankru cũng không từ chối miễn hồ xứ sở này thoát khỏi quốc nạn đẫm máu.

Thiếu tướng Khẩu Cầm đỏ mặt tía tai. Ông quay lại gọi lớn:

-Cận vệ?

Hai tên sơn nhân đồ sộ xấn xổ chạy tới, chờ lệnh. Ông bộ trưởng bộ Tục lệ thản nhiên như không:

-Chỗ người lớn, lãnh đạo quốc gia với nhau, không dính dấp đến bọn vai u thịt bắp đần độn. Thiếu tướng đuổi chúng nó ra. Tôi đến họp tất đã dự trù chu đáo. Thưa thiếu tướng, tôi tự tay viết một chúc thư chính trị trên giấy than thành nhiều bản, cất giữ tại nơi an toàn. Sau phiên họp hội đồng Nội các, nếu tôi không về, hoặc trong thời gian sắp tới tôi gặp tai nạn thì các đồng chí của tôi sẽ gửi những tài liệu này đến nơi cần gửi. Bắc Kinh, Mạc tư khoa, Hoa thịnh đốn, Tân đề-li, Liên hiệp quốc, Luân đôn, mỗi thủ đô sẽ nhận được một bản. Thưa thiếu tướng, KGB và GRU Liên Sô không ưa gì sự hiện diện của Tình báo Sở Trung hoa ở Nê-pal. Chỉ riêng Liên Sô phá bĩnh tại Liên hiệp quốc cũng đủ, khỏi cần Hoa Kỳ, Anh cát lợi, Ấn độ và các quốc gia khác trong vùng nữa. Đề nghị của tôi rất minh bạch và đầy tính chất nhượng bộ. Thiếu tướng nghĩ sao?

Khẩu Cầm bàng hoàng trước những lời buộc tội và thương nghị đanh thép của ông bộ trưởng bộ Tục lệ. Tất cả những gì ông dấu kín đều được phanh phui giữa lúc ông không ngờ tới. Ông thích quyền hành, thích lên làm tổng thống. Tình báo Sở khôn ngoan nắm được yếu điểm của ông. Ông bị lôi kéo vào hệ thống bánh răng cưa, ông muốn rút chân cũng không kịp. Trong một thoáng băn khoăn, rụt rè, ông suýt đồng ý với ông bộ trưởng bộ Tục lệ. Ngay khi đó ông bắt gặp luồng nhỡn tuyến của gã đại úy bí thư. Hắn là tai mắt của đại đồng chí Kiang Pô. Cái nhìn nửa khích lệ, nửa hăm dọa của gã bí thư như có phép lạ bắt Khẩu Cầm nhớ đến con tuấn mã Masin. Masin chết vì Z.28. Masin là nửa đời ông. Khẩu Cầm nhớ đến con ngựa Kiang mà giám đốc Tình báo Sở chở bằng phi cơ riêng đến tặng ông. Con Kiang không thua con Masin. Nó còn tốt hơn nữa. Tình báo Sở không lùi bước trước khó khăn nào để làm Khẩu Cầm hài lòng.

Do đó không được quyền mềm yếu và ngần ngại. Tướng Khẩu Cầm đứng phắt dậy:

-Phiên họp bế mạc.

Ông bộ trưởng bộ Tục lệ giơ tay cản cử tọa:

-Xin thiếu tướng cho biết tôn ý trước khi giải tán.

Đảo mắt quanh bàn, ông dõng dạc tiếp:

-Tôi tin rằng trong Nội các có nhiều vị cũng nghĩ như tôi và như Sankru. Đã đến lúc chúng ta xuất đầu lộ diện, bất chấp trở ngại và hiểm nguy. Nào, kính mời quý vị…

Ông bộ trưởng bộ Tục lệ xô ghế. Một biến cố xảy ra: lần lượt hai người, ba người, bốn người xô ghế theo. Phe chống đối cả thảy 5 người. 5 trong tổng số 12 không phải ít.

Khẩu Cầm lặng lẽ nhìn từng người một. Ông hỏi người gần nhất:

-Ông chống lại tôi?

Người này điềm tĩnh đáp:

-Dùng chữ « chống » không đúng. Tôi chủ trương hòa giải. Người Nê-pal hợp tác chặt chẽ với người Nê-pal, chống lại mưu đồ hắc ám của ngoại bang.

Tướng Khẩu Cầm không buồn hỏi thêm nữa. Ông biết chắc những người còn lại sẽ tỏ ra gan lì, đoàn kết thành một khối. Ông tạm thua trong lúc này. Tạm thua trước khi thỉnh ý kiến của đồng chí Kiang Pô.

Ông gấp tép da rồi nói:

-Đêm nay chúng ta họp lại.

Hai tên sơn nhân hộ tống tướng Khẩu Cầm ra xe. Viên đại úy bí thư trèo lên xe riêng của hắn từ nãy. Bàn tay hắn chạm vào máy điện thoại siêu tần số.

