Chương IX Những mũi tên vầu …
Văn Bình không thể đứng yên chờ bị bắt. Tiếng kêu của cô gái làm kinh động bầu không khí đêm khuya trầm lặng. Bọn gác bên ngoài sồng sộc chạy vào. Văn Bình phải cấp thời khóa miệng cô gái. Chàng co chân nhảy lên hiên sau, nơi kê chiếc giường. Cửa hiên đóng chặt. Chàng lay nhẹ, bản lề và ổ khóa rớt lả tả. Cô gái mặc voan hồng thả chân xuống nền phòng. Nàng sinh trưởng ở Bhu-tan mà nước da trắng muốt như phụ nữ tây phương. Những đường cong của nàng có thể làm nhiều nữ lực sĩ thẩm mỹ lác sệch mắt. Chao ôi, nàng đẹp như vậy, nàng ngon như vậy mà Văn Bình phải áp dụng chiến thuật vùi hoa dập liễu!
Cô gái há miệng song không kêu to nữa. Có lẽ nàng biết nàng lầm. Bộ mã của điệp viên Z.28 đâu phải bộ mã gian phi. Đó là bộ mã hào hoa của một khối từ thạch bằng xương thịt. Nàng ngồi yên trên mép giường, tay khép tà áo voan lộ liễu, má đỏ như gấc chín.
Những bước chân đàn ông nện thình thịch cuối hành lang. Trong khoảnh khắc, lính gác sẽ tới. Văn Bình vung atêmi. Cô gái ngã vùi xuống nệm. Chàng nhìn nàng bất tỉnh, lòng ngập đầy hối hận.
Qua khe cửa, chàng thấy hai tên lính phục sức lôi thôi, lếch thếch, chân quấn xà cạp, dận giày cao su, vai đeo mã tấu tuốt trần. Chúng vừa đến căn phòng màu xanh, cách nơi Văn Bình núp 3 mét thì cửa mở, một cô gái mặc voan xanh chạy ra. Một tên hỏi:
-Ai hả cô?
Thiếu nữ mặc voan xanh đáp:
-Tôi nghe tiếng kêu ở cuối giẫy. Các anh thử lại xem.
Cửa phòng đóng nghe sầm. Cô gái mặc voan xanh trở vào phòng. Hai tên lính vẻ ngây ngô rón rén đến trước cửa phòng sơn hồng. Mọi việc đã bình thường hóa: cô gái mặc voan hồng nằm thẳng băng trên giường. Không một cử động. Không một tiếng la hét.
Tên lính hồi nãy chép miệng:
-Chẳng có gì cũng kêu…Chỉ làm khổ người ta thôi.
Rồi giục bạn:
-Sắp tới giờ hành lễ rồi mày…Đàn bà con gái thật lắm chuyện.
Hai tên lính lọc cọc rút lui. Văn Bình chẩn mạch và quan sát sắc diện của cô gái mặc voan hồng. Chàng hơi nặng tay (đây là điều đáng tiếc) nàng khó thể tham dự cuộc vui lát nữa dẫu cho y sĩ chích thuốc khỏe. Cặp môi của nàng thật dễ thương, chàng dùng dằng muốn hôn nhưng lại sợ Tuyết Lê. Chàng toan cúi xuống gò má tròn trịa khả ái thì sau lưng có tiếng động. Tuyết Lê đã có mặt trong phòng. Tay nàng chỉ huyên thuyên:
-Mau lên anh. Họ đang sửa soạn. Anh giấu cô ả này sau tấm bình phong.
Vừa nói Tuyết Lê vừa ngồi xuống trước bàn phấn. Cử chỉ của nàng là một cách giải thích rành rẽ: « họ đang sửa soạn » có nghĩa là các cô gái ở cùng giẫy đang trang điểm phấn son và quần áo. Tuyết Lê xõa tóc, rẽ thành hai cái bím, mỗi cái vắt vẻo một bên đầu, đúng theo mốt bới tóc của cô gái mặc voan hồng. Không hỏi thêm, Văn Bình bồng cô gái ra khỏi giường. Ở góc phòng có tấm bình phong bằng mây tết, dùng để che những con mắt tò mò mỗi khi thay đồ. Kê sát nó là cái tủ gỗ đựng quần áo, gắn gương soi cao bằng đầu người. Văn Bình nhét cô gái thiêm thiếp giữa đống vải vóc hỗn độn. Chàng cẩn thận hé cửa cho nàng khỏi ngạt thở.
Khi chàng quay ra thì Tuyết Lê đã hoàn toàn đổi khác. Nàng mặc cái áo dài thòng, quét đất lê thê, đính những sợi tua ngũ sắc. Cái áo cũng gồm nhiều miếng hàng bom-bay mỏng in hoa nổi may lại với nhau. Dường như áo này là áo cưới, áo dạ hội của phụ nữ Bhu-tan. Nàng đeo lủng lẳng những bông tai bằng bạc cán mỏng. Nàng đứng dậy, tiếng lèng xèng êm tai nổi lên. Nàng ưỡn ngực cho Văn Bình ngắm:
-Em giống không anh?
Giống ai? Văn Bình không biết. Chàng chỉ thấy nàng đẹp. Khi ấy nàng quên phứt tình cảnh dầu sôi lửa bỏng. Nàng giục chàng « mau lên, mau lên », té ra nàng lại trì chậm. Nàng nhảy bổ vào ngực chàng, giọng nhí nhảnh:
-Yêu anh quá, em yêu anh quá!
Văn Bình không còn ruột gan nào nghĩ đến lạc thú bồng lai nữa. Là vì tiếng chân lóc cóc của hai tên lính võ trang mã tấu vừa dứt thì có tiếng rì rì, rì rì…
Tiếng xe hơi chở nặng trèo giốc…
Giẫy nhà này tọa lạc trên cao. Những khu còn lại của đờ-dông được xây ở độ thấp hơn. Xe hơi lên đây phải ì ạch trèo giốc…
Tiếng động cơ mỗi lúc một rõ. Văn Bình đóng cửa sổ bên hông nhìn ra hoa viên. Xuyên qua khung cửa mở rộng này, địch có thể nhìn thấy chàng trốn trong phòng. Đóng lại, chàng có chỗ núp tương đối an toàn.
