Chương 8
Bức tường đổ sập xuống dễ dàng đến độ tôi đã tự hỏi liệu có phải nó được xếp đặt sẵn như vậy hay không. Tobias Hawthorne đã phải chờ bao lâu mới có người chịu cầm búa mở đường vượt qua rào chắn mà ông ấy dựng lên? Bao lâu rồi mới có người chịu đặt ra những câu hỏi?
Mới có người chịu đi tìm con trai của ông ấy.
Khi bước qua đống tàn dư của bức tường gạch, tôi đã cố gắng mường tượng ra những suy nghĩ của ông lão. Tại sao ông ấy không tự mình tìm Toby? Tại sao ông ấy không đưa con trai mình về nhà?
Tôi đưa mắt nhìn xuống dãy hành lang dài dằng dặc. Sàn nhà được lát đá cẩm thạch trắng. Các bức tường được tráng gương hoàn toàn. Tôi có cảm giác như mình đang bước vào một ngôi nhà cười. Cảnh giác cao độ, tôi chầm chậm bước xuống hành lang, xem xét từng thứ một. Có một thư viện, một phòng khách, một phòng làm việc và phía cuối hành lang có một phòng ngủ to, rộng y như phòng ngủ của tôi. Quần áo vẫn treo đầy trong tủ.
Có một chiếc khăn treo trên giá bên cạnh một vòi hoa sen lớn.
“Nơi này đã bị chặn không cho ai bước vào bao lâu rồi thế?” Tôi hỏi, nhưng hai anh em họ đang ở một căn phòng khác - và tôi cũng chẳng cần họ trả lời. Hai mươi năm. Những bộ quần áo này đã được treo trong tủ kể từ mùa hè Toby “qua đời”.
Vừa bước ra khỏi phòng tắm, tôi thấy chân của Xander đang lấp ló thò ra từ bên dưới một chiếc giường ngủ siêu lớn. Jameson thì đang lần mò trên nóc một tủ quần áo. Chắc hẳn anh đang tìm kiếm một cái chốt hay một đòn bẩy nào đó, bởi một giây sau, nóc tủ bật ra như một cái nắp.
“Có vẻ chú Toby của chúng ta rất thích dùng hàng lậu,” Jameson bình phẩm. Tôi trèo lên tủ để nhìn rõ hơn và thấy một ngăn kéo dài, hẹp, xếp đầy những chai rượu cỡ nhỏ mà người ta hay mang theo mỗi khi đi du lịch.
“Ở đây có một tấm ván sàn lỏng lẻo,” Xander nói từ gầm giường. Khi cậu ấy xuất hiện trở lại thì trên tay đang cầm một túi nhựa nhỏ chứa đầy những viên thuốc - và một túi đầy bột.
♖
Chái nhà của Toby tràn ngập những ngăn bí mật: những cuốn sách rỗng ruột, những hộc tủ đánh lừa và tủ đựng đồ lộn ngược. Một lối đi bí mật trong phòng làm việc dẫn ngược trở lại lối vào, tiết lộ một sự thật rằng những tấm gương đặt ở hành lang đều là gương hai chiều. Từ chỗ mình đang đứng trong hành lang, tôi có thể nhìn thấy Jameson đang nằm úp mặt trên sàn đá cẩm thạch, xem xét từng viên gạch một.
Tôi nhìn anh lâu hơn mức cần thiết, sau đó quay trở về thư viện. Xander và tôi đã sàng lọc hằng trăm cuốn sách để tìm những ngăn bí mật. Phẩm vị của Toby mười chín tuổi rất chiết trung [1] - ông đọc mọi thứ từ truyện tranh, triết học Hy Lạp cho đến truyện trinh thám kinh dị và luật. Ngăn duy nhất trên giá sách gắn liền không chứa đầy sách là nơi đặt một chiếc đồng hồ cao chừng hai mươi phân và được cố định trực tiếp với mặt sau. Tôi quan sát chiếc đồng hồ một lúc. Kim giây của nó không chuyển động. Tôi đưa tay ra để kiểm tra xem mức độ chắc chắn của mối nối giữa đồng hồ và giá.