Phiên họp dự định không bao giờ được thành hình. Vì tình hình biến chuyển quá nhanh chóng, Kiang Pô quyết định làm mạnh, lật luôn bài tẩy trên chiếu, bất chấp hậu quả.

5 vị bộ trưởng chống đối bị quản thúc tại gia ngay sau khi họ về tư thất. Viên bí thư của Khẩu Cầm được Kiang Pô ra lệnh rõ rệt: bắt hết, nhốt hết.

Thoạt đầu chỉ có sự ra vào bị cấm chỉ, toàn gia của 5 vị bộ trưởng phải ở trong nhà. Đến 4 giờ chiều, một đoàn xe bít bùng đậu xịch trước cổng. Toán sơn nhân vạm vỡ của tướng Khẩu Cầm đến áp giải về nhà giam, một công thự bỏ trống ở ngoại ô, khi ấy được canh phòng kiên cố như pháo đài thép. Tướng Khẩu Cầm bị đặt trước sự đã rồi. Ông mệt nhoài, chợp mắt một lát, tỉnh giấc thì được tin bắt bớ hàng loạt. Trong lúc ông ngủ thiếp, viên bí thư ngang nhiên thay ông điều động nhân viên mật vụ.

Các biện pháp đàn áp lộ liễu được áp dụng vì phe đảo chính vấp nhằm ngay từ bước đầu những trở ngại không ngờ. Quân đội không khoanh tay đứng nhìn như họ dự tính. Ít nhất hai đơn vị thiện chiến trốn lên núi. Dường như Sankru có ước hẹn trước với một số đơn vị trưởng. Tướng Khẩu Cầm chỉ kịp thay thế hoặc thuyên chuyển những vị tư lệnh ra mặt chống Bắc Kinh. Ông không dè phe bảo hoàng đã có điều kiện báo động cho nhau.

Cách Kát-man-đu 50 cây số, một cuộc biểu tình tuần hành do phe đảo chính tổ chức với ý định chiếm đóng các cơ sở chính quyền, đốt phá tài liệu, huy động xe cộ, ngựa, chở dân chúng địa phương về thủ đô, dọn đường cho cuộc « tổng nổi dậy ». Nhưng hành động này chỉ thành công phân nửa.

Tướng Khẩu Cầm không lùi được nữa. Ông bị lâm vào thế kẹt. Dầu muốn hay không, ông vẫn phải tiến tới. Ông không thể biết bàn tay phù thủy của Kiang Pô đã can thiệp phần nào vào việc gây ra thế kẹt.

Giờ hoàng hôn xuống cũng là giờ tướng người hùng Khẩu Cầm bật đèn xanh cho kế hoạch lật đổ chế độ quân chủ ở thủ đô.

Khi ấy, linh hồn của chế độ quân chủ Nê-pal vẫn bị sa lầy trong vùng rừng núi hoang vu ở Bhu-tan. Thái tử Bô-kha được Mahan xốc nách, chống gậy một cách nặng nhọc trên con đường mòn nhẵn thín, lối đi kéo gỗ của voi. Hoa tiêu Huy-gô vẫn nằm cáng do Văn Bình và Tuyết Lê khiêng như thường lệ.

Sau khi lỡ hẹn với chiếc Thiên mao tiếp cứu, Văn Bình đôn đốc mọi người lội qua suối, tìm cách tránh xa hang hổ, rồi cứ thế thẳng hướng mặt trời lặn trực chỉ.

Trước mặt, ẩn hiện sau những lùm cây to là một đờ-dông quét vôi trắng xóa. Mọi người nhìn thấy nó từ sáng. Đi hoài, đi mãi đến gần chiều mà chưa đến nơi. Chập choạng tối, Văn Bình ra hiệu dừng chân. Theo đường chim bay, tòa đờ-dông còn cách nơi đoàn người nghỉ ngơi chừng 300 mét. Bản tâm của Văn Bình là cho đoàn ngủ lại đêm, còn chàng dẫn Tuyết Lê đột nhập đờ-dông kế cận.

Tuy bụng đói meo, Văn Bình phải trèo lên một cây bồ đề xum xuê, chặt cành tươi, kết thành túp lều, đeo lủng lẳng ở lưng chừng thân cây làm nơi trú ngụ cho Bô-kha và Huy-gô. Xong xuôi chàng hái một ôm trái dại dùng làm bữa ăn chiều cho đoàn. Chàng không quên xoa nắn bàn chân đọng máu của Bô-kha và chuyền kình lực cho Huy-gô mau phục hồi sức khỏe. Khi những tia nắng cuối cùng của ban ngày tắt sau rặng núi Hy mã, Văn Bình mới băng mình xuống thung lũng. Về khí giới, hai người chỉ có một lưỡi ku-kri dùng để phát quang bụi rậm.

