Chương 33
Tôi không hiểu đấu giá im lặng là như nào, nhưng Max, người đang vô cùng thỏa mãn vì được ăn tôm và thành công đánh lạc hướng Alisa, nhanh chóng bắt kịp tôi để nói về những gì mà cậu ấy thu thập được. “Sẽ có một tờ giấy được đặt bên dưới mỗi món đồ. Những người tham gia đấu giá sẽ viết lên đó tên của họ và giá mà họ đưa ra. Nếu cậu muốn trả giá cao hơn khác thì cậu viết tên của mình bên dưới tên người đó.” Max sải bước về phía thứ có vẻ là một chú gấu nhồi bông và tăng giá của nó lên thêm hai trăm năm mươi đô-la nữa.
“Cậu vừa trả tám trăm đô-la cho một chú gấu nhồi bông?” Tôi kinh khiếp hỏi.
“Một chú gấu nhồi bông lông chồn ,” Max bảo tôi. “Bà Pearl Earrings ở đằng kia đang để mắt đến món đồ này đấy.” Cô bạn thân nhất đời tôi gật đầu về phía một người phụ nữ chừng bảy mươi tuổi. “Bà ấy muốn con gấu đó và không quan tâm đến việc phải mua nó với giá cắt cổ đâu.”
Y như rằng, vài phút sau, người phụ nữ đó lướt qua chỗ con gấu nhồi bông và viết xuống một cái giá khác.
“Tớ là người làm từ thiện,” Max tuyên bố. “Từ đầu buổi đến giờ, tớ đã lấy được từ những người trong căn phòng này mười ngàn đô-la rồi đấy.”
Đáng lẽ ra người thừa kế nên là cậu ấy mới đúng. Lắc đầu ngao ngán, tôi đi vòng vòng quanh căn phòng, ngắm nhìn từng món đồ được đem ra đấu giá. Tranh vẽ. Trang sức. Một ô đỗ xe được định sẵn. Tôi càng đi xa thì giá trị của các món đồ càng lớn. Những chiếc ví thiết kế. Một bức điêu khắc Tiffany. Một bữa tối riêng tư, có đầu bếp phục vụ tại bàn cho mười người. Một bữa tiệc trên du thuyền cho năm mươi người.
“Những món đồ có giá trị lớn thực sự đang được đấu giá ở buổi đấu giá trực tiếp,” Max nói với tôi. “Từ những thông tin tớ thu thập được thì cậu chính là người quyên góp hầu hết chúng.”
Chuyện này thật không thực. Cuộc đời này chưa bao giờ ngừng mang đến cho tôi những điều tưởng chừng như là mơ.
“Cá nhân tớ thì thấy,” Max nói, giọng hợm hĩnh, “cậu nên đấu giá cơ hội học Thạc sĩ tại Augusta. Kèm nơi ăn chốn ở. ”
Tôi nghiêm túc nhìn thẳng vào mắt cậu ấy. “Tớ chẳng hiểu nó có ý nghĩa gì cả.”
Cậu ấy khúc khích cười. “Tớ cũng thế!”
Alisa đã dặn tôi phải trả giá, thế nên tôi đi vòng quanh phòng một lần nữa. Một chiếc giỏ đựng toàn đồ trang điểm cao cấp. Những chai rượu vang và rượu whisky Scotland được trả giá cao ngất ngưởng khiến tôi phải giật mình, mắt mở lớn. Những tấm vé tham quan hậu trường. Những viên ngọc