← Quay lại trang sách

Chương 16

Gió trên tầng thượng thổi tung mái tóc tôi. Tôi gọi điện cho Alisa để hỏi về bản di chúc.

“Chị không biết có tồn tại bất cứ bản sao đặc biệt nào cho di chúc trước đó của Ngài Hawthorne không. Nhưng McNamara, Ortega và Jones chắc sẽ lưu bản gốc mà em có thể xem được.”

Tôi biết Alisa định ám chỉ điều gì khi chị ấy nói từ “đặc biệt”, nhưng chỉ vì không có bản di chúc nào tương đương với Di chúc Đỏ không có nghĩa là chuyện này sẽ đi vào ngõ cụt. Vẫn chưa.

“Em phải đợi bao lâu nữa mới được xem nó ạ?” Tôi hỏi, mắt vẫn nhìn Jameson.

“Chị cần em làm cho chị hai việc trước.”

Tôi nhăn nhó. Hồi tôi yêu cầu được xem Di chúc Đỏ, Alisa đã lợi dụng nó để đưa tôi vào một căn phòng đầy các nhà tạo mẫu. “Không trang điểm nữa đâu,” tôi rên rỉ. “Nội chuyện này thôi đã đủ biến hóa với em rồi.”

“Gần đây em biểu hiện rất tốt,” Alisa trấn an tôi. “Nhưng chị vẫn cần em bớt chút thời gian trong lịch trình của mình để gặp mặt Landon sau giờ học.”

Landon là một cố vấn truyền thông. Cô ấy xử lý các vấn đề liên quan đến truyền thông và là người tập dượt cho tôi trả lời trước báo chí.

“Tại sao em lại cần gặp mặt Landon sau giờ học?” Tôi nghi ngờ.

“Chị muốn em sẵn sàng cho buổi phỏng vấn tháng tới. Chúng ta cần đảm bảo rằng chúng ta là người kiểm soát câu chuyện, Avery ạ.” Alisa ngừng lại. “Chứ không phải bố của em.”

Tôi không thể nói điều tôi muốn nói, rằng Ricky Grambs không phải là bố đẻ của tôi. Chữ ký trên giấy khai sinh của tôi không phải chữ ký của ông ta.

“Được thôi,” tôi sắc bén đáp trả. “Yêu cầu còn lại là gì ạ?” Alisa đã nói là có “hai việc”.

“Chị cần em tỉnh táo lại và để người vệ sĩ tội nghiệp của em lên tầng thượng.”

Sau giờ học, tôi đến gặp Landon ở Phòng Bóng bầu dục.

“Lần trước khi chúng ta gặp nhau, chị đã dạy em cách không trả lời các câu hỏi. Nghệ thuật trả lời chúng phức tạp hơn chút xíu. Khi đối mặt với một nhóm đông các phóng viên, em có thể phớt lờ các câu hỏi mà em không muốn trả lời. Nhưng trong cuộc phỏng vấn một-một, làm thế không còn là lựa chọn khôn ngoan nữa.”

Tôi cố gắng để trông như thể đang chú ý đến những lời của vị cố vấn truyền thông.

“Thay vì phớt lờ các câu hỏi,” Landon tiếp tục, chất giọng Anh sang trọng của cô ấy vang lên, “em phải điều hướng họ, một cách khéo léo để họ cảm thấy hứng thú với điều em đang nói, để họ không thể nhận ra em đang đi đường vòng và dẫn dắt họ đến một trong những luận điểm mà em đã định trước.”

“Luận điểm của em,” tôi lặp lại, nhưng suy nghĩ của tôi vẫn đang chìm trong bản di chúc của Tobias Hawthorne.

Đôi mắt nâu sâu thẳm của Landon không bỏ lỡ điều gì. Cô ấy nhướn mày nhìn tôi, và tôi buộc mình phải tập trung.

“Thật đáng yêu,” cô ấy nói. “Điều đầu tiên mà em cần quyết định là em muốn khán giả xem buổi phỏng vấn của em nghĩ gì. Để làm được điều đó, em cần phải hình thành cho mình một chủ đề cá nhân, chính xác là sáu luận điểm và không ít hơn hai chục giai thoại cá nhân để tạo dựng hình ảnh con người em và chuyển hướng bất kỳ câu hỏi nào mà em nhận được sang một trong những luận điểm của em.”

“Chỉ thế thôi ạ?” Tôi khô khốc hỏi.

Landon phớt lờ tông giọng của tôi. “Không hẳn vậy. Em còn cần phải học cách xác định các câu hỏi ‘không’ nữa.”