Rì rì…rì rì…
Xe hơi chạy đến trước hành lang. Đó là một chiếc xe chở hàng hạng trung. Nó được sản xuất từ những năm đầu thế chiến thứ hai, sườn, mui, vè, cửa méo mó, xiêu vẹo. Kiếng chắn gió đã bay phân nửa, thay thế bằng ni-lông dầy. Thùng sau hoàn toàn bít bùng, chỉ chừa ô cửa lên xuống. Xe dừng lại, khói đen tỏa phùn phụt, mùi hôi khét xông lên làm choáng váng mặt mày.
Ở ca-bin có một gã tài xế vạm vỡ, mặc áo sơ mi cộc, cánh tay dựa lên thành xe, bắp thịt nổi cuồn cuộn. Ngoài tài xế ra, băng trước không còn ai. Cửa sau được lật xuống, một đám con gái từ trong xe túa ra ồn ào như ong vỡ tổ.
Chắc đám con gái này là thị tỳ, căn cứ vào lối ăn mặc gọn ghẽ và đơn giản đến độ xuềnh xoàng. Chi tiết nổi bật nhất là sự khỏe mạnh, ả nào cũng có bề ngang và bề dầy trên mức trung bình. Và ả nào cũng xấu xí, tương phản rõ rệt với những cô gái mặc voan mỏng trong phòng.
Cả thảy là 8 nữ tỳ. Nghĩa là mỗi ả hầu một phòng. Họ nói líu lô, bàn chân to bản thô tháp của họ dẫm ình ịch trên hành lang. Gã tài xế đập bàn tay bôm bốp một hồi, đám nữ tỳ mới chịu im, rồi hè nhau khuân bàn ghế từ trên xe xuống. Thì ra đây là tiệc nửa đêm, có 8 cái bàn tròn, kiểu xếp, mặt bằng sắt tây nhẹ, sơn nhiều màu khác nhau, ghế cũng thuộc kiểu xếp, mỗi bàn kèm theo hai ghế. Khuân xong bàn ghế, đám nữ tỳ lễ mễ bưng nhiều cái hộp hình nón và chữ nhật đựng thức ăn, sắp thành hàng dài bên rặng cây dương liễu.
Đám nữ tỳ tíu tít dọn tiệc trong vườn hoa. Họ có vẻ chú tâm hơn, không truyện trò hỗn độn như trước nữa. Trên chiếc xe chở hàng trống rỗng còn lại gã tài xế.
Một mình…
Tuyết Lê nói với Văn Bình:
-Chờ em một phút.
Chàng hiểu ngay ý định nàng. Giờ đây nàng chỉ huy. Văn Bình cười tủm tỉm khi thấy nàng uốn éo ra sân. Nàng không còn trinh nữ vậy mà dáng dấp của nàng vẫn tỏa ra sự tươi mát thần tiên.
Gã tài xế thò cổ ra cửa xe. Tuyết Lê vẫy hắn. Chẳng hiểu nàng nói gì, Văn Bình chỉ thấy tròng mắt hắn sáng rực, rồi hắn tất tưởi mở cửa xe, thót xuống, theo nàng vào phòng.
Kế hoạch của Tuyết Lê được tiến hành xuông xẻ. Gã tài xế đần độn vừa lọt qua cửa thì Văn Bình phạng ngay vào trũng gáy. Nạn nhân ngã dập mặt xuống nền phòng.
Văn Bình ung dung gỡ mũ kết của gã tài xế, đội vào đầu. Riêng mũ này đủ cải trang chàng thành nạn nhân. Chàng không bị ai để ý khi trèo lên xe. Chàng nổ máy, lái được một quãng ngắn bọn nữ tỳ mới biết. Họ kêu chàng ơi ới. Chiếc xe chở hàng sọc sạch qua hết giẫy nhà, biến vào bóng tối. Đèn điện ở khoảng này không có lấy một ngọn.
Tiếp sau giẫy phòng « hợp cẩn » là khuôn viên, diện tích bằng hai sân bóng tròn, hai phía có tường cao. Tít đằng xa là cửa. Như Văn Bình tiên đoán, chỉ có một cửa ra vào, và cửa này được canh phòng chu đáo. Văn Bình không cần nhận kèn hoặc rồ ga, người ta cũng biết xe hơi chạy vì động cơ của nó nổ lớn không thua tiếng nổ của phản lực cơ siêu thanh. Thêm vào đó là những tiếng lèng xèng, lọc cọc, xình xình của các bộ phận trong xe bị lỏng sút, và của giàn đồng bệnh hoạn, tàn tật đòi được chữa trị từ lâu mà chủ nhân chưa thèm ngó tới.
Cửa cổng được mở một bên, vừa lọt cho xe hơi qua. Văn Bình thấy một tên lính đeo mã tấu, dựa trạm gác, ngủ gà ngủ gật. Hắn giựt bắn người, le te bước từ trái sang phải, rồi từ phải sang trái trong cơn mê ngủ, suýt bị cảng xe hất ngã. Chàng nghe loáng thoáng người hỏi:
-Đi đâu hả mày?
Văn Bình ấn lút ga. Chiếc xe chở hàng cổ lỗ sĩ gầm thét, lồng lộn tưởng như sắp phóng trăm cây số một giờ. Trên thực tế, tốc độ tối đa của nó không qua ba, bốn chục cây số.
Tên gác hối hả rượt theo. Một tay điều khiển vô-lăng, tay kia Văn Bình giứt cái cục tròn bằng nhựa cứng khỏi cần số, dùng nó làm phi tiễn ném ngược vào mặt tên gác Cục nhựa trúng miệng, răng cửa của hắn bị tiện đứt. Hắn nhào xuống đất như cái bị cát, môi mép đầy máu.
Sau cổng là con đường giốc. Đờ-dông choán nhiều ngọn đồi liền nhau, trên mấy chục mẫu tây. Khu Văn Bình vừa qua là khu « liên hoan ». Tiếp đến khu gia cư, nhiều giẫy nhà trệt, vách gỗ, mái tôn, song song với nhau, ngăn nắp và sạch sẽ. Toàn khu đóng cửa im ỉm. Tuy nhiên, hầu như nhà nào cũng thắp đèn bên trong, ngoài treo hoa tươi và đèn giấy la liệt.
