← Quay lại trang sách

Chương X Cải tử hoàn sinh

Văn Bình nhặt cái lưỡi câu sắt Tô-rúp đánh rớt hồi nãy, ném mạnh qua khung cửa, đồng thời chàng giựt đứt dây đèn. Bóng điện độc nhất trong phòng phụt tắt. Nương theo vùng tối, chàng chồm dậy, vói cây cung và túi tên vầu.

Một tiếng « choang » từ dưới vọng lên: lưỡi câu sắt rơi trúng tảng đá. Mục đích của Văn Bình là tỏ cho địch biết chàng còn sống và đang quyết liệt phản công. Trừ phi địch lợi thế hoặc đông người…bằng không địch phải rút lui vô điều kiện.

Tiếng máy mô tô lại nổ. Tiếp theo là những tiếng lộp độp. Rồi tiếng kêu của Tuyết Lê:

-Dừng lại.

Tiếng động cơ bình bịch nghe điếc tai. Địch tháo chạy như chàng dự liệu. Văn Bình đạp tung cửa, nhào ra lan can. Trong loáng mắt, chàng tuột xuống đất. Chiếc mô tô đen sì, lấp lánh cờ-rôm của địch vừa biến dạng ở ngã ba, cạnh trạm quan thuế hơn trăm mét. Căn cứ vào hình thù và sức phóng, Văn Bình đoán nó là mô tô đua, từ ngàn phân khối xấp lên. Chiếc Suzuku của chàng mới được 750 phân khối. Phải may mắn và thật gan dạ chàng mới bắt kịp nó trên con đường lạ hoắc như đường Phun-sô-linh…

Tuyết Lê gọi chàng:

-Anh lại đây, anh không sao cả chứ?

Chàng đáp:

-Không, anh cứ lo cho em.

Núp trong góc, Tuyết Lê cười, khoe hàm răng trắng bóng:

-Em chết thế quái nào được. Hắn toan trèo lên bao lơn, em tương cho hai hòn đá, hắn quay lại bắn em thì anh xuống. Hắn lái mô tô thật giỏi, anh ơi. Khi đến, hắn tắt máy tu xa, chạy bằng trớn và khôn ngoan lợi dụng hướng gió nên em không nghe tiếng. Em ném thêm hai viên sỏi, cả hai đều trúng. Hắn phóc lên yên, vù một cái mô tô chồm lên cao rồi hạ xuống cách đó 10 mét. Chắc hắn là tài tử mô tô bay. Mình đuổi theo hắn không?

-Có. Em ôm bụng anh thật chặt. Xe mình yếu cựa hơn xe địch. Do đó anh phải xả hết lực.

Đua mô tô cần nai nịt gọn ghẽ, nhất là đội nón sắt an toàn. Văn Bình lại chẳng có gì hết. Chàng mang thân xác đổi lấy tấm séc của ông tổng giám đốc Sì-mít thì sự sống chết là chuyện thường, nhưng còn Tuyết Lê…Chàng ngần ngừ không muốn chở nàng. Nàng tì bộ ngực căng nở vào lưng chàng:

-Anh định bắt em ở lại hả?

Chàng đành mở ga. Lượt đi chàng lái ẩu một thì lượt về này chàng lái ẩu mười. Chiếc bình bịch của tên thích khách đã nhòa nhạt trong màn sa mù và trăng loãng. Chàng chỉ còn nghe loáng thoáng tiếng máy nổ. Nó chạy trước chàng độ một cây số.

Pằng…pằng…chiếc Suzuki GT-750 nổ to như phát đạn đại bác. Gió thổi ngược, đây là yếu tố thua thiệt đối với chàng vì máy xe của chàng đã nhỏ, chàng lại phải chở đôi. Nguyên tắc sơ đẳng của người cưỡi bình bịch ngược chiều gió là cúi thấp đầu, ngực dính nắp thùng xăng, hầu khỏi mệt, và duy trì được độ nhanh mong muốn. Tuy nhiên, lái trên đường lạ ban đêm thì cách ngồi này rất nguy hiểm, thế quân bình bị giảm thiểu cùng với tầm nhìn xa của tài xế.

Hết bất lợi này đến bất lợi khác. Khỏi thị trấn Phun-sô-linh 5 cây số phía bắc thì gió đổi chiều. Từ hông trái nó quạt ngang vào xe. Văn Bình phải dùng Tuyết Lê làm trái cân để giữ thăng bằng. Nàng ngồi lệch sang bên, không còn được ung dung ôm eo chàng như trước. Xe vượt ổ gà, hố, đá nhảy cỡn như con choi choi. Nàng lỡ tuột tay là bị hất xuống vực thẳm không đáy bên đường…

Tiếng mô tô của địch mỗi lúc một rõ. Khoảng cách được rút xuống phân nửa. Tiếp tục tốc độ này, Văn Bình có nhiều hy vọng theo kịp tên thích khách trước khi về đến địa phận Hang Cọp.

Đường xấu ảnh hưởng nhiều đến vận tốc và mực độ an toàn. Trong làng xe tự động thì xe hai bánh e dè đường xấu hơn cả. Chỉ một viên sỏi vô nghĩa, thậm chí một dúm cát hoặc mấy cái lá rớt trên mặt đường cũng có thể gây tai nạn. Thời tiết Bhu-tan thất thường, mưa nắng lung tung, lộ trình quẹo xiên, rẽ tréo từng phút, từng giây, như thể trong mê hồn trận. Nhiều chặng bánh xe bị mắc cứng trong bùn. Có nhiều đoạn lại trượt loạn xạ như thể nền đường nhựa thoa mỡ…Vì vậy mô tô của địch chỉ cách chàng từ nửa đến một cây số mà Văn Bình rượt bở hơi tai không kịp. Tuy lo ghê gớm, chàng không dám phàn nàn với Tuyết Lê. Chàng lo vì địch có vẻ muốn kìm xe chờ chàng. Hắn đang dụ khị chàng thì phải. Cũng có thể hắn muốn phóng nhanh song bị chàng bám quá sát.

Qua làng Chimakôti, qua tòa đờ-dông đồ sộ, bát ngát nghênh ngang trên sườn đồi, Văn Bình cảm thấy gai ốc mọc lổm nhổm trong mình. Đúng rồi, địch chờ chàng. Chàng cố tình chạy chậm. Địch bỏ chàng 2 cây số rồi bắt chước chàng, cũng chạy chậm. Địch quả là kẻ cừ khôi. Hắn lái mò, không bật đèn pha mà không gặp nạn. Tai hắn rất thính, hắn dựa vào âm thanh ước lượng khoảng cách để điều chỉnh tốc độ.

