Chương 17 Avery
Nếu bạn phải giết thời gian, đảo Edisto không phải là một nơi tệ để làm việc đó.
Con gió thoảng qua mặt nước, len qua cửa lưới và trêu đùa gấu chiếc đầm vạt quấn đơn giản tôi đã mặc vội sau một ngày dài lười biếng. Tôi đã quên đem theo sạc điện thoại trước khi rời khỏi nhà. Giờ pin đã cạn kiệt, và không có sạc tương thích sẵn có trên đảo. Thay vì trả lời email và lên mạng tìm kiếm mọi thứ liên quan đến những phát hiện đêm qua, tôi lại bị buộc phải giải trí theo phương cách lỗi thời.
Chèo xuồng gỗ trên lưu vực ACE[*] đáng giá một màn tắm nước nóng chưa tới một giây và cái quần soóc bị dính chết hỗn hợp đen đen của nấm mốc sương và bùn nhão trên ghế chiếc xuồng gỗ thuê. Tôi cảm giác như đã tìm lại thời thơ ấu của mình.
[*]Gồm các lưu vực Ashepoo, Combahee và Edisto; đây là một trong những cửa sông chưa phát triển lớn nhất dọc theo bờ biển Đại Tây Dương của Hoa Kỳ.
Chuyến chèo xuồng gợi lại những ký ức xa xưa về chuyến tham quan Edisto vào năm lớp Sáu cùng với cha tôi. Tôi đã làm một đề tài tham dự hội thi khoa học về hệ sinh thái nước thải ở khu Lowcountry. Là một người cầu toàn nhỏ bé cố hết sức đạt được điều mình muốn, tôi đã muốn tự thu thập mẫu vật và chụp ảnh hơn là lấy thông tin từ sách vở. Cha tôi đã giúp đỡ. Chuyến viếng thăm qua đêm của chúng tôi ở nơi đây đã mang lại một trong vài khoảnh khắc cha-và-con-gái độc nhất không bị trói buộc với cuộc thi ngựa hay hoạt động báo chí. Khoảnh khắc đó vẫn còn quý giá, thậm chí sau ngần ấy năm.
Tôi cũng nhớ rằng chính Elliot đã giúp tôi ráp bức màn phông khổng lồ cho buổi triển lãm của tôi. Chúng tôi đã tận dụng những thứ trong căn phòng chất đầy đồ cho cuộc vận động khi xưa, sơn phết lên các tấm biển và tranh luận chi tiết về cách tự dựng mấy mảnh bìa các tông khổng lồ. Cả hai chúng tôi đều không giỏi sử dụng công cụ.
Anh không biết tại sao em không mua đại thứ gì đó. Elliot đã than phiền như thế sau khi cố gắng vĩ đại của chúng tôi thất bại. Lúc ấy đêm đã khuya, chúng tôi vẫn còn ở trong chuồng ngựa của cha tôi, khuỷu tay chúng tôi dính đầy sơn và tấm gỗ đóng đinh xiêu vẹo.
Vì em muốn diễn đạt trong bài luận rằng buổi triển lãm được tạo ra từ vật liệu tái chế. Em muốn có thể nói em đã tự tay làm đề tài này.
Em không thấy điều khác biệt là...
Hết sức may mắn là phần còn lại của cuộc tranh luận chẳng bao lâu đã kết thúc. Tôi nhớ chúng tôi đã tranh luận to tiếng đến mức người quản lý chuồng ngựa của cha phải đánh liều, cầm cái bục gỗ nặng trịch dùng để ngựa nhảy vào trong. Ông ta đem thêm một cái hộp lớn đựng dây buộc và vài cuộn băng keo. Elliot và tôi đã nhận đống đồ đó.
Kí ức về buổi hội chợ triển lãm khoa học khiến tôi bật cười. Tôi liếc nhìn đồng hồ, nghĩ đến việc gọi cho Elliot và chia sẻ điều đó, nhưng tôi không muốn điện thoại bận máy khi Trent Turner gọi. Nỗi lo lắng dấy lên khi tôi nghĩ đến thời gian. Giờ đã hơn năm giờ mà tôi vẫn chưa nhận được tin của anh ta. Có lẽ nào tối nay anh ta phải làm việc muộn ư?
Hoặc có thể anh ta đã đổi ý về việc cho tôi xem những hồ sơ còn lại của ông nội anh ta.
Thêm nửa tiếng nữa trôi qua. Tôi lo lắng như con chuột cảnh bị nhốt trong cái lồng rất nhỏ. Tôi ngồi. Rồi đứng. Tôi đi vòng quanh ngôi nhà, kiểm tra điện thoại để đảm bảo nó vẫn bắt tín hiệu.