Trời tối hẳn, trên vòm trời láng mượt như nhung, óng ánh những ngôi sao kim cương. Hai người tiến vào cánh rừng mun, thân cây thẳng tắp, mùi thơm ngào ngạt, trước khi đổ giốc xuống sườn đồi thoai thoải. Mùi thơm gỗ mun đột ngột nhạt biến, thay vào đó là một mùi thơm kỳ lạ. Mùi thơm độc đáo của gỗ đàn hương, loại gỗ quý nhất quanh vùng Hy mã lạp sơn.

Không người đàn ông giàu tình cảm nào ngửi mùi đàn hương mà cõi lòng không rạo rực. Vì nó gợi nhớ mùi da thịt con gái trinh nguyên. Mùi gỗ đàn hương hòa lẫn mùi quế chi từ thân thể Tuyết Lê bốc ra có dư hấp lực làm Văn Bình ngây ngất. Vậy mà chàng không rạo rực, không ngây ngất nổi. Tuyết Lê đi sát chàng, chàng lại nổi vẩy ốc. Chàng nắm tay nàng, kéo nàng bước nhanh như chạy.

Nàng gằng ra:

-Rừng đàn hương thơm nức, tại sao anh bắt em chạy?

Văn Bình ghé tai nàng:

-Vì voi. Voi ở đây giữ lắm. Nơi nào có gỗ mun và gỗ đàn hương thường có voi đàn. Hồi cùng mệ Khương từ Át sam tạt qua Bhu-tan, anh suýt bị voi xé nát ở khoảng này. Nhân một cuộc khét-đa (3).

-Em nhớ rồi. Giống voi hoang trốn từ Ấn qua…Chân em tự dưng dãn gân, anh ơi, anh bế em với.

Báo hại Văn Bình phải bồng Tuyết Lê trên cánh tay. Chàng phóng luôn một hơi, mươi phút sau ra khỏi vùng thơm của gỗ đàn hương, chàng mới dám bước chậm.

Khét-đa là cuộc săn voi. Người ta thường săn voi ở tiểu bang Mysore nam bộ Ấn độ. Nhưng đó có giống voi đẹp nhất và to nhất châu Á. Nhưng về khoản voi dữ chưa bằng Bhu-tan. Voi hoang sinh sống hàng đoàn, mỗi khi nổi hứng chúng dẫm nát ruộng lúa và đồn điền trà mía, nhà cầm quyền phải tổ chức cuộc săn bắt sống hàng năm từ 70 đến 100 con. Kỹ thuật rất giản dị: người ta khua tiếng động làm voi hoảng hốt bỏ chạy. Voi thường bổ về phía sông, gần đó người ta chực sẵn, dùng voi được nuôi tập thuần thục gọi là ma-hút làm mồi, lừa đàn voi hoang vào một diện tích bị vây kín, rồi dùng dây nhợ trói lại. Sau đó ma-hút thay người huấn luyện voi bị bắt. Từ 3 tháng 6 tháng, voi hoang trở nên ngoan ngoãn như chó giữ nhà.

Voi thường bị chê to xác, không gan lì và oai phong như cọp. Tuy nhiên, con nào thoát lưới khét-đa vài lần là dữ tợn đặc biệt. Muốn Văn Bình hài lòng trong thời gian « ngoạn cảnh đẹp » ở Át sam, mệ Khương rủ chàng tham dự một cuộc săn voi. Chàng lò dò vào nơi nhốt voi, đinh ninh các chú bạch tượng bị sa cơ thành hiền khô. Chàng không ngờ một con, hai con, rồi ba con vùng dậy, giựt đứt dây thừng, phóng tới như đoàn xe hơi hạng nặng. Tinh mắt, lẹ chân, chàng phóc lên đỉnh cây cao. Nếu không, chàng đã bị chúng dẫm chết.

Kể ra, khi qua rừng đàn hương, chàng lo cho chàng và Tuyết Lê thì ít, mà lo cho những người bạn tạm núp trên cây thì nhiều. Voi dữ có thể dùng vòi nhổ bật tung gốc đại thụ. Thoát khỏi nạn voi thì còn những con gấu ngựa yếm trắng leo trèo thoăn thoắt như vượn. Rồi còn rắn. Rắn Bhu-tan là mối nguy hàng đầu của kẻ đi rừng: có khi nó nhỏ xíu hiền lành như giun đất mà nọc độc giết chết người trong khoảnh khắc. Có khi từng bầy trăn nằm nghênh ngang giữa đường, bất động như những khúc cây mục, bất chợt chúng trỗi dậy, gieo tàn phá và tang tóc.

Với một người mù và một người què bầu bạn, Mahan khó thể đối phó hữu hiệu. Văn Bình đã nghĩ tới, song chàng không còn cách sử sự nào khác. Mahan phải ở lại để chàng lăn lưng vào công việc.

Thành hay bại của điệp vụ Hoa Sen sẽ xảy ra trong những giờ, những phút đêm nay.