Những đoạn giốc chữ chi lắt léo và rùng rợn tạm dứt. Mô tô bắt đầu tiến vào quãng đường tương đối bằng phẳng. Đáng lý ở quãng đường này địch có thể khai thác tiềm lực của máy, đằng này tốc độ của hắn lại giảm bớt hơn trước, giảm bớt đến nỗi Văn Bình nhìn thấy hắn dưới ánh trăng.

Địch sửa soạn trò ma giáo gì đây! Trên lộ trình thẳng tắp, không lồi lõm, kẻ cưỡi mô tô giỏi thường bỏ tay khỏi ghi đông và điều khiển bằng bắp đùi. Địch giảm bớt tốc độ chắc để lừa Văn Bình xán gần. Rồi trong một vi phân tích tắc quyết định nào đó hắn quay lại, giương cung nã một phát.

Đề phòng thủ đoạn « đà đao » của địch, Văn Bình lái xe xiên vẹo, luồng nhỡn tuyến tinh tế như được gắn tia laser của chàng dán chặt vào tấm lưng vuông vức to lớn trên yên xe máy dầu khổng lồ sơn hai màu sẫm và trắng.

Khoảng cách thu ngắn dần, thu ngắn dần. Từ nửa cây số thu ngắn còn 200 mét. Rồi 100 mét. Rồi thu ngắn nữa. Thu ngắn thêm nữa. Càng lại gần, Văn Bình càng có ấn tượng vững chắc địch phỉnh phờ chàng xập bẫy. Hừ…chiến thuật lường gạt cũ mèm này đừng hòng lôi kéo được chàng. Tương kế tựu kế, chàng giả vờ ngu ngơ cắm đầu cắm cổ đuổi theo xem hắn phản ứng ra sao…

Nếu địch biết chàng là đàn anh cự phách trong làng đua xe, xe hơi cũng như xe 3 bánh và xe gắn máy 2 bánh đủ cỡ, hắn đã không dám múa rìu qua mắt thợ. Vì Văn Bình chỉ liếc sơ qua là khai ra vanh vách tên hiệu của xe, kích thước lòng máy, sức nhanh tối đa, và ưu khuyết điểm của từng « mác ». Từng tham dự nhiều cuộc đua kinh thiên động địa, lại từng đam mê xe tự động không thua đàn bà đẹp, điệp viên Z.28 không thể không biết chiếc mô tô đẫy đà địch đang xử dụng là báu vật có cái tên kêu vang như súng thần công: M.V.(1)

Trước ngày chú em Honda xông vào bãi đua quốc tế, lần lượt đè bẹp mọi đối thủ thì dưới vòm trời xe gắn máy thế giới chỉ có một ngôi sao sáng duy nhất: Hãng M.V. ở Ý. Trong thời gian 16, 17 năm, các mô tô M.V. đoạt được 30 giải vô địch hoàn vũ. Về lẹ làng và thần tốc, Honda đáng mặt quán quân, nhưng về an toàn đường trường thì số dách vẫn là M.V. Kiểu xe này còn một đặc tính khác: rất bền.

Ngồi sau, Tuyết Lê thúc hông Văn Bình. Nàng tưởng chàng chưa nhìn thấy. Thật ra chàng đã đoán được mưu đồ của tên thích khách trước nàng.

Cách chàng 50 mét, địch đang bon bon theo theo đường thẳng bỗng đổi hướng. Địch quẹo trái, men theo lối đi nhỏ nằm kẹt giữa hai vách đá cao ngút. Độc đạo này là vị trí vô cùng thuận lợi cho địch bố trí phục kích. Một đồng lõa rình sẵn trên đỉnh vách đá, hoặc núp lén trong một hốc núi với cây cung và túi tên vầu đủ bảo đảm phần thắng toàn vẹn…

Văn Bình nẩy tư tưởng muốn lùi. Chàng thắng bớt, nhấp nháy đèn pha ước định tình thế. Kỳ lạ thay, trực giác của chàng không đồng ý cho chàng bỏ cuộc. Con đường độc đạo thuôn thuôn như cổ chai, bề ngang khoảng 2 mét, nhiều chỗ gập ghềnh, non ghi đông có thể xập ổ gà bất cứ lúc nào. Chạy được một lát thì nền đường mở rộng, và chui ra khỏi núi. Trên độ cao gió kêu phần phật. Mô tô của địch tăng bốc ga xăng. Văn Bình hét bên tai Tuyết Lê:

-Thận trọng!

Văn Bình thận trọng không đến nỗi thừa. Một con giốc sâu thăm thẳm hiện ra trong ánh đèn pha. Không riêng gì chàng, địch cũng xài đèn.

Đổ giốc, địch không hãm xe, trái lại hắn còn chạy nhanh hơn. Văn Bình thoáng hiểu dụng mưu của địch. Hắn phóng nhanh để lấy trớn…

Như thể óc chàng gắn máy an bài điện tử, tính toán được trong chớp mắt những dữ kiện, giả thuyết và giải đáp, Văn Bình vùng ngồi thẳng lưng, xả hết tốc độ mặc dầu đường giốc gần 40 độ.

Lưng chừng giốc nổi bật một vạch đen ngòm. Trời ơi, đường giốc đến đây bị cắt đứt bởi vực thẳm. Cái vạch đen ngòm Văn Bình vừa nhìn thấy báo hiệu cho bờ vực. Chiếc M.V. hăng máu của địch vọt qua khoảng trống giữa hai bờ vực, đáp xuống bờ bên kia, một khoảng trống từ 25 đến 30 mét.

Rõ ràng là kế hoạch dụ khị xuống âm phủ..Trong sao đồng hồ quyết định sự sống chết này, Văn Bình thấy chiếc M.V. bay vọt lên cao như được chắp cánh phản lực. Văn Bình cũng nhìn thấy kích thước của vực thẳm, đồng thời bộ chỉ huy trong não bộ của chàng cũng sắp xếp phương thức đương đầu với chướng ngại.

Dùng mô tô vượt qua vực thẳm không phải là thành tích mới lạ. Từ nhiều năm nay, giới đua xe bình bịch hùa nhau lập hết cố gắng này đến kỷ lục khác. Thoạt đầu, người ta học nhảy mô tô qua mui xe hơi. Một cái, hai cái, rồi 10 cái. Kỷ lục vượt mô tô là 10 cái xe hơi đậu sát nhau. Một thanh niên Mỹ, Ni-vơn, nâng cao số 10 lên 16. Nghĩa là mô tô của anh có thể nhảy qua đầu 16 chiếc xe hơi. Vị chi nhảy được 30 mét (2). Dần dà, tích tiểu thành đại, Ni-vơn đạt được kỷ lục thế giới với 44 mét (3).