Cuối cùng, tôi đầu hàng thôi thúc đi men bờ biển và lén nhìn lướt xem có dấu hiệu ai đó ở trong nhà của Trent hay không. Lúc tôi đã đi được nửa đường, đang liếc quanh mấy đụn cát và hòa thảo thì điện thoại reo.
Tiếng chuông làm tôi giật mình nhảy dựng lên, sẩy chân vào đống cát và rốt cuộc hất tung cái điện thoại lên.
"Tôi sắp sửa bỏ cô rồi đấy." Trent nói khi tôi rốt cuộc cũng bắt máy. "Tôi gõ cửa ba lần nhưng chẳng có ai trả lời. Tôi cứ tưởng cô có lẽ đã đổi ý rồi chứ."
Tôi cố không để lộ ra vẻ háo hức, nhưng vô ích. "Không. Tôi ở đây rồi. Ngay sau nhà ấy." Anh ta bảo đã gõ cửa? Anh ta đang ở trước nhà mình sao?
"Tôi sẽ đi vòng lại."
Tôi liền nhìn về phía tòa nhà Myers và thấy mình ở xa thế nào. Anh ta sẽ biết tỏng tôi đã làm gì. "Tôi nghĩ là cánh cổng có cây thường xuân độc mọc khắp cổng."
"Không. Nơi này không giống thế."
Tôi xoay người và lao ra sân sau, nhưng tôi đang chạy trên cát, chiếc đầm dài quấn quanh chân, đôi dép tông kêu lẹp bẹp. Rồi tôi thoáng thấy bóng dáng chiếc áo xanh gần hàng rào trồng cọ cảnh của bà nội tôi đúng lúc tôi kịp phanh lại và hành động như tình cờ đến gần lối đi lót ván.
Dẫu vậy, Trent nhìn tôi bằng ánh mắt dò hỏi. "Cô trông có vẻ khá thích... đào bới tìm kiếm quanh nhà xưởng của ông nội tôi nhỉ. Tôi đã nói với cô là trong đó rất hỗn độn, phải không? Và phòng nóng lắm."
"Ồ... cái này?" Tôi nhìn xuống chiếc đầm quấn. "Đây là thứ cuối cùng tôi có trong va li. Sáng nay tôi đã lấy chiếc xuồng gỗ ra và làm bẩn quần áo. Tôi khỏe phá hoại lắm."
"Trông cô chả giống một kẻ phá hoại chút nào." Tôi cố giải mã xem anh ta chỉ đang tử tế hay tán tỉnh, nhưng tôi không thể khẳng định hoàn toàn. Tôi hiểu được tại sao anh ta lại thành công trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản rồi. Anh ta rất quyến rũ. "Sẵn sàng chưa?" Anh ta hỏi thêm.
"Rồi."
Tôi đóng cổng sau lại, sau đó chúng tôi cùng thong thả đi xuống bãi biển. Anh ta xin lỗi vì về nhà trễ. "Có một việc hơi kích động ở nhà dì Lou hôm nay. Không hiểu sao, và chẳng có đứa em họ nào thực sự thú nhận chi tiết, Jonah đã ấn viên Cocoa Puff[*] vào mũi. Tôi đã phải ở lại và giúp lấy viên ngũ cốc đó ra."
[*]Tên một nhãn hiệu ngũ cốc ăn sáng dạng viên tròn.
"Anh đã lấy ra được chưa? Thằng bé ổn chứ?"
Trent cười toe toét. "Như hạt tiêu đen thôi. Sự tắc nghẽn rõ ràng đến từ việc không khí bị nén lại bên trong lỗ mũi. Nói cách khác, thằng bé đã hắt hơi. Mặc dù vậy dì Lou vẫn quyết bắt đám em họ thú nhận ai là người phải chịu trách nhiệm. Có tới bảy đứa. Tất cả đều là con trai, và Jonah là đứa nhỏ tuổi nhất, vì thế thằng bé tiếp nhận những bài học cuộc sống theo cách hơi mạnh bạo."
"Khổ thân thằng bé. Tôi có thể thông cảm. Làm một đứa bé quả là không dễ dàng. Mặc dù gia đình tôi toàn là con gái, và điều đó đủ tồi tệ rồi. Nếu anh cần đưa thằng bé theo..."
"Cô đang đùa đấy à? Tôi sẽ chứng kiến một cuộc nổi loạn nếu làm thế. Thằng bé thích ở đó. Hai người dì của tôi và một đứa em họ sống trên cùng một con phố. Còn cha mẹ tôi thường ở đây vài tháng, vì thế đồ ăn và sự phấn khích có liên tục, và thằng bé có người chơi cùng nữa chứ. Đó là lý do quan trọng để tôi chuyển đến đây và mua văn phòng môi giới bất động sản sau khi mẹ của Jonah qua đời. Tôi cần cắt bớt giờ làm việc của mình cho những việc hợp lý, nhung tôi cũng muốn Jonah có gia đình vây quanh. Tôi không muốn thằng bé lớn lên trong một căn hộ mà chỉ có mình tôi."
