Chương 20 Rill
Người đàn ông đó tên là Darren và vợ ông ta là Victoria, nhưng người ta dặn chúng tôi gọi họ là cha mẹ, chứ không phải Darren và Victoria, hay ông bà Sevier. Tôi chẳng bận tâm nhiều đến điều đó. Tôi chưa từng gọi bất cứ ai là cha hoặc mẹ, vì thế dù sao đi nữa hai từ ấy không có nhiều ý nghĩa trong lòng tôi. Đó chỉ là từ ngữ. Thế thôi.
Queenie và Briny vẫn là người thân của chúng tôi, và chúng tôi vẫn sẽ quay về với họ, ngay khi tôi có thể tìm ra cách. Việc này không khó như tôi tưởng. Nhà Sevier rộng lớn và nhiều phòng trống. Ở sau nhà, có hàng hiên rộng thênh thang trông ra khu đất trồng đầy cây cao và cỏ xanh rì. Và toàn bộ nơi đó đổ dốc xuống một nơi tuyệt đẹp nhất - mặt nước. Không phải con sông. Chỉ là một cái hồ móng ngựa[*] hẹp dài, chảy vào một nơi gọi là đầm lầy Dedmen... và đầm lầy Dedmen sẽ đổ cả ra sông Mississippi. Tôi đã tìm ra nơi đó vì tôi hỏi Zuma, người lau dọn, chuẩn bị bữa ăn ở đây và sống ở nhà xe cũ, nơi đậu xe của ông Sevier. Ông ấy có ba chiếc xe. Tôi chưa từng gặp bất cứ ai có đến ba chiếc xe hơi cả.
[*]Hồ móng ngựa (oxbow lake) từng là các nhánh sông uốn khúc quanh co ngày trước bị phù sa lấp cụt với sông mẹ.
Chồng của Zuma, Hoy, và con gái họ, Hootsie, sống ở ngoài kia cùng với bà ta. Ông ta coi giữ sân và chăm sóc bãi quây gà, lũ chó săn của ông Sevier thích sủa và tru suốt đêm, và con ngựa nhỏ mà bà Sevier đã nói với chúng tôi vào hai tuần trước là chúng tôi có thể cưỡi nó nếu muốn. Tôi đã nói rằng chúng tôi không thích ngựa, mặc dù điều đó không đúng. Tôi bảo cho Fern biết là con bé tốt nhất đừng nói điều gì khác.
Chồng của Zuma là một gã bự con, đáng sợ và xấu xa như quỷ. Và sau khi sống ở nhà của bà Murphy, tôi không muốn người chăm sóc vườn nào đó bắt được tôi hay Fern ở một mình tại bất cứ nơi nào. Tôi cũng không muốn ở một mình với ông Sevier. Ông ấy đã cố dẫn chúng tôi đến chỗ lũ ngựa nhỏ, nhưng chỉ vì bà Sevier ép ông ấy làm thế. Ông ấy sẽ làm mọi việc để tránh cho vợ mình đi lang thang xuống con đường dẫn đến khu vườn mà hai đứa bé đã tử vong ngay khi vừa sinh và đứa thứ ba không bao giờ chào đời, được chôn cất trong những ngôi mộ cùng với tượng cừu con bằng đá đặt bên trên. Lúc ra ngoài đó, bà Sevier sẽ nằm trên mặt đất và gào khóc. Rồi bà ấy về nhà, lên giường và cứ nằm đấy. Những vết sẹo cũ hằn trên cổ tay bà ấy. Tôi biết tại sao những vết sẹo đó xuất hiện, nhưng dĩ nhiên tôi không nói cho Fern.
"Em chỉ cần ngồi trong lòng bà ấy, để bà ấy chải tóc cho em và chơi búp bê với em. Hãy đảm bảo là bà ấy thấy vui." Tôi nói với Fem. "Không được khóc và tè dầm trên giường. Em nghe chị nói rồi chứ?" Đó là lý do duy nhất vợ chồng Sevier đưa tôi về đây. Vì Fern sẽ không nín khóc, cứ tè dầm và tiếp tục gây rối.
Phần lớn thời gian, Fern làm khá giỏi. Mặc dù, một vài ngày, chẳng điều gì có thể giúp bà Sevier. Lúc đó, bà ấy không muốn bất cứ vật sống nào chạm vào mình. Bà ấy chỉ muốn chết thôi.
Khi bà ấy nằm trên giường và khóc thương những đứa con đã mất, ông Sevier sẽ trốn vào phòng nhạc, còn chúng tôi ở với bà Zuma. Bà ta nghĩ việc chúng tôi cứ quanh quẩn xung quanh làm gia tăng quá nhiều công việc cho bà ta. Lúc trước, bà Sevier thường mua đồ cho con gái của Zuma. Hostsie, con bé mười tuổi, nhỏ hơn tôi hai tuổi. Nhưng giờ bà Sevier lại mua đồ cho chúng tôi. Bà Zuma có chút không vui về chuyện đó. Bà ta đã khai thác đủ thông tin từ Fern để biết chúng tôi đến từ đâu. Và bà ta không thể hiểu tại sao những người tốt đẹp như ông bà Sevier lại muốn nhận nuôi thứ rác rưởi trên sông như chúng tôi. Bà ta cho chúng tôi biết suy nghĩ đó, nhung dĩ nhiên, bà ta không thể nói ở những nơi mà bà Sevier có thể nghe thấy.
