← Quay lại trang sách

Chương 4 Chàng Rowe

Bảo tàng Britannic nằm trong một tòa nhà bốn tầng, nằm giữa hai khu chung cư khổng lồ trên đại lộ Thứ Năm gần phố Thứ Sáu Mươi Sáu. Cánh cửa bằng đồng hướng ra thảm cỏ Công viên Trung tâm, còn mặt phía bắc và phía nam kề với mái hiên của khu chung cư.

Thumm bước lên bậc thềm đá và chăm chú nhìn vào cánh cửa bằng đồng. Trên cửa có phù điêu chạm trổ; thiết kế chủ đạo trên mỗi cánh là khuôn mặt của thi hào Shakespeare. Cánh cửa nhìn có vẻ khá chắc chắn - có lẽ nó không đón chào ai. Điều này thể hiện khá rõ ràng, ngay cả chỗ nắm tay bằng đồng cũng đem lại cảm giác tương tự, mà không cần nói thành lời rằng: Bảo tàng Britannic đang đóng cửa để sửa chữa.

Nhưng ngài thanh tra là một người cứng đầu. Ông dùng tay phải đấm dữ dội vào cánh cửa.

“Bố à!” Patience khúc khích. ”Bố đang đánh Shakespeare đấy!”

Ngài thanh tra chỉ cười gằn và lại giáng một cú cực mạnh vào mũi Người hát rong xứ Avon. Tiếng kim loại loảng xoảng vang lên; và ngay lập tức một cái đầu cũ kĩ nhô ra.

“Này!” bóng người đó giật giọng. “Không biết tiếng Anh hả?”

“Tránh ra một bên, người anh em,” ngài thanh tra cười rạng rỡ. “Chúng tôi đang vội.”

Tay gác cổng có vẻ chẳng mấy bận tâm; cái mũi vĩ đại thập thò nơi khe cửa như thể nụ hoa ly đang e ấp. “Mấy người muốn gì?” ông ta hỏi một cách thô lỗ.

“Tất nhiên là muốn vào bên trong!”

“Ô, các vị không thể. Bảo tàng đang đóng cửa để sửa chữa.” Khe hở có vẻ sắp đóng lại.

“Này!” ngài thanh tra gọi với theo, nỗ lực tuyệt vọng ngăn chặn việc đó. “Dừng lại… Này, đây là cảnh sát!”

Có tiếng cười lục cục ma quái đằng sau cái đầu của Shakespeare, rồi hoàn toàn im lặng.

“Được rồi, dù ta có bị trừng phạt đi nữa!” ngài thanh tra hét lên đầy giận dữ. “Sao hả, lão già đần độn kia, ta sẽ đập nát cái cửa khốn kiếp này!”

Patience dựa người vào cửa, cười gập người, “Ôi bố ơi!” cô thở hổn hển. “Bố thật vui tính quá. Đó là hậu quả của việc đập đôi tay bất kính của bố lên mũi của ý chí bất tử … Con có ý này.”

Ngài thanh tra gầm gừ.

“Và bố đừng có tỏ ra nghi ngờ như vậy, bố sẽ bị nhức đầu cho xem. Chúng ta có một người bạn ngay trong lòng địch mà?”

“Ý con là gì?”

“Chính là ngài Drury bất hủ đó! Ngài Lane là một trong những người bảo trợ cho Bảo tàng Britannic mà? Con chắc rằng một cuộc gọi của ông sẽ có hiệu nghiệm như một câu thần chú.”

“Chúa ơi, đúng rồi! Patty, con làm lão già này tỉnh trí đấy. Hãy tìm ngay một cái điện thoại nào.”

Họ tìm thấy một buồng điện thoại công cộng trong một hiệu thuốc trên Đại lộ Madison, khu phía đông. Ngài thanh tra gọi một cuộc đường dài đến lâu đài Hamlet.

“Xin chào! Là tôi, Thumm đây. Ai đó?”