Đường giốc mỗi lúc một xuống thấp. Văn Bình không dám tăng ga xăng mặc dầu chàng biết xe chở hàng này bò chậm như rùa. Chàng thận trọng vì đường giốc. Đang thoai thoải đột nhiên nó dựng đứng. Văn Bình rợn tóc gáy. Nguy to, chàng phăng ra sự lầm lẫn thì đã muộn. Đây không phải đường giành cho xe hơi. Mà là đường riêng của ngựa. Đến phút này xe hơi chưa nằm ụ hoặc chưa gặp nạn là may lắm…
Con đường ác ôn vẹo sang một bên. Văn Bình vội rà thắng. Rộp, rộp…chết rồi. Bàn đạp thắng nhẹ tâng, nó nằm bẹp luôn xuống sàn xe, không trồi lên xẹp xuống như thường lệ. Hệ thống thắng dầu đã hỏng. Loại xa xưa như trái đất này chỉ có một thắng. Thắng hỏng là đi đời …nhà ma.
Văn Bình thét Tuyết Lê:
-Bám chặt lấy ghế!
Văn Bình không có thời giờ kéo cần xuống số một để hãm trớn chiếc xe bất kham. Hỡi ôi, trước mặt chàng vừa hiện ra một giải nước trắng long lanh. Hỡi ôi, đây là đường dẫn xuống hồ, một cái hồ sâu lút nóc nhà hai tầng. Bờ hồ đầy bụi rậm, bèo tây và hoa dại. Mặt hồ lênh láng ánh trăng. Màu nước xanh biếc. Xanh biếc như tròng mắt người đẹp tây phương. Trời khuya teng teng, với giai nhân bíu vai, lềnh bềnh trên nước, được tung tăng ngụp lặn thì hoan lạc xiết bao.
Mong ước của Văn Bình đã thành sự thật. Chiếc xe chở hàng đứt thắng phom phom tuột xuống hồ. Chàng có cơ hội được ngụp lặn trong làn nước teng teng với người đẹp Tuyết Lê…
Khi xe tuột xuống, nước chảy ào ào vào phòng lái, Văn Bình mới thấy mộng và thật khác nhau một trời một vực. Tuyết Lê hoảng hồn ôm cứng chàng. Nếu nàng bình tĩnh quay kiếng, chờ khí áp trong xe cân bằng với khí áp bên ngoài thì việc thoát khỏi xe trở thành dễ ợt. Nàng mất hết bình tĩnh, Văn Bình phải vất vả lắm mới gỡ được tay nàng trước khi mở cửa xe.
Làn nước không mát rợi, không gợi tình như chàng nghĩ. Nó lạnh thấu xương. Lạnh như thể nước mùa đông ở Bắc cực. Nó cũng chẳng trong trẻo, chẳng thơm tho như chàng nghĩ. Nó mang mùi thum thủm của những ống cống thành phố.
Văn Bình kéo Tuyết Lê vào bờ. Tai nạn do xe hơi gây ra làm náo động đờ-dông. Một số nhà mở cửa. Một số người ùa ra ngoài. Tuyết Lê nhăn nhó một cách khổ sở. Trong khi ấy Văn Bình cười rí rỏm. Tuyết Lê bật khóc, tức tưởi:
-Anh cố tình dìm em vào nước bẩn, phải không?
Rõ oan cho chàng. Chàng cười rí rỏm vì nước thum thủm nhắc chàng nghĩ đến Strauss, cha đẻ của bản nhạc bất hủ « Giòng sông xanh ». Giòng sông Đa-nuýp được nhà siêu nhạc trưởng người Áo hào hoa, bay bướm nhất thế kỷ 19 này ca tụng, có làn nước chẳng trong veo, chẳng thơm tho tí nào. Trái lại nó đục ngầu với đất bùn và lá mủn. Ấy thế trong tác phẩm của ông, nó trong veo, nó thơm tho ngoài sức tưởng tượng…
Chàng giống Strauss ở nhiều điểm. Thứ nhất, đa tình. Bạ ai cũng mê. Mê quên đời, mê chết thôi. Thứ hai, rất thủy chung, mà cũng rất hay quên. Thứ ba, quá giàu óc tưởng tượng, nước hồ lạnh cóng, hôi thối, chàng lại tưởng tượng thành mát rợi, sựa nức mùi Chanel số 5.
Tuyết Lê ngắt chàng mấy cái đau điếng. Nàng là con nhà võ, am tường vị trí các huyệt đạo trên thân thể nên véo cái nào ra trò cái nấy. Chàng sợ nàng phật ý, đành nghiến răng chịu trận. Chàng phải năn nỉ rát cuống họng nàng mới chịu theo chàng lỉnh vào bóng tối, tránh né đám dân làng lũ lượt từ khu gia cư rốc đến ven hồ.
Đờ-dông rộng mênh mông. Văn Bình không biết nên đi đâu. Chỉ còn nước tiến đại về phía có ánh đèn sáng. Hai người xuyên qua một nghĩa trang nhỏ, một niệm Phật đường xây ngất ngưởng trên một thân cây cổ thụ đồ sộ giống chùa Một Cột ở Hà nội. Sau đó là chuồng ngựa, một giẫy nhà tôn thấp lè tè bên trái. Bên phải là nhà kho bề thế.
Tuyết Lê chỉ chuồng ngựa:
-Mình vào đó?
Văn Bình ra hiệu cho nàng rẽ sang phải:
-Không, vào nhà kho tiện hơn.
Lý do khiến chàng bỏ ý định ăn trộm ngựa là sự hiện diện chềnh ềnh đầy khêu gợi của non một chục chiếc xe máy dầu. Đường xá Bhu-tan không thích hợp với xe bốn bánh cồng kềnh. Thời trước, người ta dùng kiệu, cáng và ngựa. Dần dà xe máy dầu được coi là phương tiện phổ biến. Nhiên liệu và đồ phụ tùng khan hiếm, vấn đề nhập nội quá tốn kém, thành thử dân chúng ít dám dùng. Ngược lại, xe máy dầu là cộng sự viên hàng ngày đắc lực của các cơ quan nhà nước.
Văn Bình men sát tường đến nơi đậu xe máy dầu. Tuyết Lê bấm lưng chàng:
-Anh ơi, hai người gác…
Văn Bình ngúc đầu, đáp khẽ:
-Biết rồi. Chúng nó đang hút thuốc. Nơi chúng ngồi có đèn sáng, mình hành động bất tiện. Anh vòng ra sau nhà kho, em lừa chúng nó đến đó.