Dưới ánh trăng xuông, tòa đờ-dông hiện rõ từng chi tiết. Nó choán một khu rộng dọc sườn đồi. Một phía là trục lộ từ Phun-sô-linh đi thủ đô Thim-bu, con đường huyết mạch độc nhất. Phía kia là rừng. Thời xưa, đờ-dông này được xây cất với mục đích kiểm soát hệ thống lưu thông trong vùng. Khách thương qua lại phải nộp thuế. Mỗi sứ quân hùng cứ một vùng. Vùng Chimakôti được đặt dưới quyền cai trị của một ông tướng hùng mạnh, quân sĩ đông đảo, đờ-dông của ông ta rất bề thế, kiên cố và sang trọng.

Nó được bao quanh bằng tường thành cao gấp hai lần đầu người. Bên trong có nhiều giẫy nhà lầu, trại binh, chuồng ngựa, tháp canh. Bên ngoài, hàng chục ngôi nhà gỗ xếp thành hàng dài ngay ngắn. Đó là hàng quán bán đồ lặt vặt. Xa xa là khu dân cư. Nơi nào có đờ-dông là có hàng quán và dân cư.

Người Bhu-tan ăn no, ngủ kỹ. Văn Bình có thể đột nhập dễ dàng. Chàng bỏ qua cổng tiền, sợ gặp lính. Chàng cũng né tránh khu dân cư và hàng quán sợ gây tiếng động chó sủa ăng ẳng. Chàng dẫn Tuyết Lê vòng hông đờ-dông. Hai người lõm bõm lội qua con suối cạn đầy bùn và lá mủn đến một khoảng tối. Bức tường đen sì của pháo đài sừng sững như mời mọc, như thách đố.

Tuy tường cao, Tuyết Lê trèo qua không mấy vất vả là vì nó bằng đá ong xếp chận lên nhau. Văn Bình nhảy xuống trước, giang rộng tay đỡ Tuyết Lê.

Văn Bình đinh ninh đây là khu chuồng ngựa. Té ra đờ-dông này được kiến trúc trái khoáy. Chàng không lọt vào khu chuồng ngựa mà vào tư thất của chủ nhân. Trước đây, chủ nhân là ông tướng sứ quân. Giờ đây là quận trưởng hành chính. Tuyết Lê bấm tay chàng:

-Lộn rồi, anh ơi!

Lộn rồi thật! Chấm đất Văn Bình mới nhận ra sự lầm lẫn. Song chàng không thể vượt tường ra ngoài được nữa. Sự lầm lẫn tai hại này là một hoa viên xinh xắn, bé bỏng, trồng toàn hoa thơm quý giá, dẫn đến một hành lang thắp đèn điện với những khung cửa sổ tây phương sơn màu rực rỡ.

Đây là phòng ngủ của vợ chồng ông quận. Hoa viên tọa lạc gần phòng ngủ để ông bà quận ngắm nghía, thưởng thức. Máy điện chạy bằng dầu cặn, mà dầu cặn là xa xỉ phẩm số một ở Bhu-tan, phải là ông bà quận mới dám thắp đèn ban đêm ngoài vườn.

Không phải nói ngoa khi bảo Bhu-tan là xứ ngàn một đêm lẻ: mảnh vườn vỏn vẹn hai chục mét vuông này đủ giữ chân những khách mê hoa khó tính nhất. Chung quanh vườn là rặng liễu thấp, lá dài nhỏ xíu, xõa rộng như suối tóc giai nhân. Dọc theo hàng liễu là những bồn hoa phong lan, màu vàng và da cam, màu quốc kỳ Bhu-tan. Góc vườn, một thác nước nhân tạo róc rách. Giữa vườn nổi bật nhiều lối đi nhỏ, lót đá trắng như tuyết, ban đêm lấp lánh như được giát lân tinh.

Văn Bình mon men đến gần cửa sổ. Chà, cửa sổ treo màn hồng…Bà quận chắc phải sắc nước hương trời…Nhìn vào phòng, chàng cảm thấy con tim đau nhói.

Bên trong đèn ngủ tỏa sáng dịu dàng. Cũng màu hồng. Tường hồng. Giường và mùng hồng. Những bông hoa cặm trong lọ pha lê đặt trên bàn đêm cũng màu hồng.

Dĩ nhiên người đẹp đang ngủ mặc toàn màu hồng.

Màn tuyn mỏng dính, Văn Bình thấy rõ một công trình nhào nặn tuyệt mỹ của hóa công. Nàng nằm quay ra cửa sổ, dung mạo xinh tươi lồ lộ. Da thịt nàng lồ lộ sau lớp voan hồng. Máu nóng kéo bừng bừng lên thái dương. Văn Bình chết lặng trong giây phút. Nếu bờ vai chàng không đau nhói chắc chàng còn chôn chân tại đó đến sáng mới tỉnh. Cơn đau đột ngột không do xúc động mà ra. Nó phát xuất từ atêmi. Sống bàn tay của Tuyết Lê đã giáng xuống khớp xương đòn gánh của chàng.