Chiếc đồng hồ không nhúc nhích.
Tôi gần như đã định bỏ qua nó, nhưng bản năng không cho phép tôi làm vậy. Thay vào đó, tôi vặn đồng hồ, nó quay một vòng rồi lung lay lỏng dần. Mặt đồng hồ rời ra khỏi bức tường. Không có bánh răng nào bên trong nó và cũng không có mạch điện. Thay vào đó, tôi tìm thấy một vật hình tròn, phẳng, làm bằng bìa cứng. Kiểm tra kỹ hơn thì thấy đồng tâm của hai vòng tròn bằng bìa cứng được cố định với nhau bằng một chiếc đinh đầu nhỏ. Mỗi vòng tròn đều có các chữ cái được viết ngay ngắn, thẳng hàng trên đó.
“Đĩa mật mã tự chế.” Xander cố rướn người qua đầu tôi để nhìn rõ hơn. “Hãy chỉnh chữ A của đĩa ngoài thẳng hàng với chữ A của đĩa nhỏ hơn, sau đó xem như thế nào? Xoay một trong hai đĩa để các chữ cái khác cũng thẳng hàng và tạo ra một mã thay thế đơn giản.”
Rõ ràng, các cháu trai của Toby Hawthorne đã được nuôi dạy y hệt như cách mà ông từng được nuôi dạy: tham gia vào các trò chơi của ông lão. Ông có đang chơi cùng chúng cháu không, Harry?
“Hượm đã.” Xander đột ngột đứng thẳng người dậy. “Nghe thấy không?”
Tôi dỏng tai lên nghe nghóng. Chỉ có sự im lặng bao trùm. “Nghe thấy gì cơ?”
Xander chỉ ngón trỏ về phía tôi. “Chính xác là thế.” Ngay giây tiếp theo, cậu ấy co giò chạy. Tôi nhét đĩa mật mã vào đai váy xếp ly, sau đó cũng chạy theo. Trên hành lang, Jameson đang lặng lẽ hạ một viên gạch đá cẩm thạch trở lại vị trí cũ.
Anh đã tìm thấy gì đó - và có vẻ không định chia sẻ với em trai anh và tôi.
“À há!” Xander reo lên đắc thắng. “Em biết ngay mà, anh quá im lặng!” Cậu ấy sải bước tới chỗ Jameson và ngồi xổm xuống bên cạnh, ấn tay vào tấm gạch lát sàn mà Jameson vừa hạ về vị trí ban đầu. Một tiếng lộp bộp vang lên, rồi viên gạch bật ra như đang ở trên một cái lò xo.
Lườm Jamesone, người nháy mắt lại với tôi, tôi quỳ xuống bên cạnh Xander. Bên dưới viên gạch là một ngăn bằng kim loại. Nó trống không, nhưng ở phía dưới đáy, tôi nhìn thấy một dòng chữ được khắc lên bề mặt kim loại.
Một bài thơ.
“Ta giận dữ với bằng hữu,” tôi đọc thành tiếng. “Ta vỗ về, cơn giận chịu yên.” Tôi nhìn lên. Jameson đã đứng dậy và bỏ đi rồi, nhưng Xander vẫn dán chặt mắt vào dòng chữ khi tôi tiếp tục đọc. “Ta thịnh nộ với kẻ thù. Ta nói đừng, cơn thịnh nộ lại càng điên.”
Những từ đó vẫn văng vẳng trong không gian vài giây sau khi tôi đọc chúng lên. Xander rút điện thoại ra, “William Blake,” mãi lúc sau cậu ấy mới cất tiếng.
“Ai cơ?” Tôi hỏi. Tôi liếc nhìn về phía Jameson, anh vừa xoay người lại và đi về phía chúng tôi. Tôi cứ tưởng anh đã bỏ đi nhưng hóa ra anh chỉ đang suy nghĩ, tập trung vào chuyển động.