Giọng nói của một ông già ríu rít trong ống nghe: “Quacey. Xin chào!” Quacey là người bạn già đã ở cạnh Drury Lane suốt hơn bốn mươi năm; lão là người hóa trang cho Lane đồng thời là người bạn thân thiết nhất của ông.

“Có Lane ở đấy không?”

“Ngài Drury ở ngay đây, thưa ngài thanh tra. Ông ấy bảo rằng ông là một tên tội phạm.”

“Tội lỗi. Tất cả chúng ta chắc chắn đều tự thấy xấu hổ về bản thân mình. Con vịt già đó sao rồi? Nghe này, đồ khỉ nhỏ. Nói với Lane rằng ta muốn nhờ ông ta một việc.”

Có tiếng rì rầm ở đầu dây bên kia. Bệnh điếc của ông, mặc dù không ảnh hưởng nhiều đến các cuộc hội thoại hàng ngày - nhờ khả năng đọc khẩu hình phi thường của ông - nhưng lại ngăn cản ông giao tiếp qua điện thoại; và lúc đó Quacey trở thành đôi tai của chủ nhân mình.

“Ông ấy muốn biết đấy là việc gì,” cuối cùng Quacey thì thầm.

“Được rồi. Nói với ông ta rằng bọn ta đang theo đuổi một thứ gì đó cực kì bí hiểm và các manh mối dẫn chúng ta đến Bảo tàng Britannic. Nhưng tay bảo vệ điên khùng ở đó không cho ta vào. Tuyên bố đóng cửa để sửa chữa. Lane có làm được gì cho chúng ta không?”

Im lặng nối tiếp, rồi Thumm bắt đầu nghe thấy giọng của Lane trong ống nghe. Mặc dù tuổi đã cao, giọng nói của ông vẫn mềm mại và đầy đủ âm điệu như khi nó giúp ông trở thành một trong những diễn viên kịch nói xuất sắc nhất thế giới.

“Xin chào, ngài thanh tra,” Drury Lane nói. “Anh chịu khó lắng nghe một tí để thay đổi không khí nhé!” rồi ông khẽ cười. “Như thường lệ, tôi vẫn đang vật lộn với thói quen độc thoại của mình. Tôi mong Patience ổn chứ? Không, đừng có trả lời, lão già thổ dân kia; chắc chắn tôi sẽ chẳng nghe được gì cả. Có chuyện gì đó xảy ra ở Britannic hả? Tôi không thể tưởng tượng nổi đó là chuyện gì, thực sự đấy. Đó là nơi yên bình nhất quả đất. Tất nhiên là tôi sẽ gọi ngay cho người quản lý bảo tàng, Tiến sĩ Choate, anh biết đó - Alonzo Choate, một người bạn thân của tôi. Tôi chắc chắn ông ấy đang ở đó, nếu không tôi sẽ tìm ông ấy và khi ông bạn quay lại bảo tàng - tôi đoán anh ấy đang ở gần đó - ông sẽ được phép vào.” Lane húng hắng ho. “Rồi, tạm biệt, ngài thanh tra. Tôi hi vọng anh sẽ sắp xếp thời gian - cả anh và Patience đến thăm Hamlet, tôi rất nhớ cô bé.”

Có một khoảng lặng ngắn, rồi sau đó là tiếng dập máy ngập ngừng.

“Tạm biệt,” thanh tra Thumm rụt rè nói vào ống nghe rồi cau có cố tránh ánh mắt dò hỏi của con gái phía bên ngoài bốt điện thoại.

Bộ râu của Shakespeare nhìn đỡ khả nghi hơn ở lần thăm viếng Bảo tàng Britannic tiếp theo, và thực tế thì cánh cửa đã mở ra. Ở lối vào, đang đứng đợi họ là một ông già khá cao, có bộ râu dê cực kì thời trang, khuôn mặt tối om mỉm cười, răng sáng lấp lánh trên bộ râu chói lọi; đứng phía sau ông, như thể một bóng ma hối hận là ông già gác cửa mũi to.