Trừ hai chái là tường, nhà kho trống hốc trống hác. Nhà kho dài gần 25 mét, vỏn vẹn có ngọn đèn 15 nến ở thềm trước. Hai tên lính ngồi ngay trên cái ghế gỗ dài kê dưới ngọn đèn. Thềm sau của nhà kho bị nhiều giàn cây leo che phủ, tương đối tối hơn.
Chờ Văn Bình khuất sau chái nhà, Tuyết Lê bước về hướng đèn, rồi đằng hắng một tiếng lớn. Hai tên lính ngoảnh cổ nhận ra nàng. Nàng uốn éo quẹo vào góc nhà kho, nơi có nhiều thùng phuy sắt chất đống thành hàng dài dọc theo chân tường.
Tấm thân bốc lửa của Tuyết Lê có thể bắt tượng đá rệu nước miếng, đứng dậy tỏ tình, huống hồ hai gã thanh niên cô đơn, vô tài bất tướng. Nàng ban cho chúng nụ cười mời mọc, chúng khó thể ngồi yên. Ban đêm ở đồng quê Bhu-tan năm thì mười họa mới vớ được « bò lạc » hạng xoàng. Một tên lính hối hả vứt mã tấu xuống đất, giơ tay vẫy rối rít:
-Cô em, cô em, đợi anh với.
Tuyết Lê rảo qua chổ Văn Bình núp. Tên lính đuổi theo nàng có bộ mã to lớn, cằm bạnh, mặt vuông, lưng dầy, lông mày chổi xể, gót chân nện thình thịch. Tồi ra hắn cũng nặng gần một tạ. Miệng hắn liến thoắng:
-Đợi anh với, cô em trốn đâu rồi…
Tuyết Lê dừng lại, cười duyên với hắn rồi bỏ chạy. Tên lính nhào theo. Văn Bình chờ sẵn sau giàn cây leo chằng chịt, hai ngón tay chĩa thẳng. Ngón đòn chỉ công tuyệt luân của chàng thọc trúng yếu huyệt thái dương. Tên lính ngã văng xuống chân Tuyết Lê, tứ chi giẫy đành đạch.
Tên lính thứ nhì khệnh khạng tới. Hắn béo mập không thua bạn hắn bao nhiêu. Diện mạo hắn lại « xôi thịt » hơn nhiều. Thứ lính xôi thịt như hắn chỉ quen hút cần sa, uống rượu bờ-han ngâm gan mật tây ngu một sừng, miệt mài nữ sắc. Từ thuở nhập ngũ đến giờ chưa hề học nạp đạn súng trường, học giương cung hoặc học chém mã tấu. Văn Bình chẳng buồn đụng da thịt hắn. Chàng nhường cho Tuyết Lê đối phó.
Hắn bật ngửa, mắt ốc mở thao láo, hai chân chới với trước cuộc tấn công nhanh như chớp của cô gái mảnh mai, cân đối mà hắn đinh ninh là « bò lạc » ngoan hiền. Tuyết Lê chộp cườm tay hắn, xoay nhẹ một vòng. Nạn nhân quay luôn 360 độ. Tuyết Lê nâng đầu gối, hự một tiếng, hắn trúng đòn ở ngực trái. Tim bị động mạnh, hắn loạng choạng như người say rượu. Nàng bồi thêm một đòn cạnh bàn tay, hắn gục xuống cạnh bạn hắn.
Hắn chỉ bị thương chứ không chết. Tài nghệ của Tuyết Lê chưa đạt đến trình độ giết người bằng bàn tay không. Văn Bình phải hóa kiếp cho tên lính bằng ngón đá móc.
Giẫy xe gắn máy dựng song hàng trước mặt Văn Bình gồm đủ « mác » danh tiếng. Chủ nhân đờ-dông chắc là dân sành điệu. Tuyết Lê ngẩn ngơ chưa biết nên chọn chiếc nào vì chiếc nào cũng tốt, chiếc nào cũng có thể ngốn đường ngang với mô tô cảnh sát. Nhỏ nhất là 48 phân khối, kiểu xe máy dầu nhan nhản hàng ngàn, hàng vạn ở đường phố Sàigòn. Lớn nhất là trên 1.200, nghĩa là tương đương lòng máy xe hơi du lịch. Kể ra đường xá ngoằn ngoèo, hiểm trở nên cưỡi xe máy dầu nhỏ và nhẹ từ 48 đến 98 phân khối. Nhưng Tuyết Lê lại dán mắt vào mấy chiếc cuối giẫy do hãng Suzuki, Nhật bản, sản xuất.
Giới chơi xe 2 bánh thường có thành kiến với Suzuki, máy nó hay nóng bất tử, không chạy được xa, dọt lại không ngon, và nhất là hay gặp trục trặc. Do thành kiến này, xe Suzuki xuống giá kinh khủng. Trên thực tế, đó là thành kiến hoàn toàn sai lầm. Về khả năng chạy nhanh, chạy tốt, chạy bền Suzuki ăn đứt ông vua Honda. Điều quan trọng là biết chọn đúng. Văn Bình tán thành sự tuyển lựa của Tuyết Lê, một chiếc Suzuki GT-750. Trời ơi…trong làng xe gắn máy đua quốc tế, chiếc GT-750 là phương danh kêu to như sấm sét (1), ngay cả bình-bịch Hạc-lây cỡ bự của giới cò công lộ cũng bị nó cho ngửi bụi
Làm chủ chiếc mô tô 750 phân khối oai phong lẫm liệt này, Văn Bình đã nắm chắc 50 phần trăm chiến thắng. Như được chích sinh tố làm trẻ H-3, Văn Bình nhấc bổng chiếc xe máy dầu nặng hơn hai trăm kí ra chỗ rộng, mở công tắc, thử số, rồi nhớm ga. Máy của nó rú lớn như máy chiến xa. Tuyết Lê trèo lên yên sau, quàng tay ngang eo chàng. Chàng thả ga, nó vọt mạnh như viên đạn đại bác bắn cầu vồng. Từ nhà kho qua bậc cấp ra sân, bánh ca su chưa chạm đất đã lướt bay thật nhanh.
Văn Bình không cần định hướng, nơi nào có đường lộ là chàng chạy tới. Chàng vượt qua 5 cánh cổng khác nhau, với nhiều giẫy nhà và nhiều trạm gác trước khi băng giốc, con giốc khá hiểm trở dẫn từ mặt tiền đờ-dông xuống quốc lộ Phun-sô-linh.
