← Quay lại trang sách

Chương 23 Avery

Trent và tôi đứng sóng đôi, nhìn lên những cột trụ cổ xếp thành hàng quanh chu vi tòa nhà bằng đá mục nát với móng nền bê tông. Những cột trụ đứng sừng sững như những lính gác và binh sĩ, đôi chân biến mất trong đám dây thường xuân và cỏ mọc tươi tốt, cái mũ được bao quanh trên đỉnh bằng họa tiết cuộn chạm trổ và tiểu thiên sứ màu rêu.

Vài phút trôi qua trước khi cả hai chúng tôi nhận ra Jonah đã leo lên cầu thang, xem xét nơi ắt hẳn từng là hàng hiên nhiều tầng bậc. Chấn song gỉ sét ở lầu hai vòng quanh dọc theo những cột trụ cao trên đầu của chúng tôi, kết lại như những sợi dây tết bằng vàng.

"Này, quay lại đây đi, nhóc con." Trent cất tiếng gọi Jonah. Những khối đá trông có vẻ rắn chắc, nhưng không có cách nào biết được nơi này vững chắc ra sao.

Có một khu vườn ươm từng xây dựng ở đây, nằm trên ngọn đồi thoai thoải men theo sông Savannah, cách Augusta không xa. Chủ nhân nơi này là ai? Gần đó, kho chứa nước đá và những nhà phụ khác bị bỏ trống, các mái nhà lợp ván đỏ tía đang dần đổ nát, thanh gỗ nứt chĩa ra trước như đám xương xẩu xấu xí.

"Bà nội tôi làm cái quái gì ở đây cơ chứ?" Không thể nào tưởng tượng bà nội Judy đến một nơi như thế này, trong khi người phụ nữ đó đã từng nhặng xị lên nếu tôi đi từ chuồng ngựa rồi bước vào nhà mà lông bờm ngụa còn dính trên quần nhưng cứ thế ngồi xuống ghế.

Và vào mỗi thứ Năm trong nhiều năm ư? Tại sao chứ?

"Chỉ có một điều chắc chắn. Sẽ chẳng có ai quấy rầy cô ở đây. Tôi nghi ngờ liệu có ai đó còn nhận ra nơi này tồn tại hay không." Trent bước lên cầu thang và với ra nắm lấy tay của Jonah khi thằng bé hân hoan nhảy xuống. "Ở bên cạnh cha nhé, nhóc con. Cha biết nơi này trông có vẻ tuyệt vời, nhưng có thể có rắn đấy."

Jonah rướn người lên để nhìn qua móng nhà. "Rắn đâu ạ?"

"Cha nói là có thể có thôi."

"Ồ..."

Tôi bị hai cha con làm phân tâm giây lát. Họ trông giống như tấm ảnh trên tạp chí, nắng trưa rực rỡ đổ xuống như thác xuyên qua những hàng cây lâu năm và chiếu xuống họ, làm nổi bật mái tóc màu vàng hung đỏ và tướng đứng giống y chang nhau.

Cuối cùng, tôi quay trở lại những nơi còn lại của ngôi nhà. Ắt hẳn nơi này đã từng rất uy nghi vào thời đại huy hoàng của nó. "Chà, xét thực tế bà đã gọi taxi thay vì bảo tài xế riêng đưa đi, bà không muốn bất cứ ai biết bà ở đâu."

Tôi muốn sự thật ấy là vô hại, nhưng tôi đâu có ngốc mà tin thế. Có quá nhiều sự trùng hợp ngẫu nhiên từ việc May Crandall đề cập đến Augusta và bà nội tôi đã trở lại đây nhiều lần. Vì lý do nào đó nơi này liên quan đến cả hai người bọn họ. Tôi biết đây là nhà của May. Mối liên kết giữa bà ấy và bà nội Judy vượt xa việc hợp tác kể lại câu chuyện nhận nuôi bi thương ngày xửa ngày xưa.

"Trông giống như con đường tiếp tục đi xuống hướng đó." Trent ra hiệu về phía con đường mà chúng tôi đã đi từ cổng.

Với cỏ mọc cao ở giữa và phần ngọn chứa hạt giống đã đổ rạp qua những vết bánh xe cũ, lối đi này hầu như không thể là một con đường, nhưng rõ ràng cả xe và máy cắt cỏ đã chạy trên lối đi này kể từ đợt cỏ mọc mùa trước. Ai đó vẫn giữ gìn tốt nơi này cho đến khoảng thời gian khá gần đây.

"Tôi nghĩ chúng ta nên xem thử lối đi này dẫn tới đâu." Nhưng một phần trong tôi, hầu hết mới đúng, sợ biết được điều đó.