Zuma không dám đánh chúng tôi, nhưng bà ta rất muốn làm thế. Khi Hootsie gây sự, Zuma luôn che chắn thân hình gầy nhom của Hootsie ở đằng sau. Đôi khi, Zuma lúc lắc cái muỗng gỗ dài về phía chúng tôi lúc không có ai nhìn thấy rồi nói rằng: "Tụi bây nên biết ơn. Nên hôn chân bà chủ vì đã để tụi bây ở trong ngôi nhà đẹp thế này. Tao biết tụi bây là ai và tụi bây cũng đừng quên điều đó. Tụi bây chỉ ở đây cho tới khi bà chủ có con. Ông chủ nghĩ rằng nếu bà chủ chấm dứt việc quá mức lo lắng, chuyện ấy sẽ xảy ra thôi. Lúc đó, lũ chuột sông tụi bây sẽ biến mất như làn khói. Cùng với đống rác rưởi. Hai đứa tụi bây chỉ ở đây lúc này thôi. Đừng có cho rằng nơi này là nhà của mình. Tao đã nhìn thấy điều đó trước đây, vì thế tụi bây cũng nên biết. Tụi bây sẽ chẳng ở đây lâu đâu."
Bà ta nói đúng, vì thế tôi chả có lý do gì để tranh cãi. ít ra, ở đây có đồ ăn và nhiều thứ nữa. Còn có đầm xếp nếp (cho dù mấy cái đầm đó cứng đơ và khiến da tôi ngứa ngáy), nơ buộc tóc, bút sáp màu Crayola, sách và đôi giày Mary Jane[*] mới tinh bóng loáng. Chúng tôi còn được uống ít trà và ăn bánh quy trong bữa tiệc trà. Trước đây, chúng tôi chưa từng tham gia tiệc trà nào cả, vì thế bà Sevier phải chỉ cho chúng tôi biết cách thức.
[*]Là kiểu giày bít mũi với phần mũi giày thuôn tròn, có quai cài ngang mu bàn chân, phổ biến nhất là chất liệu da bóng màu đen và là kiểu giày đến trường quen thuộc của các bé gái.
Không hề có hàng người xếp hàng chờ tắm. Chúng tôi không phải trần truồng trong khi người khác đứng nhìn chằm chằm. Chẳng có ai đánh vào đầu chúng tôi hay dọa trói và treo chúng tôi vào tủ đựng đồ, hoặc nhốt chúng tôi trong tầng hầm. Ít nhất cho đến giờ, những chuyện đó không xảy ra, và như Zuma nói, chúng tôi sẽ không ở đây lâu để tìm hiểu chuyện gì sẽ xảy ra sau khi những đặc quyền mới mẻ này dần biến mất.
Có một điều tôi biết chắc chính là, bất cứ khi nào vợ chồng Sevier chán chúng tôi, chúng tôi sẽ không quay trở lại nhà bà Murphy. Vào ban đêm, sau khi đã được an toàn trong căn phòng bên cạnh phòng của Fern, tôi thường ngó xuống con đường băng qua bãi cỏ và thấy dòng nước chảy len qua những hàng cây. Tôi dõi theo đám đèn bão dập dềnh nổi trên hồ móng ngựa, rồi tôi phát hiện vài ngọn đèn. Đôi khi, tôi vẫn nhìn thấy ánh đèn lơ lửng như sao băng, thậm chí là xa tít trong đầm lầy. Tôi chỉ cần tìm ra cách lên được một trong những con tàu đó, lúc ấy chị em tôi có thể đi qua đầm lầy Dedmen để tới sông lớn. Một khi đến đó, chúng tôi sẽ dễ dàng đi xuôi dòng tới nhánh sông Wolf giao với sông Mississippi ở đảo Bùn. Queenie và Briny vẫn sẽ chờ chúng tôi ở nơi đó.
Tôi chỉ cần tìm cho chúng tôi một con tàu, và tôi sẽ làm thế. Sau khi chúng tôi biến mất, vợ chồng Sevier sẽ không thể biết ngay chuyện gì đã xảy ra với chúng tôi. Cô Tann không nói cho họ biết chúng tôi là cư dân sống trên sông, và tôi dám cá là Zuma cũng sẽ không hé răng tiết lộ điều đó. Cha mẹ mới vẫn nghĩ mẹ ruột của chúng tôi là sinh viên đại học, còn cha là giáo sư. Họ nghĩ mẹ tôi mắc bệnh viêm phổi và qua đời, cha tôi mất việc và không thể nuôi nấng chúng tôi. Họ cũng nghĩ Fern chỉ mới ba tuổi, nhưng thật ra con bé đã bốn tuổi.
Tôi không nói cho ông bà Sevier nghe sự thật. Phần lớn, tôi chỉ cố cư xử thật tốt để không xảy ra chuyện gì trước khi Fem và tôi có thể trốn thoát.
"Hai đứa đây rồi." Bà Sevier lên tiếng khi thấy chúng tôi đang ngồi ở bàn chờ điểm tâm. Bà ấy cau mày, vì chúng tôi vẫn mặc quần áo được chỉ định mặc tối qua. Fern đang mặc cái quần sọc ca rô màu xanh và áo nhỏ cài nút phía sau. Chiếc áo có diềm đăng ten phồng lên quanh cánh tay con bé và lộ ra phần bên bụng dưới lớp đăng ten của gấu áo. Còn tôi mặc đầm màu tím mềm mại có cổ áo xếp nếp, phần thân trên lại quá nhỏ. Tôi phải hít vào để cài được nút áo, và đúng ra tôi không cần phải làm thế, nhưng tôi đang phổng phao hơn, tôi đoán thế. Queenie nói những đứa trẻ nhà Foss chúng tôi luôn lớn nhanh như thổi.
Tôi đang phát triển vượt trội, hoặc nguyên nhân là do ở đây chúng tôi không phải ăn cháo bắp mà là nhiều thứ khác. Mỗi buổi sáng, tất cả chúng tôi ngồi ăn một bữa thịnh soạn, và Zuma sẽ làm cho chúng tôi một khay sandwich vào buổi trưa. Buổi tối, chúng tôi cũng được ăn một bữa thỏa thuê, trừ phi ông Sevier bận rộn trong phòng nhạc và phải gọi bữa tối ăn trong phòng. Khi ấy, chúng tôi lại có bánh sandwich, bà Sevier sẽ chơi cùng chúng tôi trong nhà, và Fern rất thích điều đó.