Không khí trên quốc lộ bớt ngột ngạt hơn ở trên đồi, trong phạm vi đờ-dông. Ra đến đây cũng như hổ về rừng, Văn Bình tha hồ vùng vẫy. Dẫu chủ nhân đờ-dông huy động toàn bộ lính tráng và thuộc cấp rượt đuổi chàng vẫn thoát nạn dễ dàng. Vả lại, chàng đến và đi như ma quỷ hiện hình, không ai nhìn thấy. Từ đây về biên giới, chàng có thể hưởng sự an toàn.
Vầng trăng thật trong và sáng. Những lùm mây trắng nhuộm trăng bay quanh đỉnh núi cao phủ tuyết trắng. Trong giây lát, chiếc mô tô dọt qua làng Chimakôti.
Tuyết Lê nói lớn vào tai Văn Bình:
-Đã qua khỏi nơi chú Mahan đợi, anh ơi!
Văn Bình đáp:
-Ừ.
-Mình chạy thẳng?
-Ừ.
-Về Phun-sô-linh?
-Ừ.
-Để làm gì?
Văn Bình không đáp, và tăng thêm tốc độ. Cách Chimakôti 10 cây số trên đường biên giới, thấp thoáng bên đường một giòng sông nhỏ. Mặt nước trăng trắng óng ánh in cắt trên nền lá rừng đen xanh. Tuyết Lê ra hiệu cho chàng tốp xe.
Chiếc GT-750 chưa kịp dừng, Tuyết Lê đã bay ra bờ sông. Khoảng cách giữa quốc lộ và bờ sông là 15 mét nên những việc nàng làm được Văn Bình thấy rõ như ngay trước mắt. Nàng nhảy nhót tưng bừng như đứa trẻ, tất cả những gì là y phục trên mình đều được nàng cởi bỏ, ném vứt thành đống, rồi nàng lăn tùm xuống nước.
Nàng tắm. Nàng không thèm quan tâm đến điệp vụ một còn một mất. Nàng chỉ quan tâm đến tình yêu, đến sắc đẹp. Ngoài nàng ra, vũ trụ chỉ là con số không tầm thường, vô nghĩa.
Văn Bình không thể bỏ nàng ở lại. Chàng đành chạy lại, năn nỉ:
-Công việc nguy ngập đến thế này em còn phởn phơ tắm rửa được ư?
Nàng tỉnh khô:
-Anh chưa hiểu gì về đàn bà. Nước hồ hôi quá, em chịu không nổi.
-Lát nữa hoặc sáng mai, em tắm còn kịp.
-Từ đây tới đó anh sẽ chê em.
-Ôi chao…kiếp sau anh quyết không làm đàn ông, anh làm đàn bà để tha hồ hậm họe, hạch sách.
-Hậm họe, hạch sách là anh, không phải em.
-Thôi, sạch lắm rồi, xin mời nữ hoàng lên ngay.
-Còn lâu. Em tắm vì 2 lẽ: một, em sợ anh chê bẩn, hai, em muốn phạt anh.
-Phạt? Anh có tội tình gì mà phạt?
-Tội khinh em. Anh khinh em con nít, miệng còn hôi sữa, anh không cho em biết tại sao đang đêm anh lái mô tô như bay về trạm biên giới Phun-sô-linh. Trước khi đi, anh kéo chú Mahan ra góc thầm thầm thì thì.
-Xin lỗi em. Em bơi lại gần, ghé tai anh nói.
Tuyết Lê cười vui như Tết, xà lại. Văn Bình phải rướn cổ mới sát được mặt nàng. Chàng không bao giờ ngờ cô gái Ấn đáo để kia cho chàng vào xiếc. Chàng mới thốt được một tiếng thì nàng ôm vai chàng kéo luôn xuống nước.
Đi Phun-sô-linh hay đi đâu, nàng đâu cần biết. Nàng giả vờ làm mặt giận để chàng động lòng, chàng chiều ý nàng. Chàng nghiêng người, mất thế quân bình là …rẹt…chàng phải tắm chung với nàng.
Văn Bình la ơi ới:
-Buông anh ra, buông anh ra, anh ngạt thở đến nơi, em Tuyết Lê!
Nàng cười hinh hích:
-Thì em buông. Nhưng anh phải tắm cho sạch.
Báo hại chàng phải tuân lệnh nàng. Vẫn chưa tha, nàng buộc chàng cởi hết quần áo cho nàng giặt. Chàng đoán biết những việc gì sắp sửa xảy ra. Từ bao năm nay, chàng vốn thích một sự kết thúc nên thơ như vậy, nhưng đêm nay chàng no ứ đến cổ -không phải no cơm, no rượu mà là no ưu tư, no công việc- chàng không thể nào rung động được. Chàng lò dò lên bờ thì bị nàng giữ lại:
-Em giặt chưa xong.
-Cần gì em ơi. Đến Phun-sô-linh, anh kiếm bộ khác.
-Khổ quá, con gì cắn cổ em.
Văn Bình không lạ gì thủ đoạn của nàng. Nhưng chàng cứ phải ôm nàng để tìm con vật tưởng tượng. Và nàng hôn chàng.
Và…và cuộc đi Phun-sô-linh bị chậm lại hơn nửa tiếng đồng hồ. Nếu chàng không tỏ thái độ rứt khoát, và nếu chàng không giàu kinh nghiệm, chàng đã phải ở lại một giờ là ít. Đời đàn ông -nhất là đàn ông này mang cái tên định mạng Văn Bình Z.28- thú nhất là được hò hẹn với giai nhân. Ấy thế, Văn Bình được hò hẹn giữa cảnh trăng khuya vằng vặc, trên trời, dưới nước du dương, chàng lại sợ toát bồ hôi.
Z.28 luôn luôn bị hiểu lầm. Ai cũng tưởng chàng sung sướng nhất thế gian. Thiên hạ không sao hiểu nổi tâm trạng của con người bội thực thường trực. Đêm ấy, trên đường Phun-sô-linh, Z.28 còn thiếu vòng tay, quỳ gối lạy lục, giai nhân mới chịu trả tự do cho chàng.
Sông Tuốc-sa uốn khúc dưới chân rặng núi đen sì. Giòng sông cạn rặc, lòng nó đầy sỏi, hình thù gớm ghiếc. Dưới trăng mường tượng như hàng trăm cái đầu lâu nửa trắng hếu, nửa đen mốc nhe răng cười với khách. Bên kia bờ là thị trấn biên giới Phun-sô-linh nơi Văn Bình lái xe qua 24 giờ trước.