“William Blake,” Jameson nhắc lại, lời nói và bước đi của anh thể hiện rất rõ rằng anh đang hoảng loạn. “Một nhà thơ của thế kỷ mười tám, và là nhà thơ yêu thích của bác Zara.”
“Và của cả Toby nữa,” Xander bổ sung.
Tôi nhìn chằm chằm vào những dòng chữ được khắc trên bề mặt kim loại. Từ thịnh nộ nhảy ra trước mắt tôi. Tôi nghĩ về những chai rượu và thuốc phiện mà chúng tôi đã tìm thấy trong phòng Toby. Tôi nghĩ đến vụ hỏa hoạn trên Đảo Hawthorne và cách giới báo chí ca tụng Toby là một chàng trai trẻ xuất sắc.
“Ông ấy đã tức giận chuyện gì đó,” tôi nói. Tâm trí tôi đang chạy đua. “Chuyện gì đó mà ông ấy không thể nói ra?”
“Có lẽ vậy,” Jameson trầm ngâm đáp. “Hoặc cũng có thể không.”
Xander đưa cho tôi chiếc điện thoại của cậu ấy. “Đây là toàn bộ bài thơ.”
“Cây độc [2] , của William Blake,” tôi đọc thành tiếng.
“Nội dung tóm tắt bài thơ này là: Cơn thịnh nộ ẩn giấu bên trong nhà thơ lớn dần thành một cái cây, cây sinh trái, trái bị nhiễm độc, và kẻ thù - kẻ không nhận thức được bản thân mình chính là kẻ thù - đã ăn trái đó. Bài thơ kết thúc bằng một xác chết. Rất hấp dẫn.”
Một xác chết. Tâm trí tôi tự do luân chuyển, bay đến nơi có ba thi thể được trục vớt từ vụ hỏa hoạn trên Đảo Hawthorne. Chính xác thì Toby đã tức giận đến mức nào vậy?
Đừng vội vã đưa ra kết luận như thế, tôi nhắc nhở bản thân. Tôi không hiểu ý nghĩa của bài thơ này - không hiểu tại sao một thanh niên mười chín tuổi lại khắc những dòng này vào một ngăn tủ bí mật. Tôi cũng không rõ đây là tác phẩm thủ công của Toby hay của ông lão. Chúng tôi chỉ biết một chuyện là Tobias Hawrnorne đã tạo ra trò chơi này ngay sau khi cậu con trai của ông mất tích, ngay trước khi ông dùng gạch chặn đứng cửa ra vào nơi này.
“Mấy đứa đang làm cái quái gì ở đây vậy hả?” Câu hỏi vang lên nghe như thể nó xé toạc cổ họng của ai đó. Tôi quay ngoắt về phía ngưỡng cửa. Ông Laughlin đang đứng đó, ở phía bên kia bức tường gạch vừa đổ sụp. Trông ông ấy vô cùng mệt mỏi, già nua và có vẻ đau đớn.
“Đặt mọi thứ trở lại nơi chúng ta đã tìm thấy chúng đi!” Xander rạng rỡ nói. “Ngay sau đó, chúng ta...”
Người quản gia không cho cậu nói hết câu. Ông ấy bước qua khe hở vừa được tạo ra trên bức tường gạch và chỉ tay về phía chúng tôi. “Ra ngoài!”
Phong cách chiết trung hay Eclectic là phong cách kết hợp, là sự giao thoa giữa cái cũ và cái mới, giữa phong cách phương Đông với phương Tây, giữa sự đơn giản và sang trọng và giữa sự khoa trương với khiêm tốn... Phong cách này khuyến khích mọi người sử dụng những yếu tố mà họ thích, đề cao thẩm mỹ cá nhân nhưng không quá phóng khoáng, tự do trong lựa chọn, kết hợp nhưng không phải là “tạo ra một mớ hỗn độn”.
A Poison Tree.