Chúng tôi đi men theo con đường, băng qua nơi từng là bãi cỏ. Jonah giơ chân lên cao theo từng bước đi, lội qua đám cỏ chưa cắt giống như thằng bé đang kiểm tra những đợt sóng dọc bờ biển vậy. Trent nhấc bổng thằng bé lên và bế thằng bé trong tay khi cỏ phát triển cao hơn và con đường dẫn chúng tôi vào rừng.

Jonah chỉ mấy con chim, sóc và hoa, làm cho chuyến đi có vẻ vô hại, tựa như một cuộc dạo chơi thiên nhiên ngắn với bạn bè. Thằng bé muốn cha mình và tôi bình luận về những thứ thằng bé tìm thấy. Tôi cố gắng hết sức, nhưng tâm trí tôi đang chạy cả triệu dặm một phút xuống đồi. Xuyên qua hàng cây, tôi có thể nhìn thấy dòng nước. Mặt nước chan hòa ánh nắng, hơi gợn sóng lăn tăn vì gió. Không nghi ngờ gì nữa, đó là một con sông.

Jonah gọi tôi là Ay-ber-wee. Cha thằng bé chỉnh lại và nói: "Đó là cô Stafford." Trent mỉm cười với tôi. "Gia đình tôi theo truyền thống. Không được gọi thẳng tên của người lớn."

"Thật là hay." Tôi cũng được dạy như thế. Honeybee có lẽ đã cấm tôi ra khỏi phòng nếu tôi quên dùng từ Ông và Bà cho người lớn. Quy tắc đó giữ vững cho tới khi tôi học xong đại học, chính thức là người hoàn toàn trưởng thành.

Phía trước, con đường men theo thứ giống như phần còn lại của hàng rào kim loại gỉ sét bao quanh vườn. Cây đăng tiêu mọc quá nhiều khiến tôi không nhận ra nó phác họa một khoảng sân cho tới khi chúng tôi suýt giẫm lên. Có một ngôi nhà nhỏ xíu nằm giữa giàn hồng leo đỏ và hàng cây bằng lăng trắng như tuyết. Đặt trên ngọn đồi thoai thoải nằm bên trên dòng sông, nơi này giống như một ngôi nhà quyến rũ trong truyện cổ tích của bọn trẻ - một nơi ẩn náu sẽ bảo vệ nàng công chúa cải trang hoặc một ẩn sĩ già khôn ngoan từng là nhà vua. Từ cửa trước sân, một lối đi lót ván dẫn xuống chân đồi, tới bến tàu nằm trên mặt nước.

Mặc dù giờ những khu vườn bao quanh nhà cây cối đều mọc um tùm, thì trước đây chúng rõ ràng đã được yêu thương, chăm sóc kĩ lưỡng. Những giàn mắt cáo, băng ghế và mấy chậu chim tắm nằm bên cạnh các lối đi bằng đá được đặt cẩn thận từng viên. Ngôi nhà nhỏ nằm trên trụ cầu ngắn, sẵn sàng chống lại mực nước dâng cao. Căn cứ vào những khung cửa sổ bằng gỗ dạn dày sương gió và mái tôn, tôi dám chắc nơi này đã xuất hiện ở đây nhiều thập kỷ.

Vậy ra đây là điểm đến của bà nội tôi. Thật dễ dàng tưởng tượng bà rất thích đến nơi này. Chỗ này có lẽ sẽ là nơi bà có thể vứt bỏ lại phía sau bổn phận, mối bận tâm, nhiệm vụ, thanh danh gia đình và sự chú ý của công chúng - mọi thứ lấp đầy trong sổ lịch hẹn được quản lý cẩn thận.

"Cô sẽ không biết nơi này tồn tại ở đây." Trent khâm phục nơi ẩn náu nhỏ này khi chúng tôi đi loanh quanh phía trước, nơi có một hàng hiên giăng lưới che rộng thênh thang nhìn xuyên qua hàng cây. Những tấm rèm đăng ten treo bên trong dãy cửa sổ trước. Một chiếc chuông gió ngân lên bản nhạc nhẹ nhàng, ngọt ngào buổi trưa. Cành lá rơi trên bậc thang chứng thực không có ai quét dọn chỗ này kể từ loạt cơn bão gần nhất.

"Ừm, đúng thế." Đây là nhà của May Crandall, nơi người ta đã phát hiện bà ấy đang ở bên thi thể của em gái mình sao?

Trent nhường đường cho chúng tôi đi qua cánh cổng cong. Nó cọ vào con đường đá, kháng cự lại sự xâm nhập. "Có vẻ nơi này khá yên tĩnh. Hãy xem liệu có ai ở nhà không."