Thị trấn nằm bé bỏng và heo hút này càng bé bỏng và heo hút hơn dưới trời khuya tịch mịch. Không một ánh đèn. Không một bóng người. Không một âm thanh lạ. Ngôi nhà được dùng làm đồn công an quan thuế lọt giữa đống gạch đá ngổn ngang của một công thự hai tầng mới đào móng, đổ nền bê-tông. Sát nó là một cây bồ đề uy nghi.
Văn Bình tắt máy xe. Tiếng nổ của chiếc Suzuki đua ròn rã đến nỗi người điếc cũng nghe rõ. Chàng giấu xe trong bụi rồi khom lưng chạy qua một bãi trống đến gần cây cổ thụ. Chàng đẩy Tuyết Lê ép vào thân cây:
-Khi không anh nóng ruột một cách kỳ quặc. Em có nhận thấy gì lạ không?
Nàng đáp ;
-Không. Em chỉ có cảm giác vương vướng ở cuống họng như thể mắc chứng thịt dư.
-Nghĩa là anh và em đều cùng có chung một linh tính.
-Tai nạn?
-Không biết nữa. Có lẽ là tai nạn. Em nên thụp xuống, trong trường hợp có người rình rập, họ sẽ không thấy. Anh lên lầu lôi thằng trạm trưởng Tô-rúp ra khỏi giường, dí gói tiền và lá thư vào mắt hắn.
Lá thư do Sêbu ký tên cùng gói tiền hai ngàn bảng Anh được Văn Bình tình cờ tịch thu được nơi thi thể tên thiếu úy kẹt xe trước đống đá chắn ngang đường. Sêbu là cận vệ trưởng của thái tử Bô-kha, và là em út của tướng Khẩu Cầm. Sêbu thưởng tiền cho Tô-rúp, thưởng những hai ngàn Anh kim, một món tiền kếch sù. Sêbu lại hứa đề bạt Tô-rúp nữa. Sự việc đã quá rõ: tướng Khẩu Cầm cũng như Sêbu biết trước Văn Bình xử dụng lộ trình Phun-sô-linh tới Hang Cọp. Sêbu mà Văn Bình triệt hạ trên vọng thiên đài không phải là Sêbu chính cống. Mà là kẻ giả làm Sêbu. Đội lốt Sêbu để làm gì? Văn Bình đã đoán được câu trả lời, song để vững chắc trăm phần trăm, chàng phải giáp mặt đương sự. Giáp mặt trạm trưởng kiểm soát Tô-rúp trước khi phóng tay đối phó.
Cảm giác nóng ruột day dứt lan dần từ bao tử đến thực quản Văn Bình. Không những chàng nóng ruột, chàng còn nóng bao tử, và nóng cả thực quản. Chàng nhìn sau lưng: bóng dáng mềm mại của Tuyết Lê nhòa chìm vào thân cây bồ đề. Nàng khá giỏi võ, nàng có thể kháng cự hữu hiệu với lưỡi dao bén trong tay vạn nhất nàng bị kẻ thù đánh lén.
Còn chàng…chàng bám cột bê-tông, thoăn thoắt trèo lên. Tầng dưới đất của ngôi nhà lẻ loi này là phòng giấy, ban ngày nhân viên kiểm soát làm việc, tối đến họ ngủ trên lầu. Chàng tin giờ này trưởng trạm Tô-rúp có mặt trên lầu. Tối hôm trước khi qua trạm, chàng thấy Tô-rúp mặc áo phanh ngực, phô bày đám lông quăn tít nâu nâu vàng vàng như râu bắp. Hắn dựa lan can, tay vung vẩy chai rượu. Trời nhá nhem mà mặt hắn đỏ gay. Chiếc díp do Văn Bình lái vừa đậu, Tô-rúp hoảng hốt ném chai rượu, sấp ngửa chạy xuống tầng dưới. Thái độ khác thường của hắn lẽ ra phải được Văn Bình giải thích là hắn đang đợi chàng. Khi ấy chàng nhìn phớt, không để ý. Sự lười biếng suy luận này đang được chàng trả giá thật đắt.
Tầng lầu được ngăn đôi. Văn Bình trèo lên bằng lối sau. Chàng ngồi bệt xuống bao lơn, nghiêng tai nghe ngóng. Tiếng ngáy khò khò từ phòng bên kia vọng ra. Chỉ nghe tiếng ngáy là biết người: Tô-rúp hiện thân cho sự bê bối, quanh năm mê rượu và gái, mê gái và rượu. Hắn ưa thích say sưa, ưa thích ái tình xác thịt. Típ người như hắn dễ bị mua chuộc. Một bữa ăn thịnh soạn hoặc một cô gái ngon lành đủ kéo hắn vào tội ác. Sêbu thưởng hắn hai ngàn Anh kim, điều này cho thấy hắn vừa làm tròn một việc tối hệ
Việc phỉnh gạt Z.28…
Văn Bình đẩy cửa. Tô-rúp không khóa cũng không cài then. Ánh trăng chênh chếch qua khung cửa chiếu xuống cái giường sắt kê lùi vào góc. Tô-rúp đang ngủ say. Hắn lai Ấn độ, hắn khó thể là dân Bhu-tan thực thụ với tấm thân cao to, đẫy đà.
Văn Bình bước lại gần giường, xòe bàn tay đập lưng hắn, miệng gọi nhỏ:
-Tô-rúp.
Chàng gọi đến tiếng thứ hai thì hắn tỉnh. Đang quay mặt vào vách, hắn chồm dậy. Nhanh như chim cắt, hắn tuột xuống đất, tay quơ một lưỡi dao nhỏ bản, cong như lưỡi câu. Hắn không ngái ngủ, mắt nhắm mắt mở như nhiều người khác. Hắn nhìn thấy chàng ngay. Hắn bước tréo, cái lưỡi câu quái gở vung cao khỏi đầu sửa soạn múc xuống:
-Ông…anh…lẻn vào đây làm gì?
Hồi nãy Văn Bình đoán gốc gác của Tô-rúp không sai. Món khí giới lưỡi câu độc đáo chứng tỏ hắn phát xuất từ miền nam Ấn độ, trong tiểu bang Kêrala. Tiểu bang Kêrala có hằng hà sa số rừng già, và nhiều bộ lạc thiện chiến còn quyến luyến nếp sống ăn lông ở lỗ. Đa số bộ lạc ở đó người mun-đờ-ra chuyên dùng lưỡi câu để đẵn gỗ, chặt tre cất nhà hoặc đào lỗ trồng lúa, gặt lúa đem xay giã. Một bộ lạc khác, người u-la-tam (Oullatam) giàu tinh thần thượng võ hơn, xử dụng lưỡi câu để săn cá sấu và đánh giặc.