Văn Bình may mắn được chứng kiến nhiều cuộc tập dượt và tranh tài nhảy mô tô. Chàng chưa nhảy xa bằng Ni-vơn, hoặc bằng các đối thủ của anh ta. Nhưng ít ra chàng đã có thiện chí học hỏi và kiến thức chuyên nghiệp này là sức khỏe và trình độ võ thuật cao siêu của chàng. Chàng tiến bộ nhanh chóng, và hơn một lần biểu diễn những pha nhảy mô tô bay bướm, không thua sự bay bướm của các nghệ sĩ « cát xơ cu » làm thuê cho màn bạc.

Muốn vượt quá 30 mét phải lấy trớn trên đoạn đường dài 10 mét. Đoạn đường 10 mét giống như tấm bàn nhún mà lực sĩ bơi lội nhảy lên trước khi nhào xuống pít-xin. Nhảy mô tô đòi hỏi sự điềm tĩnh, gan lì trên mức trung bình cộng với đức tính văng mạng của kẻ điếc không sợ súng. Vấn đề hên xui ở đây quan trọng không kém. Vô phước dây sên bị đứt hoặc một bu-di chết bất tử -những điều thường xảy ra vào lúc ít ngờ nhất- chắc chắn được chở đi bệnh viện, nằm hàng tháng để thành tàn phế, và tệ hơn là sang thẳng bên kia thế giới. Vua mô tô bay Ni-vơn từng được ngự xe cấp cứu có còi hụ mở đường hai lần, một lần liệt giường liệt chiếu đúng 6 tháng, suýt bị cưa cánh tay.

Văn Bình không có thời giờ cân nhắc hậu quả. Chàng quên bẵng Tuyết Lê ngồi phía sau, tính mạng của nàng hoàn toàn liên hệ đến thái độ sáng suốt hay vụng về của chàng. Chàng cũng không nhớ rằng xe mô tô chàng cưỡi là đồ mượn, chàng chưa hề biết máy móc nó ra sao, bộ phận nào sắp hư, bộ phận nào còn tốt, xăng nhớt còn hay hết. Trước khi nhảy, người ta bắt buộc phải tháo rời xe mô tô, lấy kính hiển vi soi từng cây vít. Vậy mà tai nạn cứ xảy ra đều đều. Phương chi chiếc Suzuki này là mô tô hú họa…

Rừ…rừ… Văn Bình mở bung ga xăng, lưng chàng rạp xuống, chiếc GT băng vào khoảng không.

Tất cả chỉ kéo dài trong nửa giây đồng hồ. Khi ấy, nửa giây đồng hồ lại dài vô kể. Văn Bình có cảm tưởng thời gian đứng khựng, nửa giây dài thành nửa giờ.

Tiếng gió u u đập vào tai chàng. Thân thể chàng bỗng nhẹ tâng như chứa toàn bông gòn. Cả chiếc mô tô nặng nề và cồng kềnh hai người đang cưỡi cũng nhẹ tâng. Người và ngựa sắt dính quấn lấy nhau vèo liệng trong không gian tràn ngập ánh trăng màu sữa loãng.

Rồi như thể thần kinh hệ ngưng làm việc, ngũ quan của Văn Bình bỗng dưng bị những bức màn kiên cố vô hình bủa vây và nút kín. Mắt chàng không còn nhìn thấy cảnh vật, tai chàng không còn nghe được âm thanh của rừng núi ban đêm, mũi chàng và làn da nhạy cảm của chàng không còn ngửi thấy những hương vị độc đáo của chốn thâm sơn cùng cốc huyền bí…

Mô tô hạ thấp, hạ thấp theo hình cầu vồng. Sau cùng lốp trước chạm nền đất cứng. Đất cứng có nghĩa là thoát nạn. Chiếc GT-750 dội bật lên cao chừng 3 mét trước khi đáp xuống lần nữa, và nó tiếp tục dội bật thêm 2 lần mới chịu ngoan hiền lăn bánh trên đất bằng.

Mô tô của địch chỉ cách Văn Bình mấy thước ngắn ngủi. Địch vừa rớt xuống an toàn. Hai cánh tay vạm vỡ của địch kềm chặt ghi đông để giữ xe khỏi trượt ngã.

Địch không ngờ chàng vượt qua vực thẳm an toàn. Nghe tiếng máy rú sau lưng, hắn hoảng hồn rồ hết ga. Hắn toan rẽ vào con đường tắt phía sau đống đá lớn như tòa nhà hai tầng. Văn Bình rồ hết ga trước hắn. Chàng lao thẳng chiếc Suzuki vào bình xăng của chiếc M.V. Dưới sức va chạm ghê gớm, địch văng khỏi yên xe. Tuyết Lê vuột tay, lộn nhào xuống đường. « Chì » hơn, Văn Bình vẫn vững ghi đông. Tuy nhiên, chiếc Suzuki bị lật ngược ngoài dự liệu của chàng. Và kết quả là chàng bị chính chiếc mô tô của mình đè chặn.

Nền đường là đá núi lâu ngày được chân người và thú bào nhẵn nên xương thịt chàng đau rần. Dưới ánh trăng xuông, chàng thấy Tuyết Lê nằm sóng sượt. Chắc nàng chỉ bị choáng váng chứ không lãnh thương tích vì nàng không bị rơi vào thế trái khoáy, nàng còn kịp đập mạnh bàn tay theo phương pháp ukêmi cổ truyền của nhu đạo để hãm sức té.

Kẻ địch có vẻ hên hơn chàng. Bằng chứng hắn chồm dậy được ngay. Cây cung và túi tên bị kẹt sau vai, nhưng hắn đã nắm trong tay cái lưỡi câu nhọn hoắt, bề ngang tương đương với lưỡi lê Trung cộng uốn cong.

Hắn khum người, đầu hơi cúi, một tay nâng cao như người đấu gươm, tay kia hươi ngang khí giới lưỡi câu. Thật mệt cho Văn Bình, từ tối đến giờ chàng phải giao đấu hai lần bằng tay không với lưỡi câu u-la-tam. Tô-rúp mới là kiếm sĩ hạng trung. Còn tài nghệ của Sêbu, kẻ đứng trước mặt chàng, là tài nghệ của bậc thầy.