Chúng tôi bước lên cầu thang cùng nhau. Trent đặt Jonah xuống hàng hiên khi cửa lưới cót két đóng lại phía sau chúng tôi.

Chúng tôi gõ cửa và chờ đợi, rồi cuối cùng lén nhìn qua tấm màn đăng ten. Bên trong, một cái ghế trường kỷ bọc vải hoa cùng với những cái bàn theo phong cách Nữ hoàng Anne và đèn Tittany[*] có vẻ không phù hợp với một ngôi nhà bên sông tầm thường. Những bức họa và tranh ảnh treo thẳng hàng trên các bức tường trong phòng khách nhỏ xíu, nhưng tôi không thể nhìn rõ chúng từ vị trí đang đứng. Những cánh cửa bên kia có vẻ dẫn tới phòng ngủ hiên sau đều đã bị đóng lại.

[*]Loại đèn kính màu ghép lại với nhau, tạo ra các luồng ánh sáng khác nhau, vẻ độc đáo và duy nhất cho cây đèn.

Lúc đi tới cửa sổ khác để nhìn rõ hơn thì tôi nghe thấy Trent đang cố xoay tay nắm cửa.

"Anh đang làm gì vậy?" Liếc nhìn qua vai, tôi gần như cho rằng tiếng còi báo động sẽ vang lên, hoặc tệ hơn nữa, một cây súng săn đang nhắm vào hướng của chúng tôi.

Trent nháy mắt với tôi, vẻ lấp lánh tính quái hiện ra trong mắt anh ta khi tay nắm cửa kêu lạch cạch. "Kiểm tra danh sách tiềm năng ấy mà. Tôi nghĩ ai đó đã gọi bảo tôi thẩm định nơi này."

Trent vào trong trước khi tôi có cơ hội tranh cãi. Dù sao tôi cũng không rõ mình sẽ làm gì. Tôi không thể rời khỏi đây mà không biết thêm, hay tìm ra chuyện gì đang diễn ra ở đây. Thật khó hình dung sao một người có điều kiện như May lại từng sống ở nơi xa xôi hẻo lánh này.

"Jonah, con hãy đứng nguyên tại hàng hiên nhé. Không được đi ra khỏi cửa lưới." Trent ném ánh nhìn chỉ huy qua vai.

"Vâng." Jonah đang bận rộn nhặt mấy quả đấu mà con sóc nào đó ắt hẳn đã lén ném qua góc rách trên cửa lưới. Thằng bé đếm số quả đấu trong khi tôi theo Trent vào bên trong. "Một, hai, be... bảy... tám... bón mươi bón."

Tiếng đếm xa dần khi tôi đứng trên tấm thảm rách bên trong lối vào và nhìn quanh quất căn phòng. Nơi này không như những gì tôi nghĩ. Chẳng hề có lớp bụi và xác côn trùng nằm dọc bậu cửa sổ. Mọi thứ đều ngăn nắp trật tự. Cảm giác có người sinh sống rõ rệt, nhưng chỉ có tiếng chuông gió, tiếng chim hót, tiếng lá xào xạc, tiếng thì thầm của Jonah và tiếng kêu của một con chim bay qua sông.

Trent chạm tay vào phong bì đặt trên bàn bếp, xoay lại để nhìn. "May Crandall." Anh ta đưa tôi xem bằng chứng, nhưng tôi chỉ nhìn thoáng qua.

Tôi đang tập trung quan sát bức tranh treo bên trên lò sưởi. Những chiếc mũ mùa hè rực rỡ, những chiếc đầm mùa hè thập niên sáu mươi được là ủi mới tinh, những nụ cười, những lọn tóc quăn tung bay trong gió biển, tiếng cười bạn có thể nhìn thấy chứ không phải nghe thấy...

Tôi nhận ra quang cảnh này, nhưng không phải kiểu chính xác thế này. Trong bức tranh này, bốn người phụ nữ đang nhìn nhau mỉm cười. Những cậu nhóc đang chơi đùa trên bãi cát đã biến mất khỏi hậu cảnh. Bức ảnh tôi tìm thấy ở nhà xưởng của Trent Senior là ảnh đen trắng, và những người phụ nữ kia đang mỉm cười để chụp ảnh. Còn quang cảnh được dùng làm cảm hứng cho bức tranh này ắt hẳn đã được chụp ngay trước hoặc sau tấm ảnh kia. Họa sĩ vẽ chân dung đã thêm màu sắc rực rỡ cho tấm ảnh. Không hề có màu sắc cho nụ cười trong tranh nhưng khoảnh khắc bắt được như tỏa ra niềm vui. Những người phụ nữ đứng đó đan khuỷu tay vào nhau và ngửa đầu ra sau. Một người đá nước vào thợ chụp ảnh.