“Thanh tra Thumm?” ông già tốt râu nói, vừa chìa tay ra. “Tôi là Alonzo Choate. Hẳn đây là cô Thumm! Tôi nhớ khá rõ lần trước cô đến thăm bảo tàng của chúng tôi cùng ngài Lane. Xin mời vào! Tôi hết sức xin lỗi vì lỗi lầm ngớ ngẩn của Burch. Tôi dám chắc rằng Burch sẽ không vội vàng như vậy từ sau đâu, phải không Burch?”

Người gác cửa lầm bầm điều gì đó không được hay ho rồi rút lui vào bóng tối.

“Đó không phải lỗi của ông ấy,” ngài thanh tra ngạo nghễ nói. “Mệnh lệnh là mệnh lệnh. Hẳn ông đã nghe chuyện từ Drury già rồi, tôi đoán vậy.”

“Vâng. Quacey mới gọi cho tôi. Đừng để tâm đến tình trạng hiện thời của Britannic, thưa cô Thumm,” Tiến sĩ Choate mỉm cười. “Tôi cảm thấy mình giống một bà nội trợ tỉ mẩn đang xin lỗi về sự bừa bộn trong căn bếp với mấy vị khách vậy. Chúng tôi đang trong quá trình trang trí tu sửa lại toàn bộ, cô biết đấy. Mấy việc dọn dẹp thông thường. Bao gồm cả người trông coi bảo tàng khiêm tốn này đây.” *

Họ bước qua gian phòng lát đá cẩm thạch để vào một căn phòng nhỏ hơn. Phòng tiếp khách nhỏ bé này có mùi sơn mới hơi nồng; toàn bộ đồ đạc được tập trung lại giữa phòng và được phủ lên bởi một lớp vải màu sắc kì lạ do những người thợ sơn mang đến. Họ đang nằm bò trên các giàn giáo để quét sơn lên tường và trần nhà. Từ một góc khuất nơi hốc tường là bộ ngực đang được phủ vải của một thi hào Anh quốc nổi tiếng đã mất. Còn xa xa nơi góc phòng là cánh cửa dẫn đến thang máy.

“Cháu không chắc mình có thấy thích không, thưa Tiến sĩ Choate,” Patience nói, cánh mũi rung rung, “về ý tưởng rằng… ờ, trang trí hoa huệ kiểu đó. Chẳng phải nhìn sẽ hợp lý hơn nếu ông để hình của Shakespeare và Jonson cùng Marlowe nguyên trạng hay sao?”

“Ý kiến rất hay,” viên quản lý bảo tàng nói. “Bản thân tôi cũng không thích ý tưởng này. Nhưng quyền quyết định thuộc về Hội đồng. Tất cả những việc chúng tôi có thể làm là ngăn cản ai đó vẽ hàng loạt những bức tranh tường kiểu hiện đại trong Phòng Shakespeare!” Ông ho khẽ và nhìn ngài thanh tra. “Chúng ta có thể vào phòng tôi được không? Ở ngay đây, và may mắn thay, chưa được sơn vẽ gì hết!”

Ông dẫn họ đi qua những mảng họa tiết lốm đốm đến một cánh cửa ăn vào tường. Một tấm biển bằng gỗ khắc nổi tên ông treo phía trên, ông đẩy cửa, tất cả bước vào một căn phòng lớn, sáng sủa, trần cao, dọc tường là những kệ sách bằng gỗ sồi đã chật kín.

Một anh chàng đang ngồi đọc say mê trong chiếc ghế bành ngẩng mặt lên nhìn họ ngay khi tất cả vừa bước qua cửa.

“À, Rowe,” Tiến sĩ Choate reo lên. “Xin lỗi vì đã quấy rầy cậu. Tôi muốn cậu gặp một vài người bạn của ngài Drury Lane.” Chàng thanh niên nhanh chóng đứng dậy và nở một nụ cười thân thiện. Anh chậm rãi gỡ cặp kính đeo trên mắt xuống. Anh có dáng người cao, một gương mặt dễ chịu khi không có cặp kính; phần vai khá gọn ghẽ, có dáng thể thao tương phản với vẻ mệt mỏi của một học giả trong đôi mắt anh. “Thưa cô Thumm, đây là anh Gordon Rowe, một trong những thực tập sinh triển vọng nhất của Bảo tàng Britannic. Còn đây là thanh tra Thumm.”