Không còn hoài nghi gì nữa, hắn đúng là Sêbu. Sêbu, người ét-ki-mô.

Chỉ trông vóc dáng, khuôn mặt và cử chỉ đủ biết hắn sinh trưởng ở Bắc cực giữa băng tuyết trắng xóa và tuần lộc, loại hươu tuyết được thổ dân gọi là tuktu.

Người Bắc cực không cao, cũng không thấp, thân thể chắc nịch như khúc giồi nhét thịt chặt cứng. Tuy mặt đần độn, ngô nghê, cử chỉ lại nhanh nhẹn như được điều khiển bằng máy. Vai của Sêbu vuông và dầy, cặm mắt sáng như cặp mắt chồn trắng, những con chồn chỉ sống ở Bắc cực. Sêbu lừ lừ tiến về phía Văn Bình.

Từ háng trở xuống của chàng bị kẹt dưới hơn hai tạ kim khí của chiếc mô tô 750. Hai tạ chứ ba, bốn tạ chàng vẫn rút được chân như chơi. Sở dĩ chàng bất động vì không hiểu sao chàng bị không thương mà gân cốt lại tê dại. Chàng có cảm giác chiếc Suzuki nặng hơn xe tăng.

Chàng ráng sức chừng nào hai đùi chàng bị mắc cứng chừng nấy. Chàng bèn dùng kế trì hoãn:

-Sêbu, anh không được hỗn.

Địch khựng lại:

-A, anh biết tên tôi.

-Về phần anh, anh chẳng lạ gì tôi.

-Đại tá Z.28.

-Đúng. Z.28 chưa hề thua ai. Anh chọi lại núi Hy mã lạp sơn sao nổi. Gia nhập phe tôi, anh sẽ được ưu đãi đặc biệt.

Sêbu cười hềnh hệch, và tiếng cười chưa dứt hắn vung lưỡi câu mổ ngược vào trũng gáy của Văn Bình.

Trũng gáy…người ét-ki-mô thường có biệt tài về môn đâm trũng gáy. Dùng lưỡi câu u-la-tam đâm trũng gáy dễ trúng mục phiêu hơn dùng dao nhọn thông thường. Biệt tài về đâm trũng gáy bắt nguồn từ thói quen giết tuần lộc của người ét-ki-mô. Người lớn đi săn đã đành, con nít 5, 7 tuổi cũng phải học nghề…đồ tể. Tuần lộc xuất hiện theo mùa, mùa đông chúng bỏ những nơi rét lạnh tản cư hàng ngàn, hàng vạn con đến vùng ấm áp. Nhiều khi tuần lộc xếp hàng ngang rộng gần cây số, và giòng suối hươu tuyết này chảy suốt một giờ đồng hồ chưa hết.

Để có thịt ăn, người ét-ki-mô phải giết thật lẹ. Thọc nhe mũi dao là tủy sống đứt lìa, con tuần lộc gục chết. Tuần lộc là nguồn sống của dân ét-ki-mô vì họ chuyên ăn thịt, và ăn thịt sống máu chảy ròng ròng (4).

Mỗi ngày họ ăn đổ đồng 5 bữa chính, chưa kể những bữa phụ khác. Món chủ lực thường trực là…tuần lộc. Hơn bù kém, họ ngốn từ 6 đến 7 kí thịt mỗi ngày. Một phần thức uống của họ là …mỡ nước. Hàng kí mỡ đun chảy rồi uống xùm xụp như tửu khách văn minh nốc la-ve. Thời tiết quá lạnh, 50 đến 70 độ dưới không độ, họ cần rất nhiều thịt và mỡ. Do đó, họ phải hạ rất nhiều tuần lộc. Nhờ phép đâm trũng gáy họ giải quyết được phần nào nhu cầu ẩm thực.

Dân ét-ki-mô đâm trũng gáy ít trượt ra ngoài. Văn Bình không dám khinh thường Sêbu. Hắn vừa rùn chân, chàng đã tung mình sang bên, lưỡi câu báo hiệu thần Chết vẹt qua mặt chàng.

Chàng kéo được một chân. Chân kia, chân trái, còn bị nhốt trong nhà tù kim khí.

Lưỡi câu ác ôn loang loáng trong không khí sửa soạn phập xuống. Văn Bình nằm ngửa. Sêbu không thể đâm trũng gáy được nữa. Khí giới của hắn vẫn quyến luyến vùng cổ của Văn Bình.

Chàng vùng lên. Tai hại thay, nửa chân trái của chàng bị tê liệt. Chàng chỉ còn lối thoát tối hậu: giơ cánh tay phải làm mộc.

Chàng cầm chắc bị mất một mảng thịt. Chàng không ngờ Tuyết Lê xông lại đúng lúc cứu chàng. Nàng từ sau lưng xô tới. Sêbu không nhìn thấy và cũng không lưu ý. Nàng húc mạnh vai Sêbu làm hắn loạng choạng, bàn chân hắn vấp bánh xe mô tô. Hắn ngã luôn xuống ngực Văn Bình.

Tay phải của chàng chộp cườm tay cầm lưỡi câu của Sêbu. Chàng vặn ngược, vặn ngược cườm tay địch giữa lúc gân cốt của chàng bị suy yếu tối đa.

Dân ét-ki-mô đúng là dân du mục trăm phần trăm. Họ không biết trồng trọt. Vả lại, dầu biết, họ cũng chẳng tìm ra miếng đất màu mỡ nào mà cầy cấy. Ai cũng tưởng mùa rét ở Bắc cực mới là mùa đáng sợ, còn mùa xuân đáng yêu với mặt trời ngự trị trên vòm trời chói lòa 18 giờ mỗi ngày, với những tảng băng trên sông biển tan dần ra nước…Sự thật là đông cũng như xuân, khí hậu có đổi thay, vấn đề ẩm thực vẫn canh cánh theo đuổi người ét-ki-mô 365 ngày trong một năm, không ngưng nghỉ ngày nào.

Tuần lộc mới là một phần của kho thức ăn thiên nhiên Bắc cực. Người ét-ki-mô còn bắt cá, họ không thạo chài lưới, cá lại không có trũng gáy để đâm bằng dao, họ đành bắt tay. Thành thử hai tay họ rất giẻo, họ không học võ thì thôi, họ đã thụ giáo thì lối đánh đỡ của họ đương nhiên luyện được sự thần tốc.