Tôi đến gần bức tranh để quan sát chữ ký nằm ở góc dưới cùng. Fern.

Miếng đồng đính trên khung ảnh ghi tên tác phẩm: NGÀY CHỊ EM.

Bà tôi đứng bên trái, ba người còn lại, dựa vào câu chuyện chúng tôi được nghe kể ở viện dưỡng lão, chính là May, Lark và Fern.

Với đầu ngửa ra sau và ánh nắng chiếu vào mặt họ, những người phụ nữ kia thực sự giống như chị em.

Thậm chí là cả bà nội tôi nữa.

"Đó không phải là bức ảnh duy nhất." Trent xoay quanh, quan sát căn phòng. Mọi nơi đều có ảnh. Nhiều thập kỷ khác nhau, địa điểm khác nhau, đủ loại khung ảnh và kích cỡ, nhưng các bức ảnh đều có bốn người phụ nữ này. Đứng trên cầu tàu gần sông, họ xắn quần jeans lên và cầm cần câu cá trong tay; họ ngồi thưởng thức trà bên giàn hồng leo đằng sau ngôi nhà nhỏ này; họ ở trên chiếc xuồng đỏ, cầm sẵn mái chèo trong tay.

Trent bỗng nghiêng người qua bàn, mở tập ảnh đen trắng đã sờn cũ và nhìn lướt qua. "Họ đã dành nhiều thời gian ở đây."

Tôi cất một bước về phía anh ta.

Một con chó bất ngờ sủa bên ngoài. Cả hai chúng tôi cứng đờ khi âm thanh vọng tới gần hơn. Tiếng móng chân kêu sột soạt trên cầu thang hàng hiên. Bằng bốn sải chân, Trent băng qua phòng và chạy ra cửa trước, nhưng anh ta không đủ nhanh. Một con chó mực bự chảng đang gầm gừ từ bên kia cửa chớp, và Jonah đứng sững người.

"Bình tĩnh nào, bé cưng..." Trent bước lên, nắm lấy cánh tay của Jonah và kéo thằng bé ra sau lưng.

Con chó ngẩng đầu lên và sủa inh ỏi, sau đó nó cào chân vào cửa, cố chui mõm qua góc rách.

Cách đó không xa, tiếng động cơ gì đó kêu ầm ầm. Có lẽ là máy cắt cỏ. Cái máy đang chạy tới hướng của chúng tôi. Trent và tôi buộc lòng phải chờ. Thậm chí tôi không dám đóng cửa trước dẫn tới ngôi nhà đằng sau tôi. Nếu con chó chui qua được, chúng tôi sẽ cần một lối thoát.

Chúng tôi giống như kẻ xấu bị bắt quả tang tại trận. Thực ra thì, chúng tôi đúng là như vậy.

Chỉ có Jonah thấy phần khích, vì thằng bé hoàn toàn vô tội. Tôi đặt tay lên vai cậu bé trong khi cậu bé nhún nhảy lên xuống, cố xem thứ gì đang tạo ra tiếng động cơ ầm ĩ kia.

"A... máy kéo! Máy kéo!" Thằng bé vỗ tay reo hò khi một người đàn ông mặc quần áo bảo hộ lao động và đội mũ rơm xuất hiện trong tiếng bình bịch của máy kéo đỏ xám có độ tuổi không thể xác định. Một chiếc xe đẩy hai bánh nhạt màu chạy theo sau chở máy cắt cỏ cầm tay hiệu Weed Eater và vài cành cây bên trong. Mặt trời lướt qua, châm lốm đốm trên làn da nâu bóng mỡ của người đàn ông khi ông ta đậu xe gần cổng và tắt máy.

Từ khoảng cách quan sát gần hơn, tôi thấy ông ta trẻ hơn ấn tượng ban đầu mà vẻ ngoài tạo ra do cách ăn mặc. Có lẽ trạc tuổi cha mẹ tôi... Có lẽ tầm sáu mươi tuổi?

"Sammy!" Giọng ông ta trầm và mang vẻ ra lệnh khi ông ta bước tránh khỏi máy kéo và cất tiếng gọi con chó. "Thôi đi, ngay lập tức! Im nào! Ra kia đi!"

Sammy có suy nghĩ riêng. Nó chờ cho đến khi người đàn ông kia gần đến thì mới phục tùng mệnh lệnh.

Người lạ mặt dừng lại ở giữa cầu thang, nhưng ông ta cao tới mức chúng tôi gần như mắt đối mắt.

"Tôi giúp gì được cho cô cậu?" Ông ta hỏi.