Những câu hỏi lướt nhanh qua tâm trí tôi. Hầu hết chúng đều có vẻ quá riêng tư. "Trước đây anh sống ở đâu thế?" Tôi biết câu trả lời rồi. Tôi đã tìm hiểu về anh ta khi đi theo học thuyết tống tiền.
"New York." Căn cứ vào cái áo cổ lọ bằng vải ka ki, đôi giày lười bình thường, và chất giọng hơi hướng Texas, thật khó hình dung việc anh ta diện đồ vest đen cài kín cổ theo phong cách New York. "Bất động sản thương mại."
Tôi chợt cảm thấy một sự đồng điệu bất ngờ với Trent Tumer. Cả hai chúng tôi đều phải điều chỉnh với môi trường mới, cuộc sống mới. Tôi thấy ganh tị vói anh ta. "Một sự thay đổi lớn phải không? Anh thích ở đây chứ?"
Vẻ hơi tiếc nuối chợt hiện ra. "Tốc độ phát triển chậm hơn rất nhiều... nhưng đúng. Nơi này tốt lắm."
Tôi rất tiếc về vợ anh. Tôi thấy tò mò về chi tiết câu chuyện, nhung tôi sẽ không hỏi. Tôi nghĩ dưới góc độ của anh ta, việc tán tỉnh có lẽ chỉ là do cô đơn, một cảm xúc tự nhiên một vài tháng sau khi gánh chịu mất mát như thế. Tôi không muốn lừa gạt anh ta theo bất cứ cách nào. Tôi đang đeo nhẫn đính hôn, nhưng đó là nhẫn ngọc lục bảo kiểu công chúa, vì thế mọi người khó lòng nhận ra nó không phải chỉ là trang sức.
"Chúng tôi chưa kết hôn."
Tôi lập tức đỏ mặt, cảm giác như một đứa khờ vì đưa ra các giả định. Ngày nay, bạn chẳng bao giờ biết chắc được điều gì. "Ôi... tôi xin lỗi. Ý tôi là..."
Nụ cười của anh ta làm tôi thấy thoải mái. "Không sao. Chuyện khá phức tạp, chỉ vậy thôi. Chúng tôi là đồng nghiệp... và bạn bè. Chúng tôi đi quá giới hạn sau khi cô ấy ly hôn. Tôi nghi ngờ Jonah là con trai tôi, nhưng Laura bảo là không phải. Cô ấy đã chuyển tới vùng nông thôn để nối lại tình xưa với chồng cũ. Tôi cứ để mặc mọi chuyện. Và tôi không biết sự thật về Jonah cho đến khi cô ấy bị tai nạn giao thông. Jonah bị thương nội tạng và thằng bé cần được hiến gan. Chị gái của cô ấy đã liên lạc với tôi vì họ hy vọng tôi sẽ tương thích. Và đúng là vậy."
"Ồ..." Là toàn bộ những gì tôi có thể nghĩ ra.
Trent bắt gặp ánh mắt tôi. Chúng tôi bèn dừng bước trước khi rẽ vào con đường dẫn tới nhà anh ta, và tôi biết phần còn lại của câu chuyện sắp được kể. "Jonah có hai anh em cùng mẹ khác cha mà thằng bé hầu như chẳng còn nhớ nữa. Có vẻ như thằng bé sẽ không có cơ hội biết anh em mình trừ phi chúng quyết định nối lại quan hệ lúc lớn. Sau phiên điều trần về quyền nuôi con, cha chúng sẽ không để chúng dính dáng gì đến Jonah hoặc tôi. Đó không phải là điều tôi muốn, nhưng chuyện cứ xảy ra vậy thôi. Tôi hiểu những người mà ông nội tôi đã giúp đỡ hơn cô có thể nghĩ đấy."
"Tôi có thể hiểu được tại sao." Tôi kinh ngạc trước sự cởi mở của anh ta. Nỗi đau và sự thất vọng của anh ta quá rõ ràng. Thậm chí anh ta chẳng cố che giấu thực tế rằng anh ta mâu thuẫn về các quyết định hay đánh giá sai lầm trong quá khứ dẫn đến tình huống đầy lựa chọn khó khăn. Những thực tế đó sẽ ảnh hưởng tới Jonah trong suốt quãng đời còn lại của thằng bé.
Tôi đến từ thế giới mà chúng tôi sẽ không bao giờ công khai thừa nhận những điều như vậy, chắc chắn không phải với người gần như xa lạ. Trong thế giới tôi biết, vẻ ngoài hào nhoáng và danh tiếng không tì vết là thứ quan trọng nhất. Trent làm tôi tự hỏi liệu có phải mình đã quá quen với sự ràng buộc đi kèm với việc giữ gìn hình tượng trước công chúng hay không.