Cườm tay của dân ét-ki-mô vừa mềm lại vừa cứng. Mềm nhờ bắt cá và chim. Cứng do đập vỡ xương ống tuần lộc. Xương ống ngon nhất cái tủy, ông già bà cả thường ghè hòn sỏi vào một đầu, lập tức khúc xương nứt ra, và họ ghé miệng mút. Trai tráng thì lấy hai ống xương chọi vào nhau. Một số dùng cạnh bàn tay chém xuống, lâu dần nói thành chai như được luyện nội công.

Sêbu biết bắt cá và biết xử dụng sống bàn tay. Hắn lại là con nhà võ có hạng, thế tất sức mạnh của hắn được tập trung ở đó. Lẽ ra Văn Bình phải khôn ngoan tránh né. Chàng bẻ tay hắn khác nào chàng tạo cơ hội bằng vàng cho hắn cưỡng chiếm ưu thế.

Đến khi chàng sực nhớ hắn là võ sĩ ét-ki-mô thì đã muộn. Bàn tay chàng bị kẹp cứng trong cái kềm sắt. Chàng càng vùng vẫy, nó càng xiết chặt thêm.

Sêbu chưa đạt tới trình độ có thể bóp nát xương bàn tay của Văn Bình, nhưng ít ra hắn đủ làm chàng bị bong gân. Chàng khó thể tiến hành điệp vụ Hoa Sen xuông xẻ với bàn tay bị thương.

May thay chàng còn bàn tay trái. Chàng từng khét tiếng võ lâm với ngón tát trái vũ bão. Sêbu ghìm chàng xuống, chàng giả vờ kém nước để lừa hắn dìm thấp, và ngay tích tắc đồng hồ quyết định ấy, thế cương đao trảm xà được phóng ra, bàn tay trái xòe ngửa của chàng chọc thẳng lõm nách của Sêbu.

Hắn rú một tiếng, nhả chàng ra. Tức thời, chàng rút nốt cẳng chân khỏi thân xe mô tô. Một ngọn bàn long cước cực kỳ diễm ảo xẹt ngang mặt địch. Bàn long cước là kiểu đá nghiêng, đá bằng cạnh bàn chân, dưới tài phát đòn của Văn Bình, nó trở thành atêmi lợi hại số một.

Trận chiến đang thiên về phía Sêbu đột ngột dồn hết ưu thế cho Văn Bình. Sêbu ngã ngồi, Văn Bình bồi thêm đòn cùi chỏ, hắn đổ xuống chiếc Suzuki như gốc cây bị dao bén chặt đứt.

Tuyết Lê reo lên:

-A ha, anh thắng rồi!

Nàng hò vui, nhí nhảnh, vô tư lự. Nàng không thể hiểu Văn Bình mệt bã từ đầu xuống chân, từ nội tạng ra lớp da ngoài. Nếu Sêbu còn cầm cự thêm vài ba phút, chắc chắn chàng sụp ngã.

Chàng vuốt mặt, nước chảy ròng ròng. Đây là bồ hôi. Bồ hôi chảy nhiều đến nỗi chàng tưởng trời mưa to. Chàng vươn vai, hít một hơi dài, rồi gượng đứng dậy. Sêbu cũng không hơn gì chàng. Cuộc rượt đuổi bằng mô tô trên lộ trình tua tủa tai nạn chết người làm thần kinh căng thẳng tột bực. Sau khi bay qua vực thẳm, hắn đã kiệt lực. Hắn chưa hề được luyện công theo chính giáo như chàng nên dễ bị ngất xỉu. Giờ đây Sêbu không còn là kẻ địch hùng hổ, chỉ nghĩ đến nhai tươi nuốt sống Văn Bình như hồi nào ăn thịt tuần lộc ở Bắc cực nữa. Hắn chỉ còn là đống giẻ rách, gió thổi nhẹ cũng té.

Văn Bình ngó Sêbu bằng cặp mắt trắc ẩn và bao dung:

-Theo định luật giang hồ, anh thua tôi, anh phải tuân hành mọi mệnh lệnh của tôi.

Sêbu gằm mặt không đáp. Hắn phát xuất từ một chủng tộc chất phác, sống gần thiên nhiên, sử sự một cách bán khai mà thẳng thắn. Văn Bình hằng có thiện cảm với các bộ lạc ét-ki-mô, phong tục tập quán của họ có nhiều điểm bị xã hội văn minh chê là man rợ, nhưng xét kỹ nó hàm chứa tinh thần cộng đồng đẹp đẽ.

Xã hội văn minh luôn luôn gặp rắc rối vì tình, nào là tình rao bán bẩn thỉu trong các nhà chứa, tinh thần lén đầy tội lỗi giữa gian phu dâm phụ, nào là những thủ tục ly thân ly hôn phiền toái, đau đớn, nào là sự bố trí bắt quả tang của thừa phát lại, nào là đội cảnh sát kiểm tục… Tại Bắc cực, những rắc rối này hoàn toàn không có. Họ hàng xa, hoặc bạn bè thân được phép mượn vợ của nhau. Người chồng thường vắng nhà nhiều tháng trong năm, người vợ sống giữa cảnh hoang liêu băng tuyết, làm mồi cho đói rét, thú dữ và tật bệnh nên cần sự đùm bọc của phái khỏe. Phong tục mượn vợ từ đó mà ra. Tuy nhiên, việc này chỉ được thực hiện nếu người vợ đồng ý.

Bên cạnh tập quán mượn vợ, bộ lạc ét-ki-mô còn tôn trọng hai tập quán căn bản khác làm khuôn vàng thước ngọc cho bộ lạc. Và kết quả là nạn cướp bóc ở đó không hề xảy ra.

Văn Bình ngồi bệt xuống đất, nâng cằm Sêbu và nói rành mạch từng tiếng:

-Tôi từng sống chung với người đồng hương của anh, tôi hằng kính mền bộ lạc ét-ki-mô nên đến giờ này tôi vẫn chưa hiểu lý do thúc đẩy anh xía vào việc riêng của kẻ khác. Như anh đã rõ, xía vào việc riêng là điều cấm kị, trong nền đạo đức ét-ki-mô.

Bị chạm tự ái chủng tộc, Sêbu nhổm dậy, tay múa thành vòng tròn, sắc mặt bực bội:

-Xía vào việc riêng? Tôi chẳng xía vào việc riêng của ai cả. Tướng Khẩu Cầm ra lệnh cho tôi, tôi làm.

-Anh lầm. Anh gặp thái tử Bô-kha tại Kôtôkenô, và thái tử thu dụng anh. Anh theo đức ngài về Nê-pal. Nếu anh suy nghĩ chín chắn anh đã giữ vững lòng trung thành với đức ngài. Đằng này, anh bỏ đức ngài, chạy theo đứa phản loạn. Chưa đủ, anh còn nghe đứa phản loạn xía vào việc riêng của chủ cũ, một hoàng thái tử, một vì vua tương lai.