Tôi có thể làm chuyện này. Tôi có thể trở thành một người thừa kế nổi tiếng, nhỏ bé, đáng yêu. Tôi có thể kiềm chế để không đảo mắt khi trả lời. “Câu hỏi ‘không’ là gì ạ?”

“Là những câu hỏi mà em có thể trả lời chỉ với một từ duy nhất và thường là không . Nếu em không thể xoay vòng một câu hỏi vào luận điểm, hoặc nếu nói quá nhiều sẽ khiến em trông có vẻ tội lỗi, em cần khả năng nhìn thẳng vào mắt người phỏng vấn và đưa ra câu trả lời chỉ có một từ duy nhất đó mà không tỏ vẻ phòng thủ. Không. Có. Đôi khi. ”

Cách cô ấy nói ra những lời đó nghe mới chân thành làm sao - dù chẳng ai hỏi cô ấy câu nào.

“Em chẳng có gì để phải cảm thấy tội lỗi,” tôi thẳng thắn. “Em chẳng làm gì sai.”

“Đó chính xác là điều sẽ khiến em có vẻ đề phòng đấy,” cô ấy cất giọng đều đều.

Landon giao bài tập về nhà cho tôi. Tôi quyết tâm rời khỏi buổi học của mình để kiểm tra xem Alisa đã thương lượng xong chưa. Một tiếng sau, Oren, Alisa, Jameson và tôi lên đường tới công ty luật của McNamara, Ortega và Jones.

Trước sự ngạc nhiên của tôi, Xander đang ngồi trước cổng khi chúng tôi đến đó.

“Anh có nói với cậu ấy là chúng ta đến đây không?” Tôi hỏi Jameson khi hai chúng tôi bước ra khỏi chiếc SUV.

“Anh không cần phải làm thế,” Jameson thì thầm, mắt khẽ nheo lại. “Nó là người nhà Hawthorne.” Anh nói đủ lớn để Xander có thể nghe thấy. “Tốt nhất là nó đừng nên nghe lén anh.”

Thực tế là công nghệ giám sát thậm chí có khả năng đã được sử dụng ở đây nói lên rất nhiều điều về tuổi thơ của họ.

“Thật là một ngày tuyệt vời để đi xem tài liệu pháp lý,” Xander vui vẻ đáp, phớt lờ bình luận về việc nghe lén Jameson.

Cả Alisa và Oren đều im lặng khi năm người chúng tôi bước vào tòa nhà và đi thang máy lên. Khi cánh cửa thang máy mở ra, luật sư của tôi dẫn tôi vào một văn phòng nằm trong góc, nơi tập tài liệu đang được đặt trên bàn. Déjà vu.

Alisa trao cho ba người chúng tôi ánh nhìn rất đặc trưng của mình. “Chị sẽ để cửa mở,” chị ấy thông báo, rồi đứng bên cạnh Oren, ngay bên ngoài cửa ra vào.

Jameson thích thú gọi với theo. “Chị có đóng cửa nếu em hứa rất chân thành rằng sẽ không cướp mất khách hàng của chị không?”

“Jameson!” Tôi rít lên.

Alisa liếc nhìn và đảo mắt. “Chị đã biết em kể từ khi em còn mặc tã nữa kìa,” chị ấy nói với Jameson. “ Lúc nào em cũng là đứa gây rắc rối.”

Cánh cửa vẫn để mở.

Jameson hướng mắt về phía tôi và khẽ nhún vai. “Chuẩn không cần chỉnh nên phải nhận thôi!”

Trước khi tôi kịp trả lời, Xander đã lướt qua chúng tôi để đến chỗ bản di chúc. Jameson và tôi chen chúc bên cạnh cậu ấy. Ba người chúng tôi cùng đọc.

Tôi, Tobias Tattersall Hawthorne, khỏe mạnh cả về thể chất và tinh thần, quy định rằng toàn bộ tài sản của tôi, bao gồm tất cả tiền mặt và của cải vật chất, sẽ được xử lý như sau:

Trong trường hợp tôi chết trước vợ tôi, Alice O’Day Hawthorne, toàn bộ tài sản và của cải vật chất của tôi sẽ được để lại cho bà ấy. Trong trường hợp Alice O’Day Hawthorne chết trước, các điều khoản trong di chúc của tôi sẽ như sau:

Andrew and Lottie Laughlin, vì nhiều năm phục vụ trung thành của họ, tôi để lại số tiền 100.000 đô-la cho mỗi người, cùng quyền sinh sống trọn đời, không phải trả phí thuê nhà tại Wayback Cottage nằm ở bờ phía Tây của điền trang Texas của tôi.

Xander gõ ngón tay vào câu đó. “Nghe chẳng khác gì.”