Tôi sẽ làm gì nếu phải đối mặt với tình huống giống anh ta?
"Jonah có vẻ là một cậu bé thực sự tuyệt vời." Tôi nói.
"Đúng thế. Giờ tôi không thể tưởng tượng bất cứ cuộc sống nào khác. Tôi đoán mỗi bậc cha mẹ đều cảm thấy thế."
"Chắc chắn rồi."
Trent chờ tôi bắt đầu cất bước đi men theo con đường, rồi đi theo. Một tấm mạng nhện vướng vào mặt tôi khi chúng tôi đi vào sân, sau đó thêm mạng nhện thứ hai. Giờ tôi nhớ tại sao tôi và đám anh em họ luôn tranh luận xem ai sẽ là người đầu tiên lần tìm dấu vết khi chúng tôi cưỡi ngựa trở về nhà từ rừng Hitchcock. Tôi gỡ tơ ra và chộp lấy lá cọ héo úa để quất vun vút vào không khí phía trước.
Trent cười khúc khích. "Trông cô không giống người thành thị lắm."
"Tôi đã nói với anh rằng tôi lớn lên trong chuồng ngựa mà."
"Tôi đã không tin lắm. Tôi đã nghĩ nhà xưởng của ông nội tôi có thể dọa cô sợ chạy mất khi cô nhìn thấy nơi đó."
"Không có cơ hội đó đâu." Khi tôi liếc nhìn qua vai, anh ta đang cười toe toét. "Anh hy vọng chuyện đó sẽ xảy ra thật sao?"
Con đường thông với khoảng sân. Anh ta trở nên nghiêm túc khi chúng tôi đi đến cabin nhỏ mái thấp và bước lên cầu thang trước nhà. "Tôi không chắc. Tôi ước gì ông nội có ở đây để tự đưa ra quyết định này." Nỗi lo lắng hằn sâu trên vầng trán rám nắng của anh ta khi anh ta lấy ra chùm chìa khóa trong túi và cúi người tìm chìa.
"Tôi hiểu. Thật đấy. Tôi đã tự hỏi vài lần rằng liệu tôi có nên đào sâu tìm hiểu quá khứ của bà nội hay không, nhưng tôi chẳng thể ngăn mình lại. Tôi cảm thấy sự thật quan trọng hơn."
Trent tra chìa khóa vào then cửa và mở chốt. "Cô nói chuyện giống một phóng viên hơn là chính trị gia. Cô nên coi chừng, Avery Stafford. Loại chủ nghĩa duy tâm đó sẽ gây phiền toái cho cô trong thế giới chính trị đấy."
Tôi nổi cáu khi nghe lời nói ấy. "Còn anh nói chuyện như một người chuyên đối phó với mấy chính trị gia sai lầm ấy." Anh ta nói y hệt Leslie. Chị ta cũng sợ tôi quá trí thức giáo điều và thiếu thực tế về cách vận hành trong Thượng nghị viện. Chị ta quên rằng, cả cuộc đời, tôi đã phải nghe những người lạ mặt đưa ra ý kiến của họ về mọi thứ từ quần áo đến tiền học phí trường tư của chúng tôi. Thực ra thì không chỉ có người lạ mà còn cả bạn bè nữa. "Trong gia đình tôi, công vụ vẫn là công vụ thôi."
Khuôn mặt anh ta bình thản, vì thế tôi không biết anh ta có đồng ý với tôi hay không. "Vậy cô sẽ không thích điều cô sắp tìm thấy liên quan đến Hội Cô nhi viện Tennessee. Đó chẳng phải là câu chuyện đẹp đẽ như cô đã thấy đâu."
"Tại sao?"
"Nơi đó nhận được sự tôn trọng đáng kinh ngạc, và người phụ nữ điều hành hội - Georgia Tann - hoạt động trong giới nắm quyền, xã hội lẫn chính trị. Mọi người ca tụng việc làm của cô ta. Cô ta đã thay đổi nhận thức chung rằng trẻ mồ côi là thứ phế phẩm. Nhưng thực tế, Hội Cô nhi viện Tennessee ở Memphis đã mục rữa tận gốc. Chẳng có gì lạ khi ông nội chưa bao giờ muốn nói về những điều ông đã làm trong ngôi nhà nhỏ này. Các câu chuyện đều buồn, kinh khủng, và đúng là có hàng ngàn thứ trong đó. Bọn trẻ đều bị đem đi môi giới. Georgia Tann kiếm tiền bằng khoản thù lao khổng lồ cho việc nhận nuôi, vận chuyển, giao người ngoài tiểu bang. Cô ta bắt trẻ con từ những gia đình nghèo, bán chúng cho những người nổi tiếng và những người có ảnh hưởng chính trị. Cô ta đã khống chế các cơ quan thi hành pháp luật và chánh án tòa án gia đình. Cô ta lừa những người phụ nữ trong khoa sản của bệnh viện, ký vào giấy từ bỏ quyền nuôi dưỡng trong khi họ còn mơ màng dưới tác dụng của thuốc giảm đau. Cô ta bảo với họ là con họ đã chết trong khi chúng vẫn sống." Anh ta lôi mảnh giấy gấp nhỏ ở túi quần sau ra và đưa nó cho tôi. "Còn có một vài chuyện nữa. Tôi đã in thứ này ra hôm nay, giữa các cuộc hẹn."