"May, ta đã nói với con là chẳng có lý do gì để con dậy quá sớm và bắt Beth bé bỏng cũng phải thay đồ." Bà Sevier khoanh tay bên trên chiếc áo choàng tắm, dáng vẻ tựa như Nữ hoàng Cleopatra. Fern và tôi cũng có áo choàng như thế. Mẹ mới của chúng tôi đã bảo Zuma đặc biệt may mấy cái áo ấy cho chúng tôi. Nhưng chúng tôi chưa mặc những bộ đồ ấy lần nào. Tôi nghĩ tốt nhất chúng tôi không nên quen với những món đồ tốt đẹp, vì chúng tôi sẽ không ở đây lâu.
Hơn nữa, ngực tôi giờ đã hơi nhô ra, chiếc đầm đó lại bóng và mỏng nên sẽ làm lộ hai điểm nhô lên ấy. Và tôi không muốn bất cứ ai nhìn thấy chúng.
"Bọn con đã chờ... một lát ạ." Tôi ngó xuống đùi. Bà ấy không hiểu rằng từ nhỏ đến giờ chúng tôi đã luôn thức dậy vào lúc bình minh. Không hề có cách sống nào khác ở trên nhà thuyền. Khi dòng sông tỉnh giấc, bạn cũng thế. Lũ chim cất tiếng hót véo von, những con tàu giật còi báo hiệu, và từng đợt sóng lần lượt xô vào bờ nếu bạn neo tàu ở nơi nào đó gần con kênh chính. Phải có người canh chừng dòng chảy, xem cá đã cắn câu chưa và nhóm lửa bếp lò. Có nhiều việc cần phải làm.
"Đã đến lúc hai con phải tập ngủ cho tới một khung giờ đàng hoàng rồi." Bà Sevier lắc đầu nhìn tôi, và tôi không biết liệu bà ấy đang đùa hay bà ấy không thích tôi cho lắm. "Con không còn là trẻ mồ côi nữa, May. Đây là nhà con."
"Vâng, thưa bà."
"Vâng, thưa mẹ mới đúng." Bà ấy đặt tay lên đầu tôi và nghiêng người hôn vào má Fern, sau đó giả vờ nuốt chửng tai con bé. Fem liền cười khúc khích và ré lên.
"Vâng, thưa mẹ." Tôi lặp lại. Cách gọi này không tự nhiên, nhưng tôi đang dần làm tốt hơn. Lần tới, tôi sẽ ghi nhớ điều này.
Bà Sevier ngồi xuống cuối bàn, chống cằm, cau mày nhìn hành lang dài. "Ta nghĩ con chưa gặp cha sáng nay phải không?"
"Vâng, thưa mẹ."
Fern co người lại trên ghế và cau mày nhìn mẹ mới của chúng tôi với vẻ lo lắng. Tất cả chúng tôi đều biết ông Sevier đang ở đâu. Chúng tôi có thể nghe thấy tiếng nhạc đang vang vọng trong hành lang. Ông ấy không được vào phòng nhạc trước bữa điểm tâm. Chị em tôi đã nghe vợ chồng họ cãi cọ về vấn đề này.
"Dar... ren!" Bà Sevier gọi lớn, gõ móng tay trên bàn.
Fern liền đưa tay lên bịt tai lại, bà Zuma vội vã lao tới, cầm một cái tô sứ được bọc kín trong tay. Cái nắp suýt trượt xuống trước khi bà ta kịp tóm lại. Tròng trắng xuất hiện quanh mắt bà ta, rồi bà ta thấy bà Sevier không phải đang nổi điên với bà ta. "Tôi sẽ đi gọi ông chủ, thưa bà." Rồi bà ta đặt cái tô trên bàn và hét qua vai hướng tới nhà bếp. "Hootsie, đem mấy đĩa thức ăn lên trước khi chúng nguội mất đi!"
Nói xong, bà ta lướt nhanh qua bàn, cứng đờ như cây chổi quét bụi, và bắn ánh nhìn bực bội về phía tôi khi mẹ mới của chúng tôi không để ý. Quay ngược thời gian trở lại trước khi chúng tôi đến, Zuma chẳng cần phải dùng đến nhiều bát đĩa như thế này cho bữa sáng. Bà ta chỉ phải chuẩn bị một khay đồ ăn và đem đến phòng ngủ của bà Sevier. Hootsie đã nói với tôi như thế. Trước khi chúng tôi đến, thỉnh thoảng Hootsie sẽ ở trên lầu cùng với bà chủ cả buổi sáng, chỉ xem tạp chí Life, sách tranh và cố làm cho bà chủ vui vẻ để ông chủ có thể làm việc.
Bây giờ Hootsie phải giúp việc trong nhà bếp, và đó là lỗi của chúng tôi.
Con bé đó thò một chân dưới bàn và giậm mạnh vào ngón chân tôi khi đặt đĩa trứng xuống.
Trong chốc lát, Zuma đã đến gần hành lang cùng với ngài Sevier. Bà ta là người duy nhất có thể đưa ông ấy rời khỏi phòng nhạc khi cánh cửa đó đã đóng lại. Bà ta đã chăm sóc ông Sevier từ khi ông ấy còn là một cậu bé, và bà ta vẫn chăm sóc ông ấy như thể ông ấy còn bé lắm. Ông Sevier nghe lời bà ta trong khi ông ấy còn chẳng nghe lời vợ mình.
"Ông phải ăn sáng!" Bà ta nói khi đi theo ông Sevier vào hành lang, hai tay bà ta vung vẩy trong bóng nắng ban mai. "Tôi đã nấu toàn bộ số thức ăn này, và một nửa đã nguội mất rồi."
"Hồi nãy, lúc tỉnh giấc, một giai điệu chợt xuất hiện trong tâm trí ta. Ta phải soạn ra trước khi nó biến mất." Ông Sevier dừng lại ở cuối hành lang, đặt một tay lên bụng và giơ tay còn lại lên không trung. Ông ấy múa may như một diễn viên trên sân khấu. Rồi ông ấy cúi chào chúng tôi. "Chào buổi sáng, các quý cô."