Chàng xụm xuống bụi hoa, mắt tóe đom đóm. Ngón nghề atêmi của nàng còn non, nếu nàng được học thêm một vài năm, vai chàng đã đứt lìa vì nàng không ngần ngại vận dụng hết công lực. Nàng quyết đánh chàng tàn tật.

Ngã xuống, chàng nghe thoáng tiếng Tuyết Lê:

-Anh hư quá! Có em một bên còn háu đói, mấy năm xa em anh háu đói đến đâu!

Trời ơi, nàng ghen… Văn Bình chệnh choạng gượng dậy, xoa vai mỏi rừ. Tuyết Lê vung tay toan đánh tiếp, chàng phải đấu dịu:

-Tội nghiệp anh…anh có dám làm gì đâu.

Người đẹp nằm trên giường có làn tóc dài, thật dài. Phụ nữ bản xứ chuyên cắt tóc ngắn. Riêng mệnh phụ phu nhân nuôi tóc dài tha thướt. Tóc của hoàng hậu, một người rất đẹp từng sống ở nước ngoài, cũng dài mềm mại. Hồi nãy, Văn Bình nảy ra ý tưởng cô gái mặc voan hồng trong căn phòng kia là hoàng hậu của lòng chàng. Ngón atêmi ghen tuông làm chàng vỡ mộng.

Mắt Tuyết Lê chớp lia lịa:

-Lần này em bỏ qua, lần sau anh chết với em. Công việc là công việc.

Văn Bình ôm vai bị đau, bước lên hành lang. Dại ôi là dại, biết thế chàng lên đường một mình thì giờ đây chàng đã xô cửa vào căn phòng hồng, đến đâu thì đến…

Chàng đành nhắm mắt rảo qua. Tiếp sau phòng ngủ là giẫy phòng khác trang trí khiêm tốn, song không kém lộng lẫy. Chàng hơi ngạc nhiên: cả thảy có 8 phòng, tất cả đều kê đồ đạc như nhau, giường, tủ áo, bàn đêm và hai cái ghế. Mỗi phòng mang một màu riêng, tường quét vôi màu gì thì màn, mùng, đệm, khăn trải giường rập theo màu ấy. Đặc biệt là mỗi phòng có một cô gái xấp xỉ đôi mươi.

Đạo binh gái đẹp này không phải là vợ bé ông quận. Cũng không phải ổ nhện giành riêng cho giới mũ cao, áo dài. Văn Bình tần ngần chưa chịu lui gót. Tuyết Lê xỉa ngón tay vào hõm lưng chàng:

-Nguy to, anh ơi…chúng mình phải thoát ngay kẻo ăn tên độc đến nơi, tên độc của người Mun-đờ-ra (4).

-Em nhớ rồi. Giống voi hoang trốn từ Ấn qua…Chân em tự dưng dãn gân, anh ơi, anh bế em với.

Báo hại Văn Bình phải bồng Tuyết Lê trên cánh tay. Chàng phóng luôn một hơi, mươi phút sau ra khỏi vùng thơm của gỗ đàn hương, chàng mới dám bước chậm.

Khét-đa là cuộc săn voi. Người ta thường săn voi ở tiểu bang Mysore nam bộ Ấn độ. Nhưng đó có giống voi đẹp nhất và to nhất châu Á. Nhưng về khoản voi dữ chưa bằng Bhu-tan. Voi hoang sinh sống hàng đoàn, mỗi khi nổi hứng chúng dẫm nát ruộng lúa và đồn điền trà mía, nhà cầm quyền phải tổ chức cuộc săn bắt sống hàng năm từ 70 đến 100 con. Kỹ thuật rất giản dị: người ta khua tiếng động làm voi hoảng hốt bỏ chạy. Voi thường bổ về phía sông, gần đó người ta chực sẵn, dùng voi được nuôi tập thuần thục gọi là ma-hút làm mồi, lừa đàn voi hoang vào một diện tích bị vây kín, rồi dùng dây nhợ trói lại. Sau đó ma-hút thay người huấn luyện voi bị bắt. Từ 3 tháng 6 tháng, voi hoang trở nên ngoan ngoãn như chó giữ nhà.

Voi thường bị chê to xác, không gan lì và oai phong như cọp. Tuy nhiên, con nào thoát lưới khét-đa vài lần là dữ tợn đặc biệt. Muốn Văn Bình hài lòng trong thời gian « ngoạn cảnh đẹp » ở Át sam, mệ Khương rủ chàng tham dự một cuộc săn voi. Chàng lò dò vào nơi nhốt voi, đinh ninh các chú bạch tượng bị sa cơ thành hiền khô. Chàng không ngờ một con, hai con, rồi ba con vùng dậy, giựt đứt dây thừng, phóng tới như đoàn xe hơi hạng nặng. Tinh mắt, lẹ chân, chàng phóc lên đỉnh cây cao. Nếu không, chàng đã bị chúng dẫm chết.