Chàng trai trẻ, nãy giờ chưa rời mắt khỏi Patience, bắt tay ngài thanh tra. “Xin chào! Ngài tiến sĩ ơi, ông thực sự biết rõ điều gì là tốt nhất cho một đôi mắt đang mỏi mệt. Tôi sẽ cho ông biết đó là gì… Hừm. Không, tôi sợ rằng chính mình cũng không dám gọi cái tên đó. Hoàn toàn không thích hợp. Hãy xem nào… À, ngài thanh tra! Có vẻ như tôi đã nghe tên ông trước đây rồi.”

“Cảm ơn,” ngài thanh tra nói khô khốc. “Đừng để chúng tôi làm phiền anh, ngài Tên gì cũng được . Có lẽ chúng ta nên đến một chỗ khác, Tiến sĩ Choate, và để anh bạn trẻ này lại với cuốn tiểu thuyết mười xu của mình.”

“Kìa bố!” Patience gào lên. “Ôi, anh Rowe, xin đừng để ý đến bố tôi. Anh thấy đó, ông ấy sợ là anh sẽ đặt cho tôi một cái tên không phù hợp bằng cái tên Thumm.” Má cô ửng đỏ, và chàng trai, bình tĩnh trước cái nhìn gườm gườm của ngài thanh tra, tiếp tục ngắm cô với vẻ ngưỡng mộ. “Anh muốn gọi tên tôi là gì hả, anh Rowe?”

“Darling,” * chàng trai nồng nhiệt đáp lời.

“Patience Darling?”

“Ờ… chỉ là darling thôi.”

“Nói lại X…” ngài thanh tra gầm lên giận dữ.

“Hãy ngồi xuống nào,” Tiến sĩ Choate cười ngoác. “Rowe, vì Chúa, hãy cư xử đúng mực chứ. Còn cô Thumm, mời cô.” Patience, đã nhận thấy anh chàng kia nhìn chăm chăm vào mình không chớp mắt, chợt thấy mạch máu nơi cổ tay mình rung lên do hồi hộp. Cô ngồi xuống, rồi ngài thanh tra và Tiến sĩ Choate cũng ngồi xuống, còn Rowe thì vẫn đứng nhìn chằm chằm.

“Chờ đợi thật chán quá,” Tiến sĩ Choate mở lời. “Bọn họ chỉ mới bắt đầu. Ý tôi là các thợ sơn. Còn nguyên tầng gác nữa.”

“Vâng,” thanh tra Thumm gầm ghè. “Giờ để tôi nói cho anh hay.”

Gordon Rowe ngồi xuống, khẽ cười. “Nếu tôi đang xen vào câu chuyện này…” anh ta hồ hởi nói.

Thanh tra Thumm nhìn đầy vẻ hi vọng. Nhưng Patience, trong khi liếc nhanh qua bố mình, nói với người quản lý bảo tàng. “Cháu hiểu là ngài tiến sĩ đây vẫn tham gia công việc sửa chữa này đúng không, Tiến sĩ Choate?… Mời ngồi, anh Rowe.”

Tiến sĩ Choate ngả người thoải mái trong chiếc ghế xoay sau bàn và nhìn ngắm căn phòng. Ông thở dài. “Chuyện này chưa được công bố chính thức, nhưng tôi sắp dừng làm việc ở đây. Tôi sẽ nghỉ hưu. Sau khi dành mười lăn năm cuộc đời mình cống hiến cho nơi này, tôi nghĩ đã đến lúc mình có quyền nghĩ cho bản thân.” Ông nhắm mắt lại và lẩm nhẩm: “Tôi biết chính xác mình sẽ làm gì. Tôi sẽ mua một căn nhà kiểu Anh nhỏ tôi đã để ý từ lâu ở phía trên Connecticut, chìm đắm trong những cuốn sách, và sống cuộc đời một học giả ẩn dật.”