Cái cau mày của bà Sevier nhướn cao. "Anh biết rõ điều chúng ta đã thỏa thuận mà, Darren. Không vào phòng nhạc trước bữa sáng, và mỗi bữa phải ngồi ăn cùng với nhau. Làm sao hai cô bé này hiểu được gia đình là gì nếu anh cứ tự nhốt mình hàng giờ trong đó chứ?"
Ông Sevier không dừng lại ở ghế của mình mà vòng quanh bàn và hôn ngang môi vợ. "Giai điệu sáng nay của anh thế nào?"
"Ôi, dừng lại đi." Bà Sevier than phiền. "Anh chỉ đang cố tránh né em thôi."
"Và ta đã thành công phải không?" Ông ta nháy mắt với Fern và tôi. Fern liền cười khúc,khích, còn tôi chỉ giả vờ mình không chú ý.
Một thứ gì đó bỗng giật mạnh trong lồng ngực tôi. Tôi liền ngó xuống đĩa của mình và trông thấy Briny đang hôn Queenie theo cách giống thế khi ông đi qua nhà thuyền hướng tới boong sau.
Đột nhiên đồ ăn không có vị ngon nữa, cho dù dạ dày tôi cồn cào. Tôi không muốn ăn sáng cùng những người này, hay bật cười trước lời nói đùa của họ, hoặc gọi họ là cha mẹ. Tôi có cha mẹ, và tôi muốn về nhà gặp họ.
Fern không nên cười khúc khích và hùa theo những người này. Làm thế là không đúng.
Tôi vươn tay dưới bàn và véo chân con bé khiến con bé khẽ la lên.
Cha mẹ mới liền quay đầu nhìn chúng tôi, cố hình dung xem chuyện gì vừa xảy ra. Nhưng Fern không nói gì cả.
Zuma và Hootsie đem những đĩa đồ ăn còn lại ra và chúng tôi ăn sáng trong khi ông Sevier nói về bản nhạc mới lẫn cách mà giai điệu đã tìm đến ông vào lúc nửa đêm. Rồi ông ấy nói về những bản tổng phổ, dấu lặng, các nốt nhạc và mọi thứ. Bà Sevier thở dài và ngó ra ngoài cửa sổ, nhưng tôi thì không thể không lắng nghe. Tôi chưa từng được nghe cách người ta viết nhạc trên giấy. Tất cả giai điệu tôi biết đều xuất phát từ việc lắng nghe mỗi khi Briny chơi đàn ghi ta, thổi harmonica hay thậm chí có thể là đàn dương cầm ở phòng bida. Âm nhạc luôn chạy sâu vào trong người tôi và khiến tôi cảm nhận nó theo một cách nhất định.
Giờ tôi tự hỏi liệu Briny có biết rằng người ta viết các nốt nhạc trên giấy giống như sách truyện và lồng vào trong các bộ phim, theo cách ông Sevier kể hay không. Bản nhạc mới của ông ấy được viết cho một bộ phim. Ở cuối bàn, ông ấy khua hai tay, trò chuyện hồ hởi vả phấn khích về cảnh phim quân đột kích của Quantrill cưỡi ngựa qua Kansas và thiêu rụi cả một thị trấn.
Ông ấy ngâm nga giai điệu đó, sử dụng bàn làm trống, nhịp tay gõ gõ khiến mấy cái bát kêu lách cách. Lúc ấy tôi cảm thấy như lũ ngựa đang chạy rầm rập và nghe thấy tiếng súng nổ đì đùng.
"Em nghĩ sao, em yêu?" Ông ấy hỏi bà Sevier khi kết thúc màn ngân nga.
Bà Sevier và Fern đều vỗ tay. "Một kiệt tác." Bà ấy khen. "Dĩ nhiên bản nhạc này là một kiệt tác rồi. Con không nghĩ vậy sao, Bethie?"
Tôi không thể quen dần với việc họ gọi Fern là Beth. Dĩ nhiên họ vẫn nghĩ đó là tên thật của con bé.
"Kịt tát." Fern cố nói từ kiệt tác trong khi miệng đầy bột ngũ cốc.
Ba người bọn họ đều bật cười, còn tôi chỉ nhìn xuống đĩa của mình.
"Thật tốt khi nhìn thấy con bé vui vẻ." Mẹ mới của chúng tôi nghiêng người qua vén tóc của Fern để con bé không làm dính ngũ cốc vào tóc.
"Ừ, đúng thế." Ông Sevier đang nhìn vợ mình, nhưng bà ấy không biết điều đó. Bà ấy đang bận âu yếm Fern.
Bà Sevier xoắn lọn tóc của Fern quanh ngón tay, gộp những lọn xoắn nhỏ thành lọn quăn lớn hơn, giống như tóc của Shirley Temple. Hầu như ngày nào cũng vậy, tôi đều tết bím tóc sau lưng, vì thế bà ấy sẽ không nảy ra ý tưởng phải làm gì đó với tóc của tôi. "Em đã từng lo lắng chúng ta sẽ không bao giờ có được điều này." Bà ấy nói với chồng.
"Những việc này cần có thời gian mà."
"Em đã sợ mình sẽ không bao giờ được làm mẹ nữa."
Đôi mắt ông Sevier mở to, như thể ông ấy vui lắm. Rồi ông ấy nhìn sang bên kia bàn. "Giờ con bé là của chúng ta rồi."
Không phải thế! Tôi muốn thét lên. Bà không phải là mẹ của con bé. Không phải là mẹ của chúng tôi. Những đứa bé đã chết đang nằm trong nghĩa trang kia mới là con bà. Tôi ghét bà Sevier vì bà ấy muốn Fern. Tôi ghét ông Sevier vì ông ấy đưa chúng tôi đến đây. Nếu ông ấy để yên cho chúng tôi thì giờ chúng tôi đã trở lại thuyền Arcadia rồi. Fern và tôi. Sẽ chẳng có ai xoắn tóc em gái tôi thành những lọn tóc quăn như tóc của Shirley Temple hay gọi con bé là Beth.