Kể ra, khi qua rừng đàn hương, chàng lo cho chàng và Tuyết Lê thì ít, mà lo cho những người bạn tạm núp trên cây thì nhiều. Voi dữ có thể dùng vòi nhổ bật tung gốc đại thụ. Thoát khỏi nạn voi thì còn những con gấu ngựa yếm trắng leo trèo thoăn thoắt như vượn. Rồi còn rắn. Rắn Bhu-tan là mối nguy hàng đầu của kẻ đi rừng: có khi nó nhỏ xíu hiền lành như giun đất mà nọc độc giết chết người trong khoảnh khắc. Có khi từng bầy trăn nằm nghênh ngang giữa đường, bất động như những khúc cây mục, bất chợt chúng trỗi dậy, gieo tàn phá và tang tóc.

Với một người mù và một người què bầu bạn, Mahan khó thể đối phó hữu hiệu. Văn Bình đã nghĩ tới, song chàng không còn cách sử sự nào khác. Mahan phải ở lại để chàng lăn lưng vào công việc.

Thành hay bại của điệp vụ Hoa Sen sẽ xảy ra trong những giờ, những phút đêm nay.

Dưới ánh trăng xuông, tòa đờ-dông hiện rõ từng chi tiết. Nó choán một khu rộng dọc sườn đồi. Một phía là trục lộ từ Phun-sô-linh đi thủ đô Thim-bu, con đường huyết mạch độc nhất. Phía kia là rừng. Thời xưa, đờ-dông này được xây cất với mục đích kiểm soát hệ thống lưu thông trong vùng. Khách thương qua lại phải nộp thuế. Mỗi sứ quân hùng cứ một vùng. Vùng Chimakôti được đặt dưới quyền cai trị của một ông tướng hùng mạnh, quân sĩ đông đảo, đờ-dông của ông ta rất bề thế, kiên cố và sang trọng.

Nó được bao quanh bằng tường thành cao gấp hai lần đầu người. Bên trong có nhiều giẫy nhà lầu, trại binh, chuồng ngựa, tháp canh. Bên ngoài, hàng chục ngôi nhà gỗ xếp thành hàng dài ngay ngắn. Đó là hàng quán bán đồ lặt vặt. Xa xa là khu dân cư. Nơi nào có đờ-dông là có hàng quán và dân cư.

Người Bhu-tan ăn no, ngủ kỹ. Văn Bình có thể đột nhập dễ dàng. Chàng bỏ qua cổng tiền, sợ gặp lính. Chàng cũng né tránh khu dân cư và hàng quán sợ gây tiếng động chó sủa ăng ẳng. Chàng dẫn Tuyết Lê vòng hông đờ-dông. Hai người lõm bõm lội qua con suối cạn đầy bùn và lá mủn đến một khoảng tối. Bức tường đen sì của pháo đài sừng sững như mời mọc, như thách đố.

Tuy tường cao, Tuyết Lê trèo qua không mấy vất vả là vì nó bằng đá ong xếp chận lên nhau. Văn Bình nhảy xuống trước, giang rộng tay đỡ Tuyết Lê.

Văn Bình đinh ninh đây là khu chuồng ngựa. Té ra đờ-dông này được kiến trúc trái khoáy. Chàng không lọt vào khu chuồng ngựa mà vào tư thất của chủ nhân. Trước đây, chủ nhân là ông tướng sứ quân. Giờ đây là quận trưởng hành chính. Tuyết Lê bấm tay chàng:

-Lộn rồi, anh ơi!

Lộn rồi thật! Chấm đất Văn Bình mới nhận ra sự lầm lẫn. Song chàng không thể vượt tường ra ngoài được nữa. Sự lầm lẫn tai hại này là một hoa viên xinh xắn, bé bỏng, trồng toàn hoa thơm quý giá, dẫn đến một hành lang thắp đèn điện với những khung cửa sổ tây phương sơn màu rực rỡ.

Đây là phòng ngủ của vợ chồng ông quận. Hoa viên tọa lạc gần phòng ngủ để ông bà quận ngắm nghía, thưởng thức. Máy điện chạy bằng dầu cặn, mà dầu cặn là xa xỉ phẩm số một ở Bhu-tan, phải là ông bà quận mới dám thắp đèn ban đêm ngoài vườn.

Không phải nói ngoa khi bảo Bhu-tan là xứ ngàn một đêm lẻ: mảnh vườn vỏn vẹn hai chục mét vuông này đủ giữ chân những khách mê hoa khó tính nhất. Chung quanh vườn là rặng liễu thấp, lá dài nhỏ xíu, xõa rộng như suối tóc giai nhân. Dọc theo hàng liễu là những bồn hoa phong lan, màu vàng và da cam, màu quốc kỳ Bhu-tan. Góc vườn, một thác nước nhân tạo róc rách. Giữa vườn nổi bật nhiều lối đi nhỏ, lót đá trắng như tuyết, ban đêm lấp lánh như được giát lân tinh.