“Thật thanh nhã quá,” ngài thanh tra nói. “Nhưng như tôi đang nói…”

“Thật quyến rũ,” Rowe lẩm bẩm, vẫn không rời mắt khỏi Patience.

“Ông chắc chắn xứng đáng được nghỉ ngơi, như những gì ngài Lane đã kể cháu nghe.” Patience vội vàng nói. “Khi nào ông sẽ đi, Tiến sĩ Choate?”

“Tôi vẫn chưa quyết định được. Cô thấy đấy, chúng tôi đang tìm một người quản lý bảo tàng mới. Ông ta từ Anh đến trên chuyến tàu tối nay; chúng ta hãy chờ xem ai sẽ cập bến vào sáng ngày mai. Chắc chắn sẽ mất một thời gian để ông ta quen với công việc, và trong khoảng thời gian đó tất nhiên tôi sẽ ở lại đây đến khi ông ta có thể tự lo mọi chuyện.”

“Một chuyến thăm thì sao, cô Darling?” chàng thanh niên đột nhiên hỏi.

“Cháu luôn nghĩ rằng nước Mỹ không muốn mượn các bức tranh và sách từ Anh,” Patience có vẻ bối rối. “Cháu đoán rằng người quản lý mới của bảo tàng là một người rất mê đọc sách, Tiến sĩ Choate. Có phải một ai đó quan trọng không thưa ngài?”

Ngài thanh tra có vẻ bồn chồn.

“Ô, ông ta cũng khá có tiếng tăm ở nước ngoài,” Tiến sĩ Choate vẫy tay một cách tinh tế. “Tôi không nói rằng ông ta là chuyên gia hạng nhất. Ông ta đã quản lý một bảo tàng nhỏ ở London trong nhiều năm - Bảo tàng Kensington. Tên ông ta là Sedlar, Hamnet Sedlar…”

“Ngài sẽ có cả một miếng bò nướng kiểu Anh tuyệt hảo,” chàng thanh niên nói đầy phấn khích.

“Được đích thân chủ tịch của chúng ta, cậu biết đó - ngài James Wyeth, đề cử.”

Patience, có vẻ không vui vì không được nhìn thấy ánh mắt ngưỡng mộ của chàng trai nữa, hơi nhướn đôi lông mày mỏng của mình. Wyeth là một người khổng lồ đầy quyền lực, Cyprus đại đế lạnh lùng, học thức với khát khao tri thức vô bờ.

“Và Sedlar cũng được chào mừng nhiệt liệt bởi John Humphrey Bond.” Tiến sĩ Choate tiếp tục. “Lời giới thiệu của ngài John cũng hết sức nặng kí. Ông ta là một trong những nhà sưu tập nổi tiếng nhất Anh quốc trong cả thập kỉ qua, ngài thanh tra à, tôi nghĩ ông cũng biết.”

Ngài thanh tra hơi bất ngờ. Ông hắng giọng. “Chắc chắn. Chắc chắn rồi. Nhưng chúng ta đang…”

“Ngài chắc sẽ không phiền khi tôi chen lời chứ?” Rowe đột ngột hỏi. “Tôi đã hi vọng rằng ai đó sẽ xuất hiện, ngài biết đấy.” Anh cười và đóng sập cuốn sách dày cộp mình đang đọc lại. “Hôm nay là một ngày may mắn của tôi.”

“Tất nhiên là không phải, anh Rowe à,” Patience lầm bầm, gương mặt đỏ hồng. “À, Tiến sĩ Choate, cháu từng có thời gian sống ở Anh hồi niên thiếu.”

“Nước Anh cũng gặp may mắn,” chàng thanh niên nhanh nhảu nói thêm.

“…và cháu luôn cảm thấy rằng những người Anh có học thức luôn coi chúng ta hơi kì quái và hoang dã. Cháu đoán lý do ngài Sedlar đến đây bởi vì sức nặng đáng kể của…”

Tiến sĩ Choate rung rung bộ râu, “Sai rồi, cô Thumm à. Ngân sách của Bảo tàng Britannic không cho phép chúng tôi trả lương cho Sedlar nhiều bằng hồi anh ta ở London. Nhưng anh ta có vẻ rất thích thú với đề nghị làm việc ở đây, và đã ngay lập tức nhận lời ngài Wyeth. Tôi đoán rằng anh ta cũng hơi giống chúng tôi - hơi thiếu thực tế.”