Tôi nghiến răng mạnh đến mức cơn đau chạy thẳng lên đỉnh đầu. Tôi mừng vì điều đó. Đấy chỉ là cơn đau nhỏ, và tôi biết cơn đau ấy xuất phát từ đâu. Tôi có thể ngừng nó lại bất cứ lúc nào tôi muốn. Nỗi đau trong tim tôi mới lớn hơn. Tôi không thể ngăn nó lại bất kể tôi cố gắng đến đâu chăng nữa. Nỗi đau ấy khiến tôi sợ hãi nhiều đến nỗi tôi thậm chí không thể nào hít thở.
Chuyện gì sẽ xảy ra nếu Fern quyết định con bé thích những người này hơn tôi? Lỡ như con bé quên mất Briny, Queenie và thuyền Arcadia thì sao? Ở nơi đó, chúng tôi không có những chiếc đầm đẹp, đồ chơi xe đẩy trên hàng hiên, gấu Teddy nhồi bông, bút màu Crayola và bộ tách trà nhỏ bằng sứ. Chúng tôi chỉ có dòng sông, dòng sông đã nuôi sống chúng tôi, đưa chúng tôi đi và cho chúng tôi tự do.
Tôi phải đoan chắc Fern không quên điều đó. Con bé không thể hoàn toàn trở thành Beth được.
"May?" Bà Sevier cất tiếng gọi nhưng tôi đã không nghe thấy. Tôi liền khoác lên bộ mặt rạng rỡ và nhìn về phía bà ấy.
"Vâng... thưa mẹ."
"Ta vừa nói, ta sẽ đưa Beth đến Memphis để chọn một đôi giày đặc biệt hôm nay. Quan trọng là chúng ta phải chỉnh cho chân hướng vào trong trước khi con bé lớn hơn. Một khi con bé lớn lên thì đã quá muộn rồi, những người thợ bán giày nói với ta như thế. Đấy sẽ là điều đáng tiếc trong khi đó là một việc có thể khắc phục." Đầu bà ấy hơi nghiêng qua một bên. Trông bà ấy như con đại bàng đang dõi mắt quan sát để săn bắt cá vậy. Xinh đẹp đấy, nhưng con cá tốt hơn nên cẩn thận. Tôi mừng là chân tôi đang ở dưới bàn nên bà ấy không thể nhìn thấy chân phải của tôi. Ngón chân của tất cả chị em tôi đều hơi chìa ra như thế. Chúng tôi thừa hưởng điều đó từ Queenie. Briny bảo điều đó chứng tỏ chúng tôi là một người thuộc dòng dõi hoàng gia của Vương quốc Arcadia.
Giờ tôi cảm giác mình đang cố duỗi thẳng ngón chân phòng hờ bà Sevier bỗng dưng có ý định nhìn nó.
"Con bé sẽ phải đeo dây buộc chân khi ngủ vào ban đêm." Bà Sevier bảo tôi. Bên cạnh bà ấy, ông Sevier mở tờ báo ra, xem tin tức trong khi ăn miếng thịt xông khói.
"Ồ." Tôi thì thầm. Mình sẽ cởi cái đây buộc đó khỏi chân Fern vào ban đêm. Mình sẽ làm thế.
"Ta đã nghĩ ta sẽ tự dẫn con bé đi." Lời nói của bà Sevier thốt ra thật cẩn trọng, đôi mắt xanh sẫm bên dưới những lọn tóc quăn vàng óng đang nhìn tôi chòng chọc, và đôi mắt ấy nhắc tôi nhớ đến Queenie ngay cả khi tôi không hề muốn thế. Tuy nhiên Queenie đẹp hơn nhiều. Đúng vậy. "Beth phải quen dần với việc dành thời gian ở bên mẹ mới của con bé, chỉ có hai người bọn ta... mà không bị quấy rầy." Bà ấy mỉm cười với em gái tôi, con bé đang cố dùng cái nĩa bạc nhỏ xíu của mình xiên một trái dâu đóng hộp mà Zuma đặt quanh đĩa của con bé. Nhà Sevier không thích bất cứ ai bốc thức ăn bằng tay.
Bà Sevier chợt vỗ tay để làm ông Sevier chú ý. Ông ấy khẽ hạ tờ báo xuống, mũi nhô qua mép báo. "Darren, Darren, nhìn con bé kìa. Dễ thương quá!"
"Cứ kiên trì, người lính nhỏ." Ông ấy cổ vũ. "Sau khi giành được trái dâu đó, con có thể có được trái khác."
Fern xiên quả dâu, bỏ hẳn vào miệng rồi mỉm cười toe toét trong khi nước dâu chảy ra hai bên mép.
Cha mẹ mới của chúng tôi liền bật cười. Bà Sevier đưa khăn ăn chùi nhẹ má Fern để con bé không làm bẩn áo.
Tôi cố gắng quyết định xem mình có nên xin đi đến chỗ thợ chỉnh giày cùng với họ hay không. Tôi sợ để bà ấy đưa Fern rời xa tôi. Bà ấy sẽ mua nhiều món đồ cho Fern, và Fern sẽ thích bà ấy. Nhưng tôi không muốn đến Memphis. Điều cuối cùng tôi nhớ về nơi đó là tôi đã được bà Murphy đưa đến khu thương mại và gặp cha mới của tôi trong một phòng khách sạn.
Nếu tôi ở lại nhà trong khi bà Sevier đi vắng, tôi có thể ra ngoài và thăm dò quanh quất vài nơi. Bà Sevier không thích chúng tôi đi lang thang bên ngoài. Bà ấy sợ chúng tôi sẽ hái phải cây thường xuân độc hay bị rắn cắn. Bà ấy không hề biết rằng những đứa trẻ sống trên sông như chúng tôi biết tất cả những thứ đó từ khi chúng tôi đủ lớn để bước đi.