Văn Bình mon men đến gần cửa sổ. Chà, cửa sổ treo màn hồng…Bà quận chắc phải sắc nước hương trời…Nhìn vào phòng, chàng cảm thấy con tim đau nhói.

Bên trong đèn ngủ tỏa sáng dịu dàng. Cũng màu hồng. Tường hồng. Giường và mùng hồng. Những bông hoa cặm trong lọ pha lê đặt trên bàn đêm cũng màu hồng.

Dĩ nhiên người đẹp đang ngủ mặc toàn màu hồng.

Màn tuyn mỏng dính, Văn Bình thấy rõ một công trình nhào nặn tuyệt mỹ của hóa công. Nàng nằm quay ra cửa sổ, dung mạo xinh tươi lồ lộ. Da thịt nàng lồ lộ sau lớp voan hồng. Máu nóng kéo bừng bừng lên thái dương. Văn Bình chết lặng trong giây phút. Nếu bờ vai chàng không đau nhói chắc chàng còn chôn chân tại đó đến sáng mới tỉnh. Cơn đau đột ngột không do xúc động mà ra. Nó phát xuất từ atêmi. Sống bàn tay của Tuyết Lê đã giáng xuống khớp xương đòn gánh của chàng.

Chàng xụm xuống bụi hoa, mắt tóe đom đóm. Ngón nghề atêmi của nàng còn non, nếu nàng được học thêm một vài năm, vai chàng đã đứt lìa vì nàng không ngần ngại vận dụng hết công lực. Nàng quyết đánh chàng tàn tật.

Ngã xuống, chàng nghe thoáng tiếng Tuyết Lê:

-Anh hư quá! Có em một bên còn háu đói, mấy năm xa em anh háu đói đến đâu!

Trời ơi, nàng ghen… Văn Bình chệnh choạng gượng dậy, xoa vai mỏi rừ. Tuyết Lê vung tay toan đánh tiếp, chàng phải đấu dịu:

-Tội nghiệp anh…anh có dám làm gì đâu.

Người đẹp nằm trên giường có làn tóc dài, thật dài. Phụ nữ bản xứ chuyên cắt tóc ngắn. Riêng mệnh phụ phu nhân nuôi tóc dài tha thướt. Tóc của hoàng hậu, một người rất đẹp từng sống ở nước ngoài, cũng dài mềm mại. Hồi nãy, Văn Bình nảy ra ý tưởng cô gái mặc voan hồng trong căn phòng kia là hoàng hậu của lòng chàng. Ngón atêmi ghen tuông làm chàng vỡ mộng.

Mắt Tuyết Lê chớp lia lịa:

-Lần này em bỏ qua, lần sau anh chết với em. Công việc là công việc.

Văn Bình ôm vai bị đau, bước lên hành lang. Dại ôi là dại, biết thế chàng lên đường một mình thì giờ đây chàng đã xô cửa vào căn phòng hồng, đến đâu thì đến…

Chàng đành nhắm mắt rảo qua. Tiếp sau phòng ngủ là giẫy phòng khác trang trí khiêm tốn, song không kém lộng lẫy. Chàng hơi ngạc nhiên: cả thảy có 8 phòng, tất cả đều kê đồ đạc như nhau, giường, tủ áo, bàn đêm và hai cái ghế. Mỗi phòng mang một màu riêng, tường quét vôi màu gì thì màn, mùng, đệm, khăn trải giường rập theo màu ấy. Đặc biệt là mỗi phòng có một cô gái xấp xỉ đôi mươi.

Đạo binh gái đẹp này không phải là vợ bé ông quận. Cũng không phải ổ nhện giành riêng cho giới mũ cao, áo dài. Văn Bình tần ngần chưa chịu lui gót. Tuyết Lê xỉa ngón tay vào hõm lưng chàng:

-Nguy to, anh ơi…chúng mình phải thoát ngay kẻo ăn tên độc đến nơi, tên độc của người Mun-đờ-ra (5).

Văn Bình rờn rợn châu thân. Té ra giẫy phòng trang trí diêm dúa với bầy gái đẹp nằm chờ trên giường này là nơi cử hành hôn lễ thí nghiệm của một số bộ lạc quanh vùng Hy mã, điển hình là bộ lạc Mun-đờ-ra. Nơi làm lễ được coi là bất khả xâm phạm, người lạ héo lánh đến, tò mò nhìn ngó, theo dõi, chắc chắn bị ăn tên độc, những mũi tên thép cứng tẩm nhựa cây rừng, chạm nhẹ da thịt cũng đủ giết chết. Đến vùng Hy mã không thể quên được nghệ thuật bắn cung của dân địa phương. Họ bắn là trúng. Đáng nể nhất là dân Mun-đờ-ra…

Những năm gần đây, phong hoá suy đồi, ở tây phương mới chớm nở những hình thức ái tình cuồng loạn như hôn nhân thí nghiệm. Tại Đan mạch hoặc một số quốc gia Bắc Âu, trai gái có thể ăn ở với nhau một thời gian, thí nghiệm xem có hợp nhau không. Nếu hợp thì tiến đến tình trạng vợ chồng chính thức, bằng không « anh đi đường anh, tôi đường tôi ».