Tờ giấy là bản sao một câu chuyện cũ đăng trên báo. Tựa đề rất thẳng thắn, viết: Người quản lý nhận nuôi có thể là kẻ giết người hàng loạt tàn độc nhất.
Trent dừng tay trên nắm đấm cửa. Anh ta đang chờ tôi xem xét bài báo. "Không có ai đến đây ngoài ông nội tôi và thỉnh thoảng là khách hàng, thậm chí bà nội tôi chưa hề bước vào trong này. Nhưng bà không quan tâm đến vấn đề đó. Bà tôi cảm thấy quá khứ nên ngủ yên. Có lẽ bà đúng. Cuối cùng ông nội ắt hẳn cũng thấy thế. Ông đã dặn tôi dọn dẹp nơi này và hủy mọi thứ còn sót lại. Tôi chỉ muốn cảnh báo trước khi chúng ta vào trong thôi. Tôi không biết điều gì đang nằm ở bên kia cánh cửa này."
"Tôi hiểu. Nhưng tôi... là công tố viên liên bang ở Maryland. Chẳng gì có thể làm tôi choáng váng đâu."
Tuy nhiên chỉ cái tiêu đề của bài báo này cũng đủ sốc rồi. Tôi có thể nói Trent không để tôi bước qua cửa cho đến khi tôi đã đọc bài báo kia - cho đến khi tôi được cảnh báo trước. Anh ta muốn tôi hiểu rằng nội dung bên trong sẽ không phải là những câu chuyện ấm áp và mơ hồ về việc trẻ mồ côi rốt cuộc cũng tìm được mái ấm.
Tôi quay lại với bài báo, và bắt đầu đọc lướt nội dung:
Được mệnh danh là "Người mẹ của Tổ chức Nhận nuôi Hiện đại" và từng có buổi thảo luận với những người giống như Eleanor Rooseve[*] với nỗ lực cải cách các chính sách nhận nuôi ở Mỹ, Georgia Tann thực sự đã tạo điều kiện nhận nuôi cho hàng ngàn đứa trẻ từ những năm 1920 đến năm 1950. Cô ta cũng điều hành một hệ thống dưới sự giám sát của cô ta, được cấp phép hoặc cố ý gây ra cái chết của năm trăm trẻ em và trẻ sơ sinh.
[*]Là chính khách Mỹ, từng sử dụng địa vị Đệ nhất Phu nhân Hoa Kỳ từ năm 1933 đến 1945 để ủng hộ chính sách kinh tế mới của chồng là Tổng thống Franklin D. lẵã Roosevelt, cũng như vận động cho quyền công dân.
"Phần lớn trẻ em không phải là trẻ mồ côi." Mary Sykes cho biết. Bà ấy và em gái nhỏ đã bị bắt ngay trên hàng hiên tại ngôi nhà của người mẹ đơn thân của mình vào năm bốn tuổi và nhận sự chăm sóc của Hội Cô nhi viện Tennessee. "Nhiều đứa trẻ có cha mẹ yêu thương, muốn nuôi nấng chúng. Trẻ con thường bị bắt cóc giữa ban ngày, và cho dù cha mẹ ruột đã cố tranh đấu ở tòa, họ cũng không giành được phần thắng." Bà Sykes đã sống ba năm ở ngôi nhà lớn màu trắng và chịu sự quản lý của Georgia Tann cùng hệ thống phụ tá của cô ta.
Em gái của Mary chỉ mới sáu tháng tuổi khi một người phụ nữ tự xưng là y tá của dịch vụ xã hội đến đưa hai chị em đi. Đứa nhỏ đã sống ở Hội Cô nhi viện Tennessee trong vòng hai tháng.