"Con sẽ sớm nhập học." Mẹ mới phật ý khi tôi không lập tức trả lời về việc Fern sẽ đến gặp thợ đóng giày. "Dĩ nhiên Beth vẫn còn quá nhỏ để đến trường. Con bé sẽ ở nhà hai năm trước khi đến thời điểm đi mẫu giáo... đấy là nếu chúng ta gửi con bé đến đó. Ta có thể để con bé ở nhà thêm một năm nữa. Việc ấy tùy thuộc vào..." Bàn tay khẳng khiu bỗng đưa tới bụng, xoa nhẹ nơi đó. Bà ấy không nói ra, nhưng bà ấy vẫn hy vọng một đứa bé sẽ xuất hiện.
Tôi cố không nghĩ đến chuyện đó. Và cũng không nghĩ ngợi về trường học. Một khi họ gửi tôi đến trường, bà Sevier sẽ ở bên Fern cả ngày. Tôi có thể chắc chắn là Fern sẽ thích bà ấy hơn tôi. Chị em tôi phải rời khỏi nơi này trước khi chuyện đó xảy ra.
Bà Sevier hắng giọng và chồng bà lại hạ tờ báo xuống. "Lịch trình hôm nay của anh thế nào, anh yêu?" Bà ấy hỏi.
"Dĩ nhiên là sáng tác nhạc rồi. Anh muốn hoàn thành bản tổng phổ mới trong khi giai điệu còn rõ rệt trong tâm trí. Sau đó anh sẽ gọi cho Stanley và chơi một chút cho ông ta nghe qua điện thoại... liệu ông ta có nghĩ bản nhạc đó phù hợp với phim hay không."
Bà Sevier thở dài, và những nếp nhăn xuất hiện quanh mắt bà ấy. "Em cứ tưởng có lẽ anh sẽ bảo Hoy thắng xe ngựa, và cả hai có thể dạo chơi đây đó." Rồi bà ấy chuyển sự chú ý từ ông Sevier sang tôi. "Con có muốn tham gia không, May? Đi cùng với cha, con sẽ không còn phải sợ ngựa nữa. Con ngựa đó thực sự đáng yêu lắm. Ta đã từng có một con ngựa như thế lúc nhỏ, ở ngôi nhà tại Augusta. Con ngựa đó là thứ ta yêu thích nhất trên toàn thế giới đấy."
Các bắp cơ của tôi căng ra và gương mặt trở nên lạnh buốt. Tôi không sợ ngựa. Mà là sợ ông Sevier. Không phải vì ông ấy đã từng làm gì đó với tôi mà bởi, sau khi ở nhà bà Murphy, tôi biết những chuyện gì có thể xảy ra. "Con không muốn gây bất cứ rắc rối nào ạ."
Tôi chùi hai lòng bàn tay ướt rượt mồ hôi vào váy.
"Hửm..." Lông mày của ông Sevier hạ thấp hơn. Ông ấy cũng chẳng thích thú ý tưởng đó hơn gì tôi, và tôi thấy mừng. "Chúng ta sẽ phải xem hôm nay diễn ra thế nào đã, em yêu. Tiến độ của bộ phim này quá nhanh, thời gian của anh đã bị rút ngắn hơn bình thường, nhà thì hỗn loạn mấy tuần qua vì..." Khi thấy cằm vợ hếch lên, khẽ run run, ông liền dừng lại, rồi nói tiếp. "Chúng ta sẽ xem ngày hôm nay thế nào đã."
Tôi nhìn xuống đùi, và không ai bàn luận gì thêm nữa về vấn đề dạo chơi bằng xe ngựa. Chúng tôi kết thúc bữa sáng và ông Sevier chuồn về phòng nhạc nhanh hết mức có thể. Chẳng bao lâu, bà Sevier và Fern cũng rời khỏi nhà. Tôi cầm sách và bút màu ra hàng hiên rộng thênh thang sau nhà, ngồi đó nhìn về phía hàng cây rồi tới hồ nước. Tiếng đàn dương cầm vọng tới từ phòng làm việc của ông Sevier. Giai điệu ấy hòa quyện với tiếng chim hót. Tôi nhắm mắt lại, lắng nghe, chờ Zuma và Hootsie đi về nhà xe, lúc đó tôi có thể chuồn đi và thăm dò một chút.
Tôi thả hồn vào giấc ngủ, mơ thấy Fern và tôi đang đi xuống cầu tàu câu cá của ông Sevier. Chúng tôi đang ngồi trên một trong những cái va li lớn được họ cất trong phòng để thức ăn, gần đám chổi và giẻ lau sàn của Zuma. Chúng tôi đã nhét đầy đồ chơi trong đó để chia sẻ với Camellia, Lark và Gabion. Và chúng tôi đang chờ Briny và Queenie đến đón chúng tôi.
Thuyền Arcadia hiện ra ở mé xa xa của hồ móng ngựa. Con tàu chậm rãi lướt qua dòng nước. Rồi đột nhiên, cơn gió đánh mạnh, đẩy con tàu ra xa. Tôi ngó qua vai và thấy chiếc xe lớn màu đen đang lao nhanh qua cánh đồng phía sau chúng tôi. Khuôn mặt của cô Tann dán sát vào cửa xe. Đôi mắt của cô ta hừng hực điên dại. Tôi liền nắm lấy tay Fern, cố chạy tới mặt nước để bơi ra xa.
Chúng tôi bắt đầu chạy, nhưng càng chạy thì cầu tàu lại càng kéo dài hơn.
Chiếc xe dừng lại ở cầu tàu đằng sau chúng tôi. Rồi một bàn tay bỗng túm lấy tóc và váy của tôi.
"Mày là một con nhóc khốn khổ vô ơn phải không?" Cô Tann quát.
Tôi giật mình thức giấc và thấy Hootsie đang đứng đó, cầm ly trà và đĩa thức ăn trưa cho tôi. Con bé đặt mạnh cả hai thứ xuống cái bàn mây đan. Nước bắn tung tóe khắp khay và đĩa. "Giờ giống đồ ăn trên sông rồi, không phải thế sao? Ngon và mềm." Con bé đó nhếch miệng cười với tôi.