“Thật đúng đắn làm sao,” chàng trai trẻ thở dài. “Giờ đây nếu tôi thực tế hơn.”

“Thật đáng tò mò,” Patience mỉm cười. “Đó không phải một nét tính cách Anh điển hình, có lẽ vậy.”

Ngài thanh tra ho ầm ĩ. “Bây giờ, Patty,” ông quở trách cô, “Tiến sĩ Choate hết sức bận rộn, và chúng ta không thể bắt ông dành cả ngày tán gẫu với chúng ta về những chuyện không liên quan.”

“Ôi, thực ra thì, ngài thanh tra…”

“Tôi chắc rằng đây là một niềm vui lớn dành cho người già cả như ngài Choate đây,” Rowe niềm nở nói, “được nói chuyện với một sinh vật kiều diễm như con gái ngài, ngài thanh tra.”

Một tia sáng tuyệt vọng bùng lên trong mắt Thumm. “Lí do thực sự khiến chúng tôi đến đây, Tiến sĩ Choate,” ông nói, lờ đi chàng thanh niên, “là để tìm hiểu về Donoghue.”

“Donoghue?” người quản lý bảo tàng có vẻ bối rối, rồi quay sang Rowe, đang ngồi thẳng lưng mắt sáng rực. “Có chuyện gì với Donoghue vậy?”

“Có chuyện gì với Donoghue ấy hả?” ngài thanh tra gầm lên. “Tất nhiên rồi, Donoghue đã biến mất, đó là chuyện gì của ông ta!”

Nụ cười trên gương mặt chàng thanh niên tan biến. “Biến mất ư?” anh nói nhanh.

Tiến sĩ Choate sững sờ. “Ông chắc chứ, ngài thanh tra? Ngài không phải đang nói đến nhân viên bảo vệ đặc biệt của chúng tôi đó chứ?”

“Đúng vậy! Nói đi nào, chả nhẽ ông không biết ông ta không đến đây làm việc sáng nay hay sao?”

“Không, tôi biết rõ chứ. Nhưng tôi không để ý đến.” Ngài tiến sĩ đứng dậy và bắt đầu kéo mảnh vải phủ trên bàn làm việc. “Burch, người gác cửa, đã nói gì đó với tôi vào sáng nay về việc Donoghue không thể có mặt, nhưng tôi không nhớ rõ lắm… Thực tế là, Rowe, cậu có nhớ tôi đã đề cập chuyện đó không. Cậu thấy đó, chúng ta đều yêu quý ông ta và đã cho ông ta khá nhiều tự do so với những nơi khác. Và rồi bảo tàng bị đóng cửa … Chuyện gì đã xảy ra chứ? Có vấn đề gì vậy, thưa ngài thanh tra?”

“Cho đến nay chúng tôi mới tìm ra,” ngài thanh tra trả lời, “rằng ông ta đã biến khỏi đây từ chiều hôm qua khi đoàn giáo viên đó đang đi tham quan và vẫn chưa xuất hiện lại. Không quay về nhà mình, không đến buổi hẹn với một người bạn vào tối qua - ông ta đã biến mất.”

“Điều này khá là kì quặc, ông có nghĩ vậy không, thưa tiến sĩ?” Patience nói nhỏ.

Gordon Rowe nhẹ nhàng đặt cuốn sách xuống.

“Có lẽ vậy,” Tiến sĩ Choate bối rối ra mặt, nói. “Một tập thể giáo viên… Đó có vẻ là một nhóm người vô hại, ngài thanh tra.”

“Nếu ông làm cảnh sát cũng lâu năm như tôi,” ngài thanh tra đáp lại, “ông sẽ học được rằng đừng tin vào vẻ bên ngoài. Tôi hiểu rằng chính ông đã dẫn đám đông đó đi thăm quan bảo tàng.”