"Những đứa bé không được ăn uống và chăm sóc tử tế." Bà Sykes cho biết. "Tôi nhớ mình đã ngồi bệt trên sàn nhà trong căn phòng đầy giường cũi, thò tay qua chấn song và vỗ nhẹ cánh tay của em gái. Con bé quá yếu và bị mất nước nên không thể khóc. Chẳng có ai giúp con bé cả. Khi con bé rõ ràng là đã đã yếu tới mức không thể hồi phục lại, một nhân viên đã đặt con bé vào cái thùng các tông và đem con bé đi. Tôi không bao giờ gặp lại con bé nữa. Sau đó tôi nghe nói, nếu mấy đứa bé bị bệnh quá nặng hay khóc quá nhiều, họ sẽ để bọn trẻ trong xe ngựa, phơi dưới ánh mặt trời và bỏ mặc chúng ở đó. Giờ tôi đã có con, cháu và chắt. Tôi không thể nào tưởng tượng ai đó có thể làm những việc này với bọn trẻ, nhưng chuyện ấy đã xảy ra. Chúng tôi đã bị trói vào giường và ghế; chúng tôi bị đánh đập, dìm dưới nước tắm và bị quấy rối. Đó là một căn nhà đầy nỗi kinh hoàng."
Trong suốt ba mươi năm, những đứa bé chịu sự chăm sóc của Hội Cô nhi viện Tennessee đều được trình báo là đã đồng loạt mất tích, giấy tờ của chúng thường biến mất theo, không còn hồ sơ thân thế của chúng. Nếu những thành viên cùng huyết thống đến tìm thông tin hoặc gửi đơn kiện tới tòa án, họ chỉ nói rằng bọn trẻ đã được nhận nuôi và Hồ sơ đã bị niêm phong.
Hoạt động dưới sự bảo hộ của ông trùm Crump, nhân vật chính trị quyền lực nổi tiếng của Memphis, mạng lưới của Georgia Tann có vẻ là bất khả xâm phạm.
Phần còn lại của bài báo nói chi tiết về người môi giới trẻ em tới cha mẹ giàu có và những nhân vật nổi tiếng Holly Wood, những gia đình ruột thịt đau buồn bị bỏ lại, các luận điệu về lạm dụng tình dục và thân xác. Những dòng cuối cùng là trích dẫn từ một người đàn ông điều hành một trang web có tên gọi là Những chú cừu Thất lạc.
"Chi nhánh Memphis của Hội Cô nhi viện Tennessee có "tai mắt" khắp nơi: trong văn phòng công tác xã hội, phòng khám y tế nơi thôn quê, khu xóm dân nghèo và cả trong số những kẻ lang thang. Những đứa trẻ thường được trao cho các nhân viên xã hội và các viên chức đại diện cho Tann. Đôi khi cha mẹ nuôi bị gây khó dễ để đòi thêm tiền chuộc, bị đe dọa sẽ đem con nuôi rời xa họ. Georgia Tann đã duy trì sự bảo hộ của ông trùm Crump và mối quan hệ với hệ thống tòa án gia đình.
Cuối cùng, cô ta có được quyền lực để tự do thay đổi cuộc đời một con người theo ý mình. Cô ta tác oai tác quái và dường như chẳng hề ân hận. Cuối cùng, Georgia qua đời vì căn bệnh ung thư trước khi cô ta có thể bị buộc trả lời các cáo buộc. Những nhân vật quyền lực muốn nhanh chóng khép lại vụ kiện, và điều đó đã xảy ra."
"Chuyện này..." Tôi ngừng lại để tìm từ. Tôi sắp nói không thể tin nổi, nhưng đó không phải là từ đúng. "Thật kinh hoàng. Khó mà tưởng tượng một việc như thế này có thể xảy ra, và trên quy mô lớn đến vậy... trong suốt nhiều năm trời."
"Mãi đến năm 1950, Cô nhi viện Tennessee mới bị buộc đóng cửa." Rõ ràng, Trent cũng thấy khiếp sợ, kinh ngạc và tức giận. Câu chuyện của Mary Sykes đã đề cập đến người em gái đã qua đời của mình khiến tôi nghĩ đến các cháu gái, cháu trai của tôi và mối ràng buộc giữa mấy đứa nhỏ với người thân. Courtney từng trèo vào giường cũi của ba đứa em và ngủ thiếp đi bên chúng nếu con bé nghe thấy chúng khóc vào ban đêm.
"Tôi chỉ không... không thể nào tưởng tượng." Tôi đã khởi tố các vụ lạm dụng và tham nhũng, nhưng vụ này có quy mô quá lớn. Rất nhiều người ắt hẳn biết chuyện đã xảy ra. "Làm sao mọi người lại phớt lờ chuyện này như thế chứ?"
Rồi một ý nghĩ lóe lên trong đầu tôi. Tôi có gia đình ở Tennessee. Họ tham gia giới chính trị và có thế lực. Họ giữ chức vụ ở các tiểu bang khác nhau, làm trong ngành luật và văn phòng liên bang. Họ có biết chuyện này không? Họ đã giả mù sao? Đó là lý do bà nội Judy có liên quan với Trent Tumer Sr. ư? Bà nội đang cố sửa chữa những hành động sai trái của gia đình ư?