Tôi lấy miếng bánh sandwich nhão nhoét, cắn một miếng lớn rồi mỉm cười đáp lại. Hootsie không hề biết chúng tôi đã phải trải qua những gì trước khi đến đây. Tôi có thể ăn cháo ngô lẫn mọt ngũ cốc mà chẳng hề suy nghĩ đắn đo. Nước trà đổ trên bánh sandwich sẽ không thể làm tôi nổi điên. Hay cả Hootsie, bất kể con bé đó cố gắng đến đâu chăng nữa. Con bé đó không khó trị. Tôi đã từng gặp những đứa trẻ gan lì hơn thế.
Hootsie thở hồng hộc, hếch mũi tỏ vẻ ngạo mạn rồi biến mất. Sau khi ăn xong bữa trưa, tôi đặt khăn ăn bên trên đĩa để tránh lũ ruồi bu lại. Rồi tôi thơ thẩn men theo hàng hiên dài hướng tới phòng nhạc. Giờ mọi thứ đã trở nên yên tĩnh, nhưng tôi vẫn thận trọng khi đi tới cuối nhà và rẽ qua góc cua. Không hề có dấu hiệu của ông Sevier. Tôi kiểm tra trước rồi mới lén tới gần hơn.
Khi lẻn qua cửa lưới, tôi nhận thấy phòng nhạc của ông ấy mờ tối, màn treo cửa đều bị kéo kín. Ở góc phòng, máy chiếu đang rọi một vùng sáng trống vuông vức trên tường. Hình ảnh đó làm tôi nghĩ đến những buổi chiếu phim lưu động ở thị trấn ven sông. Tôi bước tới gần hơn và nhìn cái bóng của mình - dài và gầy nhom, những dải sáng loăn xoăn nhỏ xíu chiếu xuyên qua tóc. Rồi tôi chợt nghĩ đến cách Briny thỉnh thoảng đã tạo ra các hình ảnh múa rối bóng nhờ ánh sáng chiếu qua cửa sổ trên thuyền Arcadia. Tôi từng thử một lần, nhưng tôi không thể nhớ cách làm.
Bên cạnh máy chiếu, một cây kim lắc lư qua lại trên máy đĩa hát đang quay tròn. Một tiếng kin kít khẽ vang lên bên hông tủ đựng máy đĩa hát. Tôi liền bước tới, nhìn vào trong cái hộp và ngắm nghía cái đĩa đen tròn xoay tít. Trong một khoảng thời gian ngắn ngủi, chúng tôi đã từng có một cái máy đĩa hát đặt ở hàng hiên sau nhà thuyền, nhưng đó là kiểu máy quay tay. Briny đã tìm thấy thứ ấy trong một ngôi nhà bỏ hoang nằm ven sông.
Nhưng sau đó ông đã bán nó để đổi lấy củi.
Tôi tự nhủ mình không nên chạm vào vật này, nhưng tôi không thể ngăn mình lại được. Đây là thứ đẹp nhất mà tôi từng nhìn thấy. Máy đĩa hát này ắt hẳn phải là đồ mới tinh.
Tôi nhấc quả cầu bạc giữ cây kim lên, kéo lùi lại một xíu để đoạn nhạc nhỏ cuối cùng phát ra. Rồi tôi nhích thêm một chút, một chút nữa. Tiếng nhạc khe khẽ đủ để tôi nghĩ rằng không ai khác nghe được.
Sau một phút, tôi chuyển sang đàn dương cầm, nghĩ tới cách Briny và tôi thường ngồi với nhau ở phòng bida hoặc tàu biểu diễn khi không có ai trên tàu. Ông đã dạy tôi cách chơi các giai điệu. Trong số năm chị em, tôi là đứa học giỏi nhất. Briny đã nói như thế.
Đoạn cuối bản nhạc kết thúc, và cây kim kêu lên ken két.
Tôi tìm thấy những tờ giấy ghi chú trên đàn dương cầm. Không cần phải thao tác quá nhiều thì mới hình dung được bản nhạc. Tôi thích bản nhạc này, vì thế tôi đặt cây kim trở lại và đánh thêm chút nữa. Phần đó khó hơn, vì thế tôi phải cố gắng hơn nữa, nhưng rốt cuộc tôi cũng thuộc giai điệu.
"Ồ, hoan hô!"
Tôi đứng bật dậy và nhìn thấy ông Sevier đang đứng đó chống một tay trên cửa lưới. Ông ấy vỗ tay. Tôi bèn nhích khỏi ghế và nhìn quanh để tìm nơi bỏ trốn.
"Con xin lỗi. Con không nên..." Nước mắt dâng nghẹn ứ trong cổ họng tôi. Lỡ như việc này làm ông ấy nổi điên, sau đó ông ấy nói với bà Sevier, và họ sẽ tống khứ tôi đi trước khi Fern và tôi có thể lênh đênh trên sông và trở về nhà thì sao?
Ông Sevier bước vào và để cửa lưới đóng lại. "Đừng lo. Con sẽ không làm hư đàn đâu. Nhưng Victoria đã quyết định chúng ta nên dạo chơi đây đó bằng xe ngựa trong khi bà ấy đi vắng. Ta đã yêu cầu Hoy thắng ngựa. Ta bảo vài người xây một ngôi nhà nhỏ gần hồ nước, một nơi yên tĩnh thuận tiện cho công việc của ta khi ngôi nhà này quá hỗn loạn. Chúng ta sẽ đánh xe ngựa xuống đó, xem qua rồi đi loanh quanh cơ ngơi một chút. Khi chúng ta trở về, ta sẽ chỉ cho con cách..."
Rồi ông ấy tiến thêm vài bước vào phòng. "Chà, con biết không? Nghĩ cho kĩ thì con ngựa sẽ không ngại chờ chúng ta đâu. Nó rất kiên nhẫn." Ông Sevier khoát tay về phía đàn dương cầm. "Chơi lại đoạn nhạc ấy đi."