Sêbu đờ đẫn trước những lời biện luận và thuyết phục đanh thép của Văn Bình. Người ét-ki-mô vốn phục thiện, hễ nói đúng là họ nghe theo. Nhận thấy hắn bắt đầu xiêu lòng, Văn Bình tấn công tiếp:

-Điều cấm kị thứ hai trong nền đạo đức của xứ anh là bỏ rơi người trong cơn hoạn nạn. Bỏ rơi người lạ đã là có tội, huống hồ bỏ rơi người thân, bỏ rơi thái tử Bô-kha, bỏ rơi phụ vương Mahêna, bỏ rơi dân tộc Nê-pal, quê hương thứ hai của anh. Anh muốn biết tại sao tôi kính mến bộ lạc ét-ki-mô không? Mấy năm trước, thái tử Bô-kha lạc đường suýt mất mạng trong trận bão tuyết ác liệt gần đồn binh Kôtôkenô. Nhờ may mắn, tôi tìm thấy đức ngài và hộ tống đức ngài về đồn binh an toàn. Đúng nửa tháng sau ngày tôi cứu thái tử, đến phiên tôi lâm nạn. Suốt ba ngày đêm, tôi lang thang từ ngọn đồi này đến ngọn đồi khác chơm chởm đá nhọn làm rách giày và trầy da thịt. Ra hết giãy đồi thì dấn vào những cánh đồng mông mênh phủ rêu mủn, chân dính cứng như bùn. Sau đó là những vũng lầy lạnh giá lội bì bõm đến thắt lưng, không một miếng ăn vào bụng. Tôi tưởng chết cóng vì áo mặc ngoài bị thổi bay mất. Qua ngày thứ tư, tôi mắc bệnh kiết lị, chứng bệnh do đói ăn mà ra. Hai ba chục lần một ngày, đến sáng thứ năm tôi không còn sức lê gót được nữa. Tôi lăn trên tuyết chờ chết. Tôi sắp sửa cởi hết quần áo để được thần Chết rước đi nhanh hơn thì gặp một đồng hương của anh. Y cũng bị đói nhưng chưa đến nỗi kiệt quệ như tôi. Y có quyền bỏ mặc tôi để cứu lấy bản thân. Nhưng y đã lưu lại.

Sau bao nỗi vất vả, y dìu tôi về đến đồn binh. Dọc đường, y hy sinh miếng mỡ tuần lộc của y cho tôi. Y đun mỡ ra nước, ép tôi uống. Nhờ uống mỡ tôi khỏi kiết lị. Vì y cứu tôi sống mà y phải nằm mọp gần một tháng trong bệnh xá. Phong tục xứ anh là bất cứ hoàn cảnh nào cũng giúp đỡ mọi người, người lạ đến mượn vật dụng cần thiết như khí giới, áo ấm là bộ lạc ét-ki-mô đưa ngay. Không những thế còn cho luôn nữa. Sêbu, tại sao anh không giúp đỡ ngai vàng Nê-pal đúng với truyền thống cao quý ét-ki-mô?

Sêbu thở dài ra chiều suy nghĩ. Văn Bình gẩy trúng sợi tơ tình cảm trong lòng hắn. Chàng nói, giọng nhỏ nhẻ và thấm thía:

-Chỗ đứng của anh không phải ở đây, sau lưng tướng Khẩu Cầm, mà là ở Bắc cực trong tình thương thanh khiết của bộ lạc ét-ki-mô. Sêbu, tôi sẵn sàng cung cấp phương tiện cho anh hồi hương. Nếu anh muốn, chúng tôi sẽ chở anh bằng máy bay riêng lên Bắc cực. Phi cơ mang theo đầy đủ những món anh cần tới như nhà tiền chế bằng nhôm chống lạnh, máy phát điện, đồ đạc, dụng cụ thường ngày, thuốc men, lương thực, khí giới, nhiên liệu…

Tiếng thở dài của Sêbu não nuột hơn:

-Thú thật với anh, tôi bị lôi kéo. Bản tâm tôi không muốn thế. Tướng Khẩu Cầm dùng tiền bạc, gái đẹp và các thú tiêu khiển giựt gân để mua chuộc tôi. Nhiều lần tôi ráng phá bỏ vòng lưới, quay lại với phong tục thiêng liêng của bộ lạc, quay lại với thái tử Bô-kha, lần nào tôi cũng thất bại. Ông nói điều phải. Vâng, tôi xin theo ông…

Sêbu gọi chàng bằng tiếng « ông » cung kính. Nghĩa là hắn đã chịu thần phục chàng. Dựng chiếc mô tô M.V. của hắn dậy rồi chàng nói:

-Anh lái tôi về gặp thái tử.

Chàng dặn Tuyết Lê:

-Em cưỡi chiếc Suzuki theo sau, anh ngồi chung xe với Sêbu. Em đừng ngại, người ét-ki-mô rất trọng chữ tín, họ nghe mình thì trước sau như một.

Trèo lên yên xe, Sêbu hỏi chàng:

-Tại sao ông biết người ông bắt đêm qua tại vọng thiên đài là Bô-kha giả?

Văn Bình đáp:

-Vì lẽ giản dị, thái tử là bạn tôi như anh đã biết. Nhân viên của anh đóng trò rất khéo, hắn cũng mù mắt đàng hoàng. Nhưng anh ơi, Bô-kha khiếm thị hoàn toàn, hắn lại còn nhìn được phần nào, và có những cử chỉ và lời nói khả nghi, không tương xứng với lại nhân vật hoàng tộc cao cấp, tốt nghiệp văn bằng đại học là Bô-kha. Mặt khác, tên nhân viên đội lốt anh cũng quá vụng về, anh là trưởng ban cận vệ, võ nghệ phải giỏi, đằng này…

Văn Bình bỏ lửng câu nói để Sêbu tự hiểu. Chàng dặm thêm mắm muối vào sự khám phá của chàng. Sự thật -một sự thật chẳng hay ho gì đối với điệp viên thượng thặng- là chàng bị lừa phỉnh một cách dễ dàng. Chàng chỉ phăng ra âm mưu đội lốt của địch sau khi bắt được bức thư ngắn và gói tiền hai ngàn Anh kim do Sêbu gửi tay cho Tô-rúp. Tuy vậy, chàng phải chờ Bô-kha giả ngủ thiếp, thọc atêmi cho hắn mê man rồi lục soát kỹ lưỡng thân thể từ chân răng đến kẽ tóc. Chàng tìm thấy cái máy liên lạc tí hon, kích thước bằng phần ba gói thuốc lá 20 điếu, dán bằng băng keo trên bắp đùi. Hắn có thể báo cáo về cho Sêbu bằng walkie-talkie, do đó chàng không dám hạ thủ hắn. Chàng đóng vai ngu xuẩn để ru ngủ địch. Nếu bại lộ, địch sẽ di chuyển ngay thái tử Bô-kha từ thiền viện đi nơi khác. Chàng kiên nhẫn đợi ban đêm đột nhập đờ-dông gần Chimakôti, kiếm phương tiện cơ khí để đến hỏi tội Tô-rúp tại trạm biên giới Phun-sô-linh.