Trent và tôi nhìn nhau. Rõ ràng, cả hai chúng tôi đều không dự trù khoảnh khắc này xảy ra.

"Bọn cháu đã nói chuyện với bà May trong viện dưỡng lão." Trent đúng là nhân viên bán hàng dẻo miệng. Anh ta khiến câu nói đó như một lời giải thích, cho dù không phải vậy.

"Đây là nhà... của... bà... bà ấy phải không ạ?" Tôi lắp bắp, làm chúng tôi trông có vẻ tội lỗi hơn.

"Bác có máy kéo!" Trong số ba người chúng tôi, Jonah đưa ra lời bình luận thông minh nhất.

"Đúng rồi, cậu bé." Người đàn ông chống hai tay lên đầu gối khi nói chuyện với Jonah. "Đó là máy kéo của cha bác. Cha bác đã mua khi nó còn mới tinh vào năm 1958. Bác chỉ lái nó khi có thời gian, cắt cỏ quanh trang trại, nhặt mấy cành cây và ghé thăm mẹ. Mấy đứa cháu của bác rất thích đi cùng. Bác có một đứa cháu lớn cỡ cháu đấy."

"Ồ..." Jonah rõ ràng thấy ấn tượng. "Cháu ba tủi." Thằng bé cố hết sức giơ ba ngón giữa, gập ngón út và ngón cái xuống.

"Ừ, vậy Bart trạc tuổi cháu." Người đàn ông đồng ý. "Ba tuổi rưỡi. Được đặt theo tên ông của thằng bé. Đó là bác."

Rồi Bart lớn đứng thẳng người, quan sát Trent và tôi. "Hai người là họ hàng của bà May sao? Bà ấy thế nào rồi? Mẹ tôi bảo em gái bà ấy đã qua đời và họ phải đưa bà Crandall rời xa ngôi nhà. Mẹ tôi bảo mấy đứa cháu đưa bà ấy vào một viện dưỡng lão ở Aiken, họ nghĩ sẽ tốt hơn nếu bà ấy không ở quá gần nhà. Một việc đáng buồn. Bà ấy yêu nơi này lắm."

"Cháu nghĩ bà ấy vẫn khỏe." Tôi nói với ông ta. "Cháu nghĩ bà ấy không thích nơi đó cho lắm. Sau khi ghé thăm nhà bà ấy ở đây, cháu có thể hiểu lý do rồi ạ."

"Cháu là cháu gái ruột hay cháu gái họ của bà ấy?" Ông ta nhắm vào tôi. Tôi có thể thấy ông ta đang rà xét danh mục người quen trong đầu, cố quyết định xem tôi có thể là ai.

Tôi ngại nói dối người đàn ông này. Chẳng thể nào biết là May có cháu gái hay không. Bart có thể đang kiểm tra tôi.

Dù sao, một lời nói dối sẽ không thực sự giải quyết được vấn đề của tôi. "Cháu không... hoàn toàn chắc chắn có nên nói cho bác nghe sự thật hay không. Bác vừa bảo là mẹ bác sống ở gần đây? Cháu tự hỏi liệu bà ấy có thể nào biết gì đó về..." bí mật mà bà nội cháu đang cất giấu - "những bức ảnh treo trong nhà và bức tranh bên trên lò sưởi không? Bà nội cháu là một trong bốn người phụ nữ trong ảnh ạ."

Bart nhìn ngôi nhà bằng ánh mắt không chút manh mối.

"Khó nói lắm. Bản thân bác đã không ở đây nhiều năm rồi. Mẹ bác là người trông nom nơi này một thời gian dài. Kể từ trước khi nhà lớn bị sét đánh cháy vào năm 1982."

"Bọn cháu có thể nói chuyện với mẹ bác được không? Việc đó có phải là đòi hỏi quá đáng không ạ?"

Ông ta đẩy nhẹ mũ ra sau và mỉm cười. "Trời ơi! Không hề. Bà ấy thích có người ghé thăm lắm. Chỉ cần chắc chắn là cháu có đủ thời gian rảnh. Vì mẹ bác có thể tám chuyện đấy." Ông ấy ngả người ra sau và nhìn quanh mép cabin. "Hai cháu đi bộ từ nhà cũ xuống đây à? Có một con đường dễ đi hơn nằm ở đó. Đường lái xe vào nhà nhỏ xíu dẫn lên con đường nông trại. May đậu xe trong gara gần nhà mẹ bác."

"Ồ, cháu không biết." Nhưng điều đó giải thích vài thứ, chẳng hạn như cỏ mọc che kín lối vào phía trước và con đường gồ ghề dẫn tới chỗ này. "Bọn cháu đã đi từ cổng sắt cũ ạ."