Quanh vùng Hy mã lạp sơn, văn minh chưa tràn tới, đem theo những rác rến bẩn thỉu, nghĩa là phong hóa suy đồi, con người còn sống trong trẻo như nước hồ thu, thế mà tập tục hôn nhân thí nghiệm đã được áp dụng. Áp dụng từ ngày xửa ngày xưa bởi bộ lạc pan-đa-ram và mun-đờ-ra. Giản dị hết chỗ nói: nam nữ yêu nhau, dự định lấy nhau thì đến xin phép cha mẹ. Với sự chấp thuận của phụ huynh, họ được phép dẫn nhau đến một thạch động, sống chung thí nghiệm với nhau trong nhiều tuần lễ. Sống chung một lần chưa đủ tìm hiểu nhau, họ có thể tái diễn. Và họ có quyền tiếp tục thí nghiệm đến khi tìm được bạn lòng. Bao lâu cũng được. Với bao nhiêu người cũng được…

Một số người mun-đờ-ra giàu có hoặc quyền quý đã hiện đại hóa cuộc hôn nhân thí nghiệm với những khu nhà riêng được canh gác cẩn mật giành cho nam nữ. Người mun-đờ-ra rất dễ dãi, nhưng cũng rất nghiệt ngã. Họ không bao giờ nhân nhượng đối với kẻ hiếu kỳ quá lố như Văn Bình…

May Tuyết Lê cảnh cáo chàng kịp thời …Nếu chàng đi một mình, chàng trèo đại lên giường thì phút này lưng chàng, ngực chàng cắm ngập tên sắt…

Cuộc hôn nhân thí nghiệm tập thể chắc được cử hành từ sau nửa đêm. Những chàng rể tương lai đang bận cúng vái ở một ngôi đền kế cận. Khu nhà này thường trổ một lối ra duy nhất, luôn luôn có người gác. Thượng sách đối với Văn Bình và Tuyết Lê là lui về đường cũ, trèo tường ra ngoài.

Nàng trăng thật ác, khi hai người nhảy vào khuôn viên thì ánh sáng mờ mờ ảo ảo, đến khi sắp ra thì rực rỡ như đêm rằm mùa hạ. Văn Bình hóa phép thành chuột lắt cũng khó hy vọng vượt tường an toàn. Chàng đành bấm bụng thở dài, núp tạm dưới cửa sổ, bên khóm phong lan màu vàng và da cam, chờ vầng trăng khuất sau đám mây.

Gió núi thổi lay tấm màn cửa màu hồng. Làn vải mỏng reo phần phật. Bất giác, Văn Bình nhớ đến tiếng phần phật của những chiếc cúc bấm được người đẹp giứt vội mỗi lúc cởi áo. Chàng muốn nhắm nghiền mắt song cảnh tượng phô bày trước mắt chàng bắt chàng mở thật lớn.

Cô gái mặc voan hồng đang nằm ngoan ngoãn trong mùng bỗng nhỏm dậy. Nàng nhìn về phía cửa sổ. Mắt nàng đen và to. Số chàng quả là số « con rệp ». Nếu chàng an phận thủ thường, nếu chàng không mang bệnh bay bướm kinh niên, nếu chàng chịu nghe lời căn dặn của Tuyết Lê thì đâu đến nỗi.

Đằng này chàng lại chường mặt ở khe cửa và mỉm cười khêu gợi. Chàng tưởng cô gái Bhu-tan cười trả. Chàng không dè cô gái cất tiếng la:

-Có người…có quân gian…

Tiếng kêu của cô gái oang oang như tiếng chuông đồng. Văn Bình có cảm tưởng như giải núi Hy mã lạp sơn hùng vĩ rầm rầm sụp đổ …xuống đầu chàng.

Chú thích:

(1) nước Nê-pal gồm khoảng 10 bộ lạc chính là Bô-chia và Tây tạng (bắc), Gu-rung và Ma-ra (tây), Muốc-mi và Guộc-kha, Nu-oa (trung bộ), Kiranti, Lim-bu và Lếp –sa (đông).

(2) năm 1768, vua Prithvinarayan chiếm Nê-pal, và ngự trị từ bấy đến nay. Vua Mahendra hiện nay là triều đại thứ 8.

(3) khedda. Các cuộc khedda rầm rộ thường được tổ chức tại rừng Karapur trong tiểu bang Ấn Mysore.

(4) mun-đờ-ra: moundras ; pan-đa-ram: pandaram. Những bộ lạc này hiện sống ở tiểu bang Keralas, Ấn độ.