Sêbu nổ máy bình bịch. Chiếc M.V. được lắp đề-ma-rơ sang trọng như xe hơi. Hắn dứt khỏi con đường gập ghềnh, chạy qua một lòng suối cạn trước khi trèo giốc ngoằn nghoèo lên sườn núi cao. Văn Bình thầm khen nghệ thuật lái mô tô của Sêbu. Nếu chiếc xe chàng cưỡi hồi nãy không phải là Suzuki GT-750 thì chắc chắn giờ này Tuyết Lê và chàng đã nằm bất động dưới vực, thân thể dập nát. Một lần nữa, chàng lại gặp may mắn…Tài xế đường trường thường kiêng mang « mèo biết nói » một bên. Vì sự hiện diện của gái đẹp rất xui. Trái lại, sự hiện diện của Tuyết Lê chẳng xui tí nào. Còn hên, thật hên nữa.

Trong chốc lát, những ngọn đồi cao thấp không đều dẫn đến khu Hang Cọp dật dờ dưới ánh trăng. Tuy mới qua một lần, lúc trời tối, Văn Bình vẫn nhớ rõ lộ trình. Mọi chi tiết cảnh vật đều được óc chàng chụp kỹ. Cây cầu tre mảnh khảnh vắt qua giòng suối rộng 60 mét, nơi Tuyết Lê xẩy chân suýt lăn tòm xuống nước (xẩy chân vô tình hay xẩy chân cố ý để được ôm ấp, Văn Bình không biết) đung đưa trước gió bên trái, và xa hơn nữa là con đường đá nhẵn thín nơi chàng hẹn với bà quản gia Ranchi…

Bên tay phải bập bềnh con suối nước sủi bọt phì phì. Cách đây 24 tiếng đồng hồ, Văn Bình lội qua suối, dùng nội công chống chọi với những cơn xoáy nước nguy hiểm trên đường tới ngọn tháp bát giác và vọng thiên đài. Sêbu đậu xe. Văn Bình hỏi:

-Mình bỏ xe ở đây?

Sêbu đáp:

-Vâng. Con đường này ông đã qua. Lội suối khá nguy hiểm nhưng an toàn hơn.

-Anh nhìn thấy tôi lội suối?

-Vâng, khi ấy tôi theo dõi ông từng li từng tí bằng viễn kính. Bà Ranchi bị tướng Khẩu Cầm ghi sổ đen từ lâu. Bà Ranchi cáo mệt, đi nghỉ sớm, kỳ thật bà lánh mặt, chờ giờ hẹn lẻn ra ngoài núi gặp ông. Vọng thiên đài gồm 8 phòng, phòng tham thiền của thái tử ở hướng đông, nơi ông đã ghé. Sau khi bà Ranchi rời thiền viện, tôi mời thái tử sang phòng hướng tây. Bằng lỗ nhỏ gắn kiếng khuếch đại, tôi quan sát những việc ông làm. Trời Phật không phụ lòng ông, và giòng họ ngai vàng Nê-pal nên sui khiến núi lở, xe hơi của ông mắc nghẽn, ông tóm được thằng em út đưa tin của tôi…

Xa xa rúc tiếng tù và. Sêbu giải thích:

-Đến giờ đổi gác. Cả thảy 5 vọng gác, nơi này có suối nước xoáy nên bỏ trống.

Văn Bình chỉ cây cầu khuất sau đám cành lá nửa đen nửa trắng:

-Trạm này?

Sêbu lắc đầu:

-Đó là trạm chính. Chỉ có một lối ra vào độc nhất.

-Mấy tên gác?

-Luôn luôn có hai. Đề nghị ông lội suối. Qua cầu, tôi chạm bọn lính dưới quyền, phiền lắm.

-Anh là chỉ huy trưởng, cần gì e ngại.

-Tôi chỉ huy toán cận vệ. Trước kia, tôi kiêm nhiệm chỉ huy trưởng. Từ mấy hôm nay, ông Kiang Pô phái một đại úy Tình báo Sở đích thân coi sóc mọi việc. Tôi tuột xuống làm phụ tá.

-Phải giết tên đại úy Tình báo Sở trước khi lên vọng thiên đài.

-Khỏi cần. Sự canh phòng rất chểnh mảng. Bằng chứng tôi chỉ huy toán cận vệ mà đang đêm lái xe đi Phun-sô-linh…

-Để hạ sát Tô-rúp. Vì anh tiên liệu tôi đến gặp Tô-rúp rồi mới tính chuyện tái hồi Hang Cọp rước thái tử Bô-kha.

-Ông nói đúng phần trên, phần về Tô-rúp. Còn về Bô-kha, tôi chưa nghĩ rằng ông đã phăng ra sự tráo đổi. Theo suy luận của tôi, ông chỉ có thể biết có sự đội lốt sau khi tra khảo Tô-rúp. Tôi phải thân chinh giết Tô-rúp vì hắn giỏi võ. Lộ trình khá xa, ngoài tôi không ai có đủ khả năng cưỡi mô tô từ 160 đến 200 cây số một giờ trên đường đèo. Mặt khác, sự có mặt của tôi rất cần thiết trong trường hợp ông đến kiếm Tô-rúp. Ông Z.28 ơi, chắc ông đã khám phá ra thằng em út cải trang là thái tử của tôi có cái walkie-talkie đặc biệt!

-Thứ alkie-talkie mới nhất của Tình báo Sở, chạy bằng điện trì bạc và cờ-rôm, tầm hoạt động 80 cây số, hoạt động liên tục trong 168 giờ đồng hồ, nghĩa là tròn 7 ngày 7 đêm.

-Tôi hết thời, tôi đầu hàng ông là đúng, chẳng còn gì để ân hận. Chỉ tội nghiệp thằng em út.