"Ôi trời, cháu sẽ bị nhiễm bọ chét vào ngày mai cho xem. Nhớ nhắc bác lấy cho ít xà phòng trị bọ chét của mẹ bác nhé. Mẹ bác tự làm đấy."

Ngay lập tức tôi bắt đầu cảm thấy ngứa.

"Mấy cháu hãy leo vào thùng rờ moóc của bác. Bác sẽ chở các cháu tới nhà mẹ bác. Trừ phi các cháu muốn đi bộ?"

Tôi nhìn con đường, và tôi chỉ nhìn thấy hàng tỉ con bọ chét đang chờ bám vào người tôi và làm tôi ngứa mãi mãi.

Jonah đang lắc lư tại chỗ, kéo quần cha và chỉ vào máy kéo.

"Cháu nghĩ bọn cháu sẽ đi xe." Trent quyết định.

Jonah liền vỗ tay hoan hô, tán thành đề nghị đó.

"Vậy lên đường thôi, các bạn trẻ." Bart mở cửa lưới, và Jonah vươn tay về phía ông ta như thể ông ta là một người bạn thân vậy. Ông ta nhấc bổng Jonah lên rồi bước xuống bậc thang hàng hiên, và rõ ràng là Bart đã từng làm việc này. Hiển nhiên ông ta là một người ông xuất sắc.

Jonah vui sướng tột độ khi chúng tôi leo vào toa rờ moóc gỗ hai bánh nhỏ xíu, thứ này làm tôi nhớ đến xe phân bón các công nhân thường dùng ở chuồng ngựa tại đồi Drayden. Thậm chí tôi còn nghi ngờ chiếc xe này cũng được sử dụng vào việc như thế. Những món đồ đáng ngờ nảy tung bên dưới đống cành cây. Jonah chẳng hề bận tâm. Thằng bé trông có vẻ hạnh phúc như chú vịt bơi trong vũng nước khi chúng tôi lái xe qua một số bụi cây thấp nằm ở mép sân và đi men theo con đường rõ ràng bằng phẳng, có lẽ dành cho xe bốn bánh hoặc xe golf.

Lộ trình của chúng tôi cách xa con sông, đưa chúng tôi đến một con đường thôn quê, từ đó rẽ vào đường lái xe tới ngôi nhà đầu tiên. Ngôi nhà sơn màu xanh mới toanh giống như nơi sinh sống của bà vợ tá điền lớn tuổi. Đàn gà mổ thóc trong sân. Một con bò sữa lốm đốm đi lang thang dưới bóng cây. Quần áo bay phần phật uể oải trên dây phơi đồ nhiều hàng. Sammy chạy lên trước, vừa tru vừa sủa thông báo sự xuất hiện của chúng tôi.

Mẹ Bart đi ra hàng hiên, mặc váy muumuu[*] sặc sỡ, đi dép trong nhà, và quấn khăn choàng vàng tươi. Một bông hoa lụa tiệp màu tô điểm cho búi tóc hoa râm mềm mịn trên đỉnh đầu bà ta. Lúc nhìn thấy chúng tôi ngồi trong toa rờ moóc, bà ta liền lùi lại và che mắt tránh nắng. "Con đưa ai về chơi thế, Barthol'mew?"

[*]Kiểu váy rộng có nguồn gốc từ Hawaii với nhiều họa tiết và màu sắc rực rỡ.

Tôi để con trai bà ấy đưa ra lời giải thích, vì tôi không biết nói gì. "Bọn trẻ xuất hiện ở nhà bà May Crandall. Chúng nói chúng đã ghé thăm bà ấy ở viện dưỡng lão ạ."

Cằm bà cụ biến mất trong những nếp da cổ nhăn nheo màu nâu vàng. "Con nói ai cơ?"

Tôi leo ra khỏi xe trước khi bà cụ có thể quyết định bảo con trai bà ấy đưa chúng tôi trở lại nơi ông ta đã tìm thấy chúng tôi. "Cháu là Avery." Chỉ mất hai bước đến hàng hiên, tôi vội vàng đưa tay ra để bắt tay bà ta. "Cháu đã hỏi con trai bà về những bức tranh và ảnh treo trong nhà của May. Bà nội cháu là một trong những người xuất hiện trong ảnh ạ."

Bà cụ liếc nhìn tôi rồi tới Trent, anh ta đang chờ ở chân cầu thang trong khi Jonah nghiên cứu máy kéo cùng với Bart. Một cậu bé lớn cỡ Jonah bước ra khỏi chuồng ngựa gần đó và chạy băng qua sân để gia nhập với họ. Màn giới thiệu là không cần, nhưng họ vẫn nhanh chóng chào hỏi nhau. Đây là Bart bé.