“Đúng vậy.”

“Có bao nhiêu người, ông có nhớ không?”

“Thực sự là tôi không biết, thưa ngài thanh tra. Tôi sợ rằng mình đã không đếm lúc đó.”

“Hẳn ngài cũng không tình cờ nhìn thấy”, Patience nói nhẹ nhàng, “một người đàn ông trung tuổi có bộ ria mép màu xám và cầm theo một cái mũ kì quái, đúng không?”

“Tôi có thói quen sống khép kín, cô Thumm; hơn một nửa thời gian tôi không để ý đến môi trường xung quanh.”

“Tôi có để ý thấy,” Rowe nói, nghiến bộ hàm mong manh của mình lại. “Nhưng tôi chỉ hơi liếc qua, nên không chắc chắn lắm.”

“Tệ thật,” ngài thanh tra nói giọng mỉa mai. “Vậy ông chỉ đưa họ đi vòng quanh thôi hả, ngài tiến sĩ?”

“Hẳn đó là tội của tôi vậy, ngài thanh tra,” người quản lý bảo tàng cười khẩy. “Tại sao cô lại quan tâm đặc biệt đến người đội mũ xanh đó vậy, cô Thumm?”

“Bởi người đàn ông đội mũ xanh đó,” Patience đáp lời, “không phải là thành viên thuộc nhóm khách kia, thưa Tiến sĩ Choate, và cháu có đủ mọi lí do để tin rằng sự biến mất của Donoghue có liên hệ với người đàn ông này theo cách nào đó.”

“Thật khôi hài,” Rowe lẩm bẩm. “Thật khôi hài. Đây hẳn là một âm mưu trong bảo tàng đấy, ngài tiến sĩ! Rõ ràng giống với tính cách lãng mạn kiểu Ai len điển hình.”

“Ý cậu là ông ta đã nhận thấy điều gì đó lạ thường,” Tiến sĩ Choate suy nghĩ kĩ lưỡng, “ở người đàn ông đội mũ xanh đó và tự cho mình quyền thực hiện một cuộc điều tra cá nhân? Hoàn toàn có thể, tất nhiên rồi. Tôi chắc rằng sẽ không có vấn đề gì xảy ra với Donoghue đâu, tôi khá tự tin vào năng lực tự lo cho bản thân của ông ta.”

“Thế ông ta đang ở đâu?” ngài thanh tra hỏi khô khốc.

Tiến sĩ Choate lại nhún vai; đó là bằng chứng cho thấy ông coi đây chỉ là một chuyện vặt. Ông đứng lên và mỉm cười. “Giờ thì vấn đề của ông đã được xử lý rồi, ông còn muốn tìm kiếm gì khác không, ngài thanh tra? Còn cô nữa, cô Thumm? Tôi biết cô đã từng đến Bảo tàng Britannic nhiều lần, nhưng gần đây chúng tôi có được những mẫu vật quan trọng mới mà tôi chắc chắn cô sẽ rất thích thú. Chúng tôi đang cất nó trong Phòng Saxon. Samuel Saxon, cô biết đó. Ông ta mới qua đời không lâu…”

“Ồ…” viên thanh tra cằn nhằn.

“Tôi chắc chắn rằng mọi người đều sẽ thích.”

Tiến sĩ Choate dẫn đường, giống nhà tiên tri Moses, bước qua giữa biển tranh sơn dầu treo trên tường phòng tiếp tân tới một hành lang thông ra một phòng đọc lớn khác, nơi những giá sách chật kín được trang trí thêm bởí các bức tranh sơn dầu. Thanh tra Thumm chán nản lết đi cạnh ông, sau họ là Patience và chàng thanh niên - sự sắp xếp vô tình khiến gò má của Patience thêm ửng hồng.

“Cô không phiền nếu tôi đi cùng cô dọc theo con đường này chứ, thưa quý cô?” Chàng trai trẻ thầm thì.