-Giờ này nó còn sống nhăn. Giết bọn chốt đen, thất đức lắm. Vả lại, nó cần sống để gọi vô tuyến điện thoại về cho anh.

Sêbu lẩm bẩm một mình bằng tiếng ét-ki-mô:

-Mình lầm, mình lầm.

Văn Bình thúc giục:

-Nào, anh mở máy.

Văn Bình ra hiệu cho Tuyết Lê trèo lên sau lưng chàng:

-Cô em của tôi rất sợ nước bẩn. Đàn bà thích làm đẹp mà anh!

-Tôi cứ tưởng ông không tin tôi.

-Nói nhảm. Nếu còn chút nghi ngờ nào, tôi đã làm thịt anh ở dọc đường.

-Tôi xin long trọng cam kết với ông…

-Bỏ qua, đừng nhắc lại nữa. Qua trạm gác, bọn lính thấy chúng tôi không dám nói gì. Chúng nghĩ là anh đi du hí.

Sêbu nín thinh. Tuyết Lê véo hông Văn Bình một cái muốn đứt mảng thịt. Nàng ghé tai chàng:

-Em là bò lạc hả? Anh phát ngôn bừa bãi, Sêbu còn kính nể gì em nữa?

Văn Bình thở phù phù:

-Xin em tha lỗi.

Tuyết Lê cười ngất. Bản tính ngây thơ nhí nhảnh cố hữu trở lại với nàng.

Chiếc mô tô từ từ chạy qua cầu. Đây không phải cầu tre khòng khoèo, yếu ớt, đung đưa như con diều giấy trước gió. Lan can bằng tre, dây buộc cũng bằng tre, nhưng sàn cầu được ghép toàn ván, phẳng và cứng, xe hơi nhẹ lăn bánh bên trên không chồng chềnh.

Vầng trăng khuất sau ngọn tháp bát giác chỉ còn ánh sáng đục lờ lờ lóe lên, cảnh vật rừng khuya Bhu-tan mờ mờ ảo ảo. Gió núi ào ào, rét thấu xương tủy. Hơi nóng từ ngực Tuyết Lê thấm qua làn áo dầy ướt sũng sương của chàng gây ra một cảm giác ấm áp thoải mái chưa từng có. Suýt nữa chàng vít đầu nàng khi mô tô chạy hết cây cầu, sắp đến trạm gác. Hai tay nàng ôm cứng vai chàng. Nàng quên phứt đây là điệp vụ rỡn mặt tử thần, không phải chuyến đi hưởng tuần trăng mật.

Cái được gọi là trạm gác thật ra chỉ là túp lều không vách, lợp tôn uốn ni-lông. Dưới đất, hai bóng đen ngồi co ro bên cây đèn bão nhỏ bé vàng ệch không đủ soi sáng bên trong túp lều. Hai tên gác đang chúi mặt vào nhau hút thuốc. Thuốc xì gà cần sa. Khói thuốc đầy lều. Tiếng máy xình xịch muốn làm điếc tai mà chúng tỉnh bơ. Sêbu dừng mô tô, một tên ngước mặt, giọng khê nặc:

-Đi đâu, thằng khỉ?

Đúng như Sêbu nói, cuộc canh phòng quá ư chểnh mảng. Trưởng đoàn cận vệ lái mô tô về mà hai tên gác không buồn quan tâm tới. Nổi xung, Sêbu quát:

-A, bọn mày dám chửi tao là thằng khỉ?

Cả hai tên gác phóc dậy như máy. Chúng nhận ra Sêbu. Một tên chắp tay:

-Dạ…thưa chúng em lộn. Xin…

Văn Bình đập lưng Sêbu:

-Tha cho chúng. Thôi, mình đi.

Trạm gác tọa lạc ở đầu một con đường nhỏ, hai bên toàn cây cao, thẳng, cành lá rậm rạp như bức tường. Xe mô tô chạy thật chậm. Phía trước tối om. Không một bóng người.

Văn Bình gọi nhỏ:

-Sêbu?

Sêbu thắng xe, quay mặt lại:

-Ông kêu tôi.

Văn Bình trả lời bằng một atêmi vào hố chẩm sau cổ, nơi đó là huyệt kôchu, huyệt chết của nhu đạo, nơi bắt đầu đốt xương thứ nhất, y học gọi là sinh điểm Furen. Chưa võ sĩ nào trên thế giới thoát chết khi bị trúng atêmi nơi huyệt kôchu. Phương chi người đánh lại là siêu điệp viên Z.28.

Z.28 lại xử dụng đòn bàn tay kỳ lạ. Đánh bằng cạnh bàn tay, nhưng không phải bàn tay về phía ngón út. Mà là cạnh bàn tay nằm giữa ngón cái choạc ra và ngón trỏ. Đòn ura-shutô này giành riêng cho những atêmi đánh thật gần.

Văn Bình chủ tâm đánh chết.

Cận vệ trưởng Sêbu, cao thủ về quyền cước và tác xạ ét-ki-mô, viên ngọc quý của tướng Khẩu Cầm văng bật khỏi yên xe mô tô.

Tắt thở tức khắc.

Chú thích:

(1) tức là công ty M.V. Augusta làm mưa làm gió trên các vòng đua từ sau đại chiến thứ hai đến năm 1968 thì bị sụp đổ trước cơn lốc xe Nhật, điển hình là xe máy dầu Honda (riêng năm 1966 Honda đoạt được 5 giải vô địch thế giới).

(2) Robert Evel Knievel, 35 tuổi, hiện ở California, Mỹ. Ni-vơn nuôi mộng nhảy mô tô qua vực thẳm xa 2.896m (sâu 915m) với tốc độ 450km-giờ, bay lên độ cao 300m rồi vứt mô tô bay xuống bờ đối diện bằng dù. Chiếc mô tô mộng của Ni-vơn sẽ xài xăng nitro-méthan, nó là mác Triumph, đặt tên là Gyronaught. Vì là mô tô mộng nên Ni-vơn ôm hoài bão từ năm 1967 mà đến nay chưa thực hiện được.

(3) khi tác phẩm này lên khuôn có tin kỷ lục của Knievel bị Alain Prieur, người Pháp, 25 tuổi, phá (11-08-1974) với 45m25 bằng xe Kawasaki 250 phân khối, nhưng sau đó Prieur bị trọng thương.

(4) ét-ki-mô là tiếng dùng để gọi các bộ lạc la-pon Bắc cực. Ét-ki-mô nghĩa là « kẻ ăn thịt sống ». Người ét-ki-mô tự gọi họ là người hal-mi-ut.