Bà cụ lại chú ý tới tôi. Bà ta rướn cổ lên và nhìn chăm chú, xem xét những đường nét khuôn mặt của tôi, so sánh với gì đó. Có phải tôi tưởng tượng, hay bà ta nhận ra gì đó? "Này, cháu nói cháu tên gì?"

"Avery ạ." Lần này tôi lặp lại lớn hơn.

"Av'ry gì cơ?"

"Stafford." Cho tới bây giờ tôi không chủ đích đưa ra thông tin đó. Nhưng tôi không muốn rời khỏi đây mà chẳng có được câu trả lời, và nếu thông tin này là cần thiết thì tôi sẽ nói ra.

"Cháu là con gái của Judy sao?"

Tim tôi bắt đầu đập mạnh đến mức tôi có thể cảm thấy màng nhĩ rung lên. "Cháu gái ạ."

Thời gian có vẻ chậm lại. Tôi mất hết ý thức về tiếng huyên thuyên của hai thằng bé, cuộc trò chuyện về máy kéo, Bart lớn, tiếng gà kêu cục tác, tiếng đuôi bò đập ruồi và bài hát bất tận của chim nhại.

"Cháu muốn biết về nhà hàng xóm. Và tại sao bà cháu lại đến nơi ấy." Đó không phải là câu hỏi mà là câu khẳng định, như thể người phụ nữ này đã chờ đợi nhiều năm, biết rằng sớm muộn gì cũng có người đến hỏi.

"Vâng, thưa bà, đúng thế. Cháu lẽ ra sẽ hỏi bà nội, nhưng thành thật mà nói, tâm trí của bà không được tốt. Bà không thể nhớ nhiều thứ."

Bà cụ chầm chậm lắc đầu, lưỡi tạo ra tiêng tặc, tặc, tặc. Khi lại tập trung nhìn tôi, bà ta nói: "Những điều tâm trí không nhớ, trái tim vẫn biết. Tình yêu là điều mạnh mẽ nhất. Mạnh hơn toàn bộ những thứ khác. Cháu muốn biết về những chị em đó sao?"

"Xin bà." Tôi thì thào. "Vâng, xin bà nói cho cháu biết đi ạ."

"Đây không phải là bí mật của ta để ta có thể nói ra." Bà cụ xoay người rồi đi vào nhà, và trong giây lát tôi nghĩ mình đã bị đuổi, nhưng cái liếc nhanh qua vai của bà ta nói cho tôi biết điều ngược lại. Tôi đang được yêu cầu theo bà ta vào bên trong.

Để nghe kể chuyện.

Tôi dừng ngay ngưỡng cửa, đứng chờ trong khi bà ta mở cái bàn mặt nghiêng bằng gỗ sồi và lôi ra cây thánh giá bằng thiếc bị mẻ. Từ bên dưới, bà ta lấy ra ba tờ giấy nhàu nát được xé ra từ tập giấy ghi chú vàng. Cho dù nhăn nheo rồi được vuốt thẳng, mấy tờ giấy trông có vẻ không cũ lắm, chẳng lâu đời như mảnh thiếc kia.

"Ta chỉ là người trông coi nơi đó." Người phụ nữ kia lên tiếng. Bà ta đưa riêng cho tôi cây thánh giá bằng thiếc và mấy tờ giấy. "Cây thánh giá đó là của Queenie cách đây lâu rồi. Judy viết điều khác. Đó là câu chuyện của bà ấy, nhưng bà ấy không bao giờ viết phần còn lại. Ta đoán họ quyết định sẽ đem mọi thứ xuống mồ. Nhưng ta nghĩ ai đấy có thể đến hỏi vào một ngày nào đó. Bí mật không phải là điều tốt. Cho dù bí mật xa xưa thế nào. Đôi khi, những bí mật xưa nhất lại là điều tồi tệ nhất. Cháu hãy đưa bà cháu đến gặp May đi. Con tim vẫn nhận biết. Nó vẫn biết rõ người nó yêu thương."

Tôi nhìn xuống cây thánh giá, lật trở trong tay rồi mở mấy tờ giấy vàng. Tôi nhận ra chữ viết tay đó. Đấy là chữ của bà nội tôi. Tôi đã xem nhật ký của bà đủ để chắc chắn điều ấy.

"Ngồi xuống đi, cháu gái." Mẹ của Bart dẫn tôi đến chỗ ghế bành. Tôi nửa ngồi nửa sụp xuống ghế. Đầu trang giấy ghi:

MỞ ĐẦU

Baltimore, Maryland

Ngày 03 tháng 08 năm 1939

Đây là ngày sinh nhật và nơi sinh của bà nội tôi.