“Tôi chưa bao giờ tỏ ra xa lánh những chàng trai bảnh bao cả,” Patience nói giọng quả quyết, “và tôi chắc chắn tôi sẽ không làm như vậy để khiến anh căng thẳng đâu, anh Rowe. Đã có ai đó nói rằng anh là một người quá sỗ sàng chưa?”

“Có, em trai tôi,” Rowe trả lời một cách nghiêm túc, “khi tôi tặng nó một cú tím mắt. Em à, không biết đã bao lâu rồi anh mới được gặp một cô gái…”

Tiến sĩ Choate dẫn đường dọc qua phòng đọc đến một cánh cửa phía xa. “Thực tế là,” ông gợi ý, “anh Rowe đây có nhiều quyền hạn hơn tôi trong Phòng Saxon này cô Thumm à. Anh ta chính là một trong những thần đồng mới nổi danh gần đây, hẳn cô đã biết.”

“Kinh khủng quá,” Patience nói, vừa hất mái tóc.

“Đừng tin một lời nào cả,” Rowe nói ngay lập tức. “Choate, tôi sẽ thắt cổ ông. Tiến sĩ đang nói quá đà rồi, cô Thumm…”

“Ồ, giờ thì gọi tôi là cô Thumm rồi hả?”

Anh ta đỏ mặt. “Tôi xin lỗi. Thỉnh thoảng tôi lại bị như vậy. Ý của Tiến sĩ Choate là tôi nằm trong số những người may mắn đã lọt vào mắt Sam Saxon. Ông ấy di chúc lại rất nhiều sách quý cho Bảo tàng Britannic; ông ấy mới mất cách đây vài tháng; và với vai trò một người bảo trợ, tôi ở đây với một phần trách nhiệm không chính thức là đảm bảo các cuốn sách bắt đầu sống tại ngôi nhà mới một cách đúng đắn.”

“Càng lúc càng tệ hơn, anh Rowe à. Tôi chỉ thích các anh chàng não rỗng và không có chống lưng thôi.”

“Giờ cô đang tỏ ra cay nghiệt quá,” anh thầm thì. Rồi đôi mắt anh lại ánh lên. “Ngoại trừ phần được chống lưng, thì tôi khá chắc rằng mình đủ tiêu chuẩn. Thực ra thì, tôi có thực hiện một số nghiên cứu về Shakespeare. Ngài Saxon đã kèm cặp tôi, nhưng giờ ông đã qua đời và một phần lớn những nghiên cứu về Shakespeare đã được chuyển giao cho Bảo tàng.”

Mọi người bước vào một căn phòng dài và hẹp, chắc mới được sửa sang vì màu sắc còn tươi mới và thơm mùi nhựa thông. Ở đây phải có đến cả ngàn quyển sách, phần lớn để trên các giá sách. Một số được đặt trong các hộp gỗ trưng bày đặt trên những chân kim loại mỏng manh, rõ ràng là những đồ quý giá và đắt tiền.

“Mới hoàn thiện,” Tiến sĩ Choate nói. “Có một vài món hết sức độc đáo ở đây, Rowe nhỉ? Tất nhiên những đồ trong phòng này chưa được thêm vào nội dung trưng bày; bộ sưu tập mới được chuyển đến cách đây vài tuần, sau khi chúng tôi đóng cửa.” Ngài thanh tra đứng dựa lưng vào tường, trông nản lắm rồi. “Và bây giờ,” Tiến sĩ Choate nói như người dẫn chương trình đang giới thiệu một tiết mục mới, ông chỉ về phía hộp đựng gần nhất, “là món đồ…”

“Hãy nói xem!” giọng ngài thanh tra sắc lẹm. “Thứ quái quỷ gì đã xảy ra ở đây vậy?”

Tiến sĩ Choate và Gordon Rowe cuống cuồng chạy đến. Patience thở dồn dập.

Ngài thanh tra chỉ tay vào một hộp trưng bày ở chính giữa phòng, giống như những cái khác; nhưng có một điểm khác biệt rõ rệt. Lớp kính phía trên đã vỡ vụn và chỉ một vài mảnh kính là còn dính vào khung!