Nước mắt chảy xuống cổ họng tôi. Tôi nuốt hết số nước mắt còn lại khi ông Sevier đi qua chỗ máy hát.
"Ngay ở đây. Ta sẽ chỉnh lại kim máy hát. Con có thể đánh được bao nhiêu?"
Tôi nhún vai. "Con không biết. Không nhiều đâu ạ. Con phải nghe thật kĩ trước đã."
Ông Sevier để đĩa hát chạy lâu hơn đoạn tôi đã thử một chút, nhưng tôi suy nghĩ rất nhanh và hầu như đã thuộc hết.
"Con đã từng chơi đàn trước đây sao?" Ông Sevier hỏi.
"Không, thưa ngài." Ông Sevier đưa kim lùi lại xa hơn, và chúng tôi đánh lại đoạn đó lần nữa. Lời chỉ hơi sai, ngay ở đoạn mới.
"Ấn tượng đấy." Ông ấy nói.
Tôi chưa thực sự làm được thế, nhưng thật dễ chịu khi nghe ông ấy khen như vậy. Cùng lúc đó, tôi tự hỏi: Ông ấy muốn gì? Ông ấy không can tôi chơi đàn dương cầm. Ông ấy thực sự rất giỏi. Thậm chí ông ấy chơi đàn còn hay hơn cái máy hát kia.
"Lần nữa đi." Ông ấy khoa tay thêm lần nữa. "Chỉ từ trí nhớ thôi."
Tôi làm theo, nhưng có chỗ nào đó không đúng lắm.
"Ôi trời." Ông ấy nói. "Nghe thấy đoạn đó chưa?"
"Rồi, thưa ngài."
"Giai điệu hơi chói tai, đó là lý do." Rồi ông ấy chỉ vào đàn dương cầm. "Ta có thể chỉ cho con, nếu con thích."
Tôi liền gật đầu, xoay người lại và đặt tay trên phím đàn.
"Không, như thế này cơ." Ông Sevier cúi xuống từ phía sau tôi và chỉ tôi cách giơ tay ra. "Ngón cái đặt ở nốt Đô giữa. Con có những ngón tay đẹp, mảnh khảnh. Đôi tay của nghệ sĩ đánh đàn dương cầm đấy."
Đó là đôi tay của Briny, nhưng ông Sevier đâu biết điều đó.
Ông ấy chạm vào tay tôi, từng ngón tay một. Phím đàn vang lên giai điệu. Rồi ông ấy chỉ cho tôi cách đánh đoạn nhạc tôi đã chơi sai.
"Đánh như thế." Ông ấy nói. "Nghe khác phải không?"
Tôi gật đầu. "Con làm được rồi. Con nghe được giai điệu đó rồi!"
"Giờ con biết phím đàn bắt đầu ở đâu rồi đúng không?" Ông ấy hỏi. "Ý ta là, trong giai điệu."
"Vâng, thưa ngài."
"Ổn rồi đấy." Trước khi tôi có thời gian nghĩ đến chuyện đó, ông ấy đã ngồi xuống bên cạnh tôi. "Con chơi giai điệu, còn ta sẽ chơi hợp âm. Con sẽ thấy cách chúng hòa quyện vào nhau. Một bản nhạc được tạo ra như thế, giống như con nghe trên máy hát vậy."
Tôi làm theo điều ông ấy nói. Ông ấy đánh các phím đàn bên mình, và chúng tôi tạo nên giai điệu như máy hát. Tôi cảm giác âm nhạc tỏa ra từ đàn dương cầm và lướt khắp cơ thể tôi. Giờ tôi biết lũ chim cảm thấy thế nào khi chúng cất cao tiếng hót rồi.
"Chúng ta chơi lại được không ạ?" Tôi hỏi khi chúng tôi đánh hết bản nhạc. "Thêm một lần nữa?" Tôi muốn đánh đàn thêm, thêm nữa.
Ông Sevier liền quay máy hát và giúp tôi tìm các phím đàn đúng, sau đó chúng tôi chơi đàn cùng nhau. Lúc kết thúc, ông ấy bật cười, và tôi cũng thế.
"Chúng ta nên sắp xếp một số bài học cho con." Ông ấy nói. "Con có năng khiếu đấy."
Tôi nhìn ông ấy thật kĩ để xem liệu có phải ông ấy đang trêu tôi không. Năng khiếu? Mình sao?
Tôi đưa tay lên giấu đi nụ cười, rồi quay lại nhìn các phím đàn, hai gò má tôi nóng bừng lên. Ông ấy có ý đó thật à?
"Ta sẽ không nói như thế nếu điều đó không phải là sự thật, May à. Ta có thể không biết cách nuôi dạy những cô gái nhỏ, nhưng ta biết rõ về âm nhạc." Ông ấy nghiêng người lại gần, cố nhìn mặt tôi. "Ta hiểu thật khó khăn cho con khi phải đến sống tại một ngôi nhà mới ở độ tuổi này... nhưng ta nghĩ ta và con có thể trở thành bạn."
Bất thình lình, tôi trở lại hành lang ở nhà của bà Murphy, trong bóng đêm tối thui, và ông Riggs ghim chặt tôi giữa bụng ông ta và bức tường. Ông ta ép mạnh vào người tôi, chặn hết không khí và làm cơ thể tôi trở nên tê liệt. Mùi rượu whisky và bụi than xộc vào mũi tôi, và ông ta thì thào: c... cưng và ta có thể l... làm bạn. Ta có thể cho cưng k... kẹo bạc hà và b... b... bánh quy. Bất cứ thứ gì c... cưng muốn. Chúng ta có thể tr... trở th... thành bạn thân.
Tôi đứng bật dậy khỏi ghế, va mạnh vào các phím đàn khiến một số phím vang lên cùng một lúc. Tiếng ồn hòa lẫn với tiếng giày loẹt xoẹt trên sàn nhà của tôi.
Tôi không ngừng chạy cho đến khi lên lầu, ngồi thu mình trong đáy tủ đồ và chống hai chân lên cửa để không ai khác có thể vào đó.