Có lẽ bà nội không muốn sự thật lộ ra rằng gia đình bà đã hợp tác với những hành vi tàn ác đó, thậm chí còn hỗ trợ bọn họ?
Máu như rút cạn khỏi đầu tôi, và tôi vươn tay ra chống vào tường để giữ thăng bằng. Hai gò má tôi lạnh toát bất kể giờ đang giữa mùa hè nóng nực.
Gương mặt Trent lộ vẻ lo âu khi anh ta đứng trong tư thế sẵn sàng mở cửa. "Cô chắc chứ?"
Trông anh ta cũng chẳng có vẻ gì chắc chắn hơn tôi. Chúng tôi giống như hai đứa bé đang cố thách thức bản thân bước vào khu vực cấm. Anh ta đang hy vọng tôi sẽ đổi ý và không cần đến những chi tiết đang chờ đợi bên trong ư?
"Sự thật sớm muộn gì cũng lộ ra thôi. Tôi tin rằng chúng ta nên là những người đầu tiên biết sự việc." Nhưng dù nói như thế, tôi vẫn tự hỏi. Cả cuộc đời, tôi đã luôn chắc chắn rằng chúng tôi hoàn hảo. Rằng gia đình chúng tôi không có gì phải giấu giếm. Có lẽ tôi đã quá ngây thơ. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu tôi thực sự đã sai lầm suốt ngần ấy năm?
Trent nhìn xuống giày, đá lớp sơn chống thấm nước bong tróc khỏi hàng hiên. Mảnh vỡ văng vào cái máy kéo đồ chơi màu đỏ trông có vẻ đặc biệt thương tâm vào thời điểm này. "Tôi sợ điều mình sắp tìm thấy ở đây chính là việc nhận nuôi của ông nội tôi giống như những vụ việc trong bài báo đó. Bài báo đề cập đến vấn đề giao mấy đứa nhỏ cho quan chức chính phủ để giữ kín chuyện này. Cha nuôi của ông nội tôi là một trung sĩ cảnh sát ở Memphis. Họ không phải là những người có khả năng trả số tiền nhận nuôi đắt đỏ..." Giọng anh ta nhỏ dần như thể anh ta không muốn nói thêm lời nào về câu chuyện, nhưng ánh mắt anh ta lộ vẻ sợ hãi. Chúng tôi đang mang cảm giác tội lỗi từ tội ác của những thế hệ trước ư? Nếu thế, chúng tôi có thể chịu được gánh nặng đó hay không?
Trent mở cửa, và có lẽ, anh ta đang mở ra cả những bí ẩn nằm bên trong kia.
Ngôi nhà lợp mái thấp và tối tăm. Tường ván trắng rạn nứt và phai màu, lớp kính cửa sổ đung đưa cong vòng trong khung gỗ. Không khí thoảng mùi bụi, nấm mốc và thứ gì khác mà phải mất một lúc tôi mới nhận ra. Mùi thuốc lá ống tẩu.
Mùi hương này lập tức nhắc tôi nhớ đến ông nội Stafford. Văn phòng nằm ở nhà Lagniappe luôn lưu lại mùi hương này.
Trent bật đèn, và bóng đèn ngoan cố lập lòe nằm trong chúc đèn mang phong cách Decoera, món đồ trông thật lạc lõng so với phần còn lại của nơi này.
Chúng tôi đi vào một gian phòng nhỏ xíu. Nơi này có một cái bàn lớn, hẳn đã được mua trong đợt bán hạ giá của thư viện, hai tủ đựng hồ sơ, một cái bàn gỗ nhỏ và cặp ghế kiểu dáng kỳ quái. Một cái điện thoại quay số màu đen cũ kĩ vẫn đặt trên mặt bàn giấy. Có một cái hộp đựng bút chì gỗ, bấm ghim, kìm bấm ba lỗ, một cái gạt tàn bẩn, đèn bàn hình cổ ngỗng, máy đánh chữ chạy điện màu xanh ô liu. Những kệ sách đặt dọc bức tường phía sau bị nghiêng đi vì đống hồ sơ, những bìa hồ sơ cũ, giấy tờ rời, tạp chí và sách.
Trent thở dài, lùa tay vào tóc. Anh ta có vẻ quá to cao so với không gian nhỏ hẹp này. Đầu anh ta chỉ cách xà nhà hơn mười xen ti mét. Giờ tôi mới nhìn thấy xà nhà đó được đẽo bằng tay, nhiều khấc bên trong, hầu hết đều là gỗ lấy từ tàu đắm được trục vớt.
"Anh có sao không?" Tôi hỏi.