Như người mun-đờ-ra, bộ lạc u-la-tam rất đa tình. Họ lấy nhau bằng cách rút thăm. Cô gái đến tuổi sang ngang ngồi ẩn trong đụn rạ lớn trong khi các chàng trai nhảy múa chung quanh. Mỗi cậu thủ trong tay một gậy tre ngắn, và được phép thọc đụn rạ một lần, chỉ một lần thôi. Cô gái tóm được cây tre của cậu nào thì cậu ấy thành đấng phu quân.
Bộ lạc u-la-tam học được khoa đánh gậy và khí giới lưỡi câu khá lợi hại. Một số chiêu thức tinh vi và ảo diệu của họ từng được các bậc thầy kiếm đạo Phù tang học hỏi, chế biến và ca ngợi.
Văn Bình cười khẩy, không đếm xỉa đến cái móc sắt nhọn hoắt lắc lư gần đỉnh đầu chàng:
-Cất lưỡi câu đi, Tô-rúp, và xòe tay lãnh tiền.
Hắn tròn mắt:
-Lãnh tiền?
Văn Bình mở gói bạc, vứt tung tóe trên giường:
-Ừ, tiền, hai ngàn Anh kim.
-Hai ngàn Anh kim, trời ơi, tiền đâu nhiều thế?
-Của anh. Cả thư nữa, anh đọc đi.
Liếc nhìn giòng chữ trên mảnh giấy, Tô-rúp tái mặt:
-Thư và tiền của Sêbu.
-Phải. Rượu tây ngu một sừng đâu, anh đưa cho tôi.
Lưỡi của Tô-rúp như muốn líu lại:
-Tiền và thư đúng là của Sêbu. Nhưng còn anh…anh không phải…
-Đúng. Anh nhìn tôi kỹ xem…Sêbu đáng mặt chỉ huy tôi không?
-Không. Anh…ông là người lái xe díp qua đây cách đây hai hôm. Tôi xin ông tha tội. Tôi quen Sêbu do sự buôn lậu và chơi bời, tôi không dính dấp đến chính trị.
-Hừ…hai ngàn Anh kim là tiền lời được chia của một chuyến buôn lậu …người.
-Dạ, buôn lậu người. À không…không có gì hết.
Văn Bình cần trổ tài thu phục Tô-rúp. Chàng giả vờ tiến lên, hoành tay trái một cách chậm chạp, và vụng về, hầu tạo điều kiện cho hắn thi thố kiếm pháp lưỡi câu u-la-tam.
Tội nghiệp, Tô-rúp còn quá non nớt về kinh nghiệm và tuổi nghề nên không cần suy tính. Văn Bình vừa ra đòn, hắn xoay người tránh né, đồng thời đâm tréo lưỡi câu vào vùng tai Văn Bình.
Chàng nhảy lùi, giọng nghiêm nghị:
-Anh muốn giao đấu?
Một bên có khí giới cổ truyền lợi hại, một bên là bàn tay trần trụi, dĩ nhiên Tô-rúp phải khai thác ưu thế của mình. Hắn tiến lên, mắt gườm gườm:
-Ông và tôi không thù oán nhau. Nếu ông rút lui, tôi sẽ bỏ qua chuyện này.
Văn Bình chỉ lưỡi câu sáng loáng:
-Tôi muốn coi tài kiếm pháp u-la-tam của anh đến đâu. Đánh đi, tôi chấp anh 3 đòn. Tôi chỉ né, không đánh trả.
-Chấp 3 đòn…Hừ, ông điên. Cao thủ trong bộ lạc u-la-tam còn chưa dám nhường đối phương 3 chiêu, huống hồ kẻ ngoại đạo là ông.
Văn Bình ưỡn ngực:
-Nếu anh run sợ, tôi chấp thêm 3 chiêu nữa. Vị chi là 6.
Tức giận đùng đùng vì tự ái bộ lạc bị chà đạp, Tô-rúp quay ngang lưỡi câu với chủ tâm móc gẫy xương sườn trái của chàng trong một thế cực kỳ hiểm độc. Hắn chắc mẩm Văn Bình bị trọng thương vì hắn phát đòn lẹ làng và chính xác tối đa. Nửa tích tắc đồng hồ sau, hắn chưng hửng. Lưỡi câu gãi nhẹ vai áo Văn Bình rồi trượt ra xa như thể làn da của chàng được bọc giáp trụ bằng đồng đen thoa mỡ bóng loáng.
Tô-rúp hơi sững sờ. Tuy nhiên hắn nghĩ rằng lưỡi câu hụt mục phiêu do hắn bị xúc động chứ không phải do tài nghệ tuyệt luân của địch. Hắn tin tưởng « Hừ, mày gặp hên, thoát chết đòn móc này, nhưng còn đòn thứ hai, đón hất kỳ bí của bộ lạc, mày đừng hòng… »
Đòn hất từ dưới hất lưỡi câu lên trên thường nhắm động mạch dưới cằm hoặc rốn. Tô-rúp oằn người, múa lưỡi câu nửa vòng. Thâm ý của hắn là đánh dứ làm chàng hoa mắt rồi mới chồm tới, áp dụng đòn hất. Nhưng lần nữa, Tô-rúp lại thất bại. Hắn canh đòn thật kỹ, chẳng hiểu sao đầu móc lưỡi câu không chạm cổ Văn Bình mặc dầu chàng không né tránh.
Văn Bình cười ha hả:
-Vị chi là 2 chiêu. Tiếp tục nữa đi, em út.
Tô-rúp phi thân, hai tay nắm chặt cán lưỡi câu như trong ken đô Nhật bản, chụp từ trên cao xuống khớp vai chàng. Đây là đòn chụp, một trong bốn thế căn bản của kiếm pháp u-la-tam. Văn Bình ngả người ra sau, lưỡi câu lại trệch ra ngoài. Khi tung đòn, Tô-rúp bị mất thăng bằng. Văn Bình khoèo nhẹ, hắn ngã nhào. Khí giới lưỡi câu văng vào vách phòng. Tô-rúp dập mặt xuống cạnh bàn. Cái bàn gỗ cứng đồ sộ bị gẫy đôi, môi miệng Tô-rúp sưng vù, máu tuôn xối xả.