Phần thừa kế của gia đình Laughlin cũng xuất hiện trong bản di chúc gần đây của Tobias Hawthorne. Theo bản năng, tôi lướt qua bản di chúc trước mặt để tìm những điểm tương đồng khác. Oren không được đề cập đến trong bản di chúc này, nhưng Nan thì có và điều khoản vẫn y hệt như bản di chúc sau này của Tobias Hawthome. Sau đó, tôi đọc đến phần nói về các cô con gái nhà Hawthorne.

Tôi để lại cho con gái Skye Hawthorne chiếc la bàn của tôi, hy vọng nó luôn biết hướng Bắc thực sự là hướng nào và để lại cho con gái Zara chiếc nhẫn cuới của tôi, hy vọng nó sẽ yêu trọn vẹn và kiên định như cách tôi yêu mẹ nó.

Lời lẽ vẫn vậy, nhưng trong bản di chúc cuối cùng, Tobias Hawthorne còn để lại cho các cô con gái số tiền trang trải tất cả các khoản nợ tính đến ngày ông qua đời và một khoản thừa kế một lần 50.000 đô-la. Trong bản di chúc này, ông thực sự không để lại gì cho họ ngoài mấy món đồ lặt vặt. Nash, cháu trai duy nhất của nhà Hawthorne được sinh ra trước khi bản di chúc này được viết, hoàn toàn không được nhắc đến. Không có điều khoản nào cho phép gia đình Hawthorne tiếp tục sống trong Nhà Hawthorne. Thay vào đó, phần còn lại của bản di chúc rất đơn giản.

Toàn bộ tài sản còn lại của tôi, bao gồm tất cả tài sản, tiền mặt và tài sản không cụ thể khác của tôi trên đời, sẽ được thanh khoản và số tiền thu được được chia đều cho các tổ chức từ thiện sau...

Danh sách tiếp theo rất dài - tổng cộng có hàng chục tổ chức.

Đính kèm phía sau di chúc của Tobias Hawthorne là một bản sao di chúc của vợ ông, chứa các điều khoản gần giống nhau. Nếu bà ấy ra đi trước, mọi thứ sẽ thuộc về chồng của bà ấy. Còn nếu ông ấy ra đi trước, tài sản của họ sẽ được chuyển cho quỹ từ thiện - khoản thừa kế của Nan và gia đình Laughlin vẫn được giữ nguyên, nhưng không để lại gì cho Zara và Skye cả.

“Bà của hai người cũng liên quan đến chuyện này,” tôi nói với hai anh em họ.

“Bà mất ngay trước khi Grayson được sinh ra,” Jameson nói. “Mọi người đều nói rằng nỗi đau vì mất Toby đã giết chết bà.”

Ông già có nói với vợ của mình rằng Toby vẫn còn sống không? Ông ấy đã biết - hay nghi ngờ - sự thật đó khi bản di chúc này được thảo ra chưa?

Tôi chuyển sự chú ý trở lại tập tài liệu và đọc lại từ đầu. “Chỉ có hai điểm khác nhau lớn giữa bản di chúc này và bản di chúc cuối cùng,” tôi nói sau khi đọc xong.

“Cậu không được nhắc đến trong bản di chúc này.” Xander đánh dấu vào bản đầu tiên. “Xét về mặt thời gian thì điều này hoàn toàn hợp lý, vì ba năm sau khi bản di chúc này được thảo ra, cậu mới chào đời.”

“Và các tổ chức từ thiện.” Jameson đang trong trạng thái tập trung cao độ. Anh không hề để mắt đến em trai mình và tôi. “Chắc hẳn manh mối có trong danh sách đó.”

Xander nở nụ cười toe toét. “Và anh biết điều đó có nghĩa là gì phải không, Jamie?”

Jameson bày ra vẻ mặt cho thấy anh thực sự biết điều đó có ý nghĩa gì.

“Gì vậy?” Tôi hỏi.

Jameson thở dài một hơi rất kịch. “Đừng bận tâm đến anh. Mỗi khi phải chuẩn bị tâm lý để đối mặt với sự buồn chán đến đau đớn và khó chịu đến khó lường, mặt anh lại trông như thế này. Nếu chúng ta muốn có thông tin tóm tắt về các tổ chức từ thiện trong danh sách này thì có một cách. Chuẩn bị tinh thần nghe giảng đi, Người thừa kế.”

Phải đến lúc đó tôi mới nhận ra anh đang nói về điều gì - và ai là người có thông tin mà chúng tôi cần. Thành viên của gia đình Hawthorne biết rõ các công việc từ thiện của họ. Người mà tôi cũng đã kể về Toby. “Grayson.”