Anh ta lắc đầu, rồi nhún vai, chỉ tay vào cái mũ, cái ô cổ điển với họa tiết rồng khắc bên trên tay cầm, và một đôi giày thuyền màu xanh dương. Cả ba thứ đó đều treo trên móc áo, như thể chúng vẫn hy vọng chủ nhân của mình sẽ trở về. "Cô biết không, cảm giác tựa như ông nội vẫn còn ở đây. Hầu hết mọi lúc, ông đều có mùi giống như nơi này."
Rồi Trent mở bức mành, ánh sáng chiếu vào bảng ghim treo trên tường.
"Nhìn kìa." Tôi thì thầm, cổ họng nghẹn lại như dính bùn.
Quả thật là có hàng chục tấm ảnh, vài tấm có màu sắc rõ nét theo phong cách chụp hiện đại, vài tấm là kiểu ảnh chụp lấy ngay đã bạc màu, một số mang sắc đen xám với khung trắng quanh rìa ảnh đề ngày tháng: Tháng Bảy 1941, tháng Mười hai 1936, tháng Tư 1952...
Trent và tôi đứng sóng đôi, nhìn chằm chằm bức tường, mỗi người mải mê với suy nghĩ của mình, vừa kính phục vừa hoảng sợ. Tôi nhìn những bức ảnh - khuôn mặt trẻ con đặt kế bên gương mặt người lớn. Nét giống nhau thể hiện rõ ràng. Những người kia là cha mẹ và con cái, có lẽ là người thân ruột thịt nhưng lại bị tách khỏi nhau. Giờ những hình ảnh khi còn nhỏ của họ đang được treo bên cạnh ảnh trưởng thành.
Tôi nhìn đôi mắt của một phụ nữ xinh đẹp, cô ta có nụ cười thật rạng rỡ, hông cô ta nhô ra khi cô ta địu đứa nhỏ. Chiếc đầm ngoại cỡ và cái tạp dề rộng thùng thình trên khung người của cô ta khiến cô ta trông như một đứa bé chơi trò mặc đồ người lớn. Cô ta chỉ tầm mười lăm hoặc mười sáu tuổi thôi.
Cô có thể nói cho tôi biết điều gì? Tôi tự hỏi. Chuyện gì đã xảy ra với cô vậy?
Bên cạnh tôi, Trent chỉ tay vào vài bức ảnh. Thậm chí còn có vài bức ảnh khác xếp chồng lên nhau nằm bên dưới. Trent Senior là người rất cẩn thận trong công việc.
"Chẳng có thông tin gì ở mặt sau các bức ảnh." Trent quan sát. "Tôi đoán đó là lý do ông không hề nghĩ đến việc yêu cầu tôi lo liệu mấy bức ảnh này. Cô sẽ không thể nào biết những người kia là ai trừ phi cô quen họ."
Nỗi buồn thoáng tác động tới suy nghĩ của tôi, nhưng đó là cảm giác mơ hồ. Tôi tập trung chú ý vào tấm ảnh chụp bốn người phụ nữ đang nắm tay nhau đứng trên bờ biển. Cho dù chỉ là bức ảnh đen trắng, tôi vẫn có thể mường tượng ra trang phục mùa hè màu sắc tươi sáng thuộc thập niên sáu mươi và mũ rộng vành của họ. Tôi có thể nhìn thấy ánh mặt trời phản chiếu trên những lọn tóc dài vàng óng của họ.
Một trong những người phụ nữ đó là bà nội tôi. Bà đang giữ cố định cái mũ. Chiếc vòng tay hình chuồn chuồn đung đưa trên cổ tay của bà.
Ba người phụ nữ còn lại có nét hao hao giống bà nội tôi. Mái tóc quăn vàng óng, đôi mắt màu nhạt, có lẽ là xanh dương. Họ rất có thể là người thân, nhưng tôi không nhận ra bất cứ ai trong số đó.
Mỗi người đều đeo một chiếc vòng tay chuồn chuồn giống như của bà nội tôi.
Ở phía sau, mờ mờ không rõ nét, mấy bé trai đang ngồi xổm gần dòng thủy triều, đầu gối chúng nhô lên khi chúng cố gắng xúc cát và xây tòa tháp.
Một trong mấy đứa trẻ kia là cha tôi sao?
Khi tôi định với lấy tấm ảnh, Trent liền vươn người lên lấy xuống cho tôi. Khi anh ta kéo cái đinh ấn, thứ gì đó màu trắng nho nhỏ rơi xuống, bay là đà như cánh diều mất gió. Thứ đó trông quen thuộc trước khi tôi cúi xuống nhặt nó lên.
Một phiên bản lớn hơn của bức ảnh đang nằm trong cái khung ảnh màu ngà óng ánh ở phòng của May Crandall trong viện dưỡng lão.
Một giọng nói làm nhiễu động không khí, nhưng tôi quá mức tập trung đến nỗi hầu như không nhận ra chính mình đang nói. "Tôi đã từng nhìn thấy bức ảnh này trước đây."