Văn Bình chống nạnh hỏi hắn:
-Chịu thua chưa?
Tô-rúp lặng thinh, lấy ống tay áo chùi máu miệng. Văn Bình ngồi xuống giường, giọng chậm rãi:
-Anh không dám thú thật với tôi vì anh sợ tài nghệ của Sêbu. Mấy chiêu vừa qua đủ cho anh thấy Sêbu và tôi ai giỏi hơn. Thế nào, Tô-rúp, anh báo tin cho Sêbu về việc chúng tôi qua Phun-sô-linh bằng cách nào?
Tô-rúp vẫn lặng thinh. Văn Bình hươi tay dọa đánh. Biết chàng làm mạnh, hắn vội gật đầu lia lịa như chầy máy:
-Vâng, vâng, ông để tôi nói. Trước khi ông vượt biên giới nửa ngày, Sêbu đến gặp tôi. Hắn đi về con đường này như đi chợ nên tôi quen hắn. Hắn là người la-pon song nói tiếng nước tôi rất sõi. Chúng tôi nhậu nhẹt, du hí với nhau. Thời gian gần đây, tôi làm việc cho hắn, do sự giới thiệu của Zo-lim. Hẳn ông biết nàng là em cùng cha khác mẹ của tướng Khẩu Cầm. Mẹ nàng đồng hương với tôi. Bộ lạc u-la-tam không mấy đông đảo, người đồng hương thương nhau như ruột thịt. Sêbu dặn tôi canh chừng biên giới, có gì khả nghi thì báo cáo. Riêng về ông, Sêbu miêu tả hình dạng và nói trong trường hợp giấy tờ không đầy đủ cũng cho phép nhập cảnh. Sau đó gọi điện thoại tới thiền viện ở Hang Cọp phúc trình…
Văn Bình nhếch mép cười nhạt để che dấu sự bối rối đầy sửng sốt. Thì ra đối phương biết hết. Họ biết chàng rượt theo thái tử Bô-kha bằng đường Phun-sô-linh. Họ biết chàng đột nhập thiền đài bắt cóc thái tử mang đi.
Bất giác cả Tô-rúp lẫn Văn Bình đều nhìn về góc phòng. Đúng ra mỗi người nhìn một vật khác. Văn Bình để ý đến cái điện thoại màu đen treo tòng teng trên vách. Bhu-tan « quê một cục » nhưng về phương diện viễn thông lại khá tân tiến nhờ kỹ thuật cao và sự tận tụy của công binh Ấn độ. Phải cái niên giám điện thoại in sai, in thiếu lung tung, còn đường dây thì tốt, có thể gọi bất cứ đâu trong nước.
Đọc thấy ý nghĩ trong luồng nhỡn tuyến của Tô-rúp, Văn Bình đặt câu hỏi đột ngột:
-Anh chờ điện thoại của Sêbu?
Tô-rúp luống cuống:
-Dạ…dạ. Trước đây, Sêbu rất ít liên lạc điện thoại với tôi. Không hiểu sao riêng ngày hôm nay hắn kêu tôi 4 lần. Lần thứ nhất, đúng ngọ hắn hỏi tôi đã gặp thằng đàn em của hắn chưa, tôi đáp chưa. Hắn cúp. 2 giờ chiều gọi lại, tôi vẫn chưa gặp, Sêbu lại cúp. 5 giờ chiều, hắn nói tôi đừng đi đâu, ở nhà chờ hắn. Là vì tôi sửa soạn qua Lôi địa chơi. Hắn cho biết là việc rất quan trọng, hắn muốn xuôi Phun-sô-linh sớm hơn, nhưng xa lộ bị núi lở cắt nghẽn, binh sĩ phải chờ dọn dẹp. 9 giờ tối, hắn loan tin đường được khai thông, hắn lấy mô tô đi ngay. Thưa ông, tôi lo lắm…
Bên trên máy điện thoại, Văn Bình nhìn thấy cây cung bằng tre, và túi tên cũng bằng tre vót. Tròng mắt Tô-rúp mất thần do bộ cung tên, không phải do máy điện thoại. Chàng lớn tiếng:
-Anh sợ Sêbi giết?
Tô-rúp run lập cập:
-Hắn bắn ná giỏi có tiếng. Cung thủ cừ khôi ở Bhu-tan còn thua hắn. Ông ơi, ông hỏi tôi xong chưa, ông cho phép tôi đi trốn…Dường như… dường như…
-Anh nghe tiếng xe?
-Dạ…tiếng bình bịch…Sêbu chuyên cưỡi bình bịch kiểu đua. Hắn phóng như bay, hắn đến tìm tôi rồi ông ơi!
Tiếng mô tô nghe rất gần. Nó nổi lên rồi tắt vì bỗng nhiên gió đổi chiều. Không biết tiếng mô tô của Sêbu hay của Tuyết Lê. Nàng vốn có tính táy máy như trẻ con, đôi khi bốc đồng nàng mở máy nghe tiếng nổ sấm sét cho đỡ…cô đơn.
Tô-rúp mở cửa ra bao lơn:
-Ông để tôi coi có phải Sêbu không?
Văn Bình không ngăn cản tuy chàng biết hắn đang kiếm cớ tẩu thoát. Chàng đã thấu đáo nội vụ, hắn muốn đi đâu tùy ý. Chàng giết hắn không bõ.
Gió núi ập vào. Tô-rúp vừa đặt chân lên ngưỡng cửa thì gục té.
Văn Bình nhoài người trên nền gác. Một mũi tên không rõ từ đâu cắm vào cửa tủ sau lưng chàng. Cắm ngập đến đuôi, phất phơ một sợi chỉ đỏ. Sức lút của nó trong gỗ cứng cho thấy kẻ bắn lén có sức khỏe và tài nghệ phi thường. Nếu Văn Bình tiếp tục đứng khơi khơi, mũi tên này đã xuyên thủng tim.
Hú vía!
Chú thích:
(5) chiếc GT-750 này mang tên Le Mans, máy 2 thì, 3 xi-lanh, lòng máy 738 ph. khối, nặng 230 kí, đặc điểm của nó là mát máy bằng nước, tốc độ tối đa 210 km. Nó hiện là một trong số ít xe máy dầu chạy nhanh nhất thế giới.