Câu chuyện của tôi bắt đầu vào một đêm tháng Tám nóng oi ả, tại nơi tôi sẽ chẳng đời nào để mắt tới. Căn phòng tước đoạt sinh mạng ấy chỉ nằm trong trí tưởng tượng của tôi. Mất nhiều ngày tôi mới gợi nhớ được hình ảnh về nó. Bốn bức tường trắng tinh sạch sẽ, tấm vải lanh trải giường cứng đờ như chiếc lá rơi xuống vệ đường. Dãy phòng riêng được trang bị mọi thứ tốt nhất...

Tôi thả trôi theo thời gian, ngã nhào lùi lại nhiều thập kỷ, đi qua không gian đến phòng bệnh vào tháng Tám năm 1939, tới thời điểm một sự sống nhỏ bé bước vào thế giới này rồi bỏ đi cùng lúc, nhìn thấy máu, nỗi đau và một người mẹ trẻ kiệt sức chìm đắm vào giấc ngủ nhân từ.

Cuộc trò chuyện thì thầm giữa những người đàn ông quyền lực diễn ra. Một người ông sở hữu mọi của cải và địa vị, nhưng lại không thể cứu đứa cháu nhỏ xíu của mình.

Ông ta là một người quan trọng... có lẽ là hạ nghị sĩ?

Ông ta không thể cứu cháu gái? Hay ông ta có thể?

Tôi biết một người phụ nữ sống ở Memphis...

Một lựa chọn tuyệt vọng được đưa ra.

Câu chuyện kết thúc ở đây.

Và một câu chuyện khác bắt đầu. Câu chuyện dài của bé gái mồ côi với mái tóc vàng nhạt đã phải rời xa mẹ ruột ngay khi vừa sinh ra. Giấy tờ giả được ký, hoặc có lẽ bà mẹ mới kiệt sức chỉ được nghe bảo rằng con cô ta chết non. Đứa bé đã bị Georgia bồng đi, bí mật giao cho một gia đình nóng lòng chờ đợi tuyên bố đứa bé là con họ và chôn vùi bí mật tuyệt vọng của họ.

Cô gái bé nhỏ đó trở thành Judy Myers Stafford.

Đây là sự thật mà tim tôi đã nhận ra kể từ ngày tôi nhìn thấy bức ảnh phai màu đặt trên tủ đầu giường của May và sửng sốt trước vẻ tương đồng.

Tấm ảnh ở viện dưỡng lão là Queenie và Briny. Họ không chỉ là những người sống trong ký ức của May Crandall mà còn là ông bà cố của tôi. Những người du mục trên sông.

Tôi lẽ ra là một trong những người có số phận đón nhận bước ngoặt khó tưởng.

Mẹ của Bart đi đến bên cạnh tôi. Bà ta ngồi xuống tay ghế, xoa lưng tôi và đưa tôi cái khăn tay khi nước mắt tôi lăn dài. "Ôi, cưng ơi. Ôi, cháu gái. Tốt nhất là nên biết. Ta luôn nói với họ, tốt nhất hãy là chính mình. Hãy là con người vẫn ngự trị sâu thẳm bên trong. Không còn cách sống nào khác tốt hơn thế. Nhưng đây không là điều ta có thể quyết định."

Tôi không rõ mình ngồi ở đó bao lâu, và bà cụ kia vỗ về xoa dịu trong khi tôi ngẫm nghĩ tất cả những thứ đã khiến đám trẻ của Arcadia rời xa nhau. Tôi nghĩ đến cách May giải thích lựa chọn của họ: Chị em ta đã từng là những phụ nữ trẻ có cuộc sống và chồng con lúc chúng ta được tụ họp lần nữa. Chúng ta đã quyết định không quấy rầy nhau. Biết rằng người kia vẫn còn sống khỏe là được rồi...

Nhưng sự thật là, điều đó không đủ. Thậm chí thành lũy danh tiếng, tham vọng, địa vị xã hội cũng không thể xóa nhòa tình chị em hay mối liên kết giữa họ. Đột nhiên, những rào cản tạo ra nhu cầu muốn có cuộc sống ẩn giấu và những nơi gặp gỡ bí mật của họ có vẻ cũng tàn nhẫn như những vụ nhận nuôi môi giới, việc thay đổi giấy tờ và gây ra sự chia cắt ép buộc.

"Cháu hãy đưa bà cháu đến gặp chị gái mình." Một bàn tay run rẩy siết lấy tay tôi. "Họ chỉ còn lại hai người. Chỉ còn hai chị em. Cháu hãy nói với họ rằng Hootsie bảo đã đến lúc họ là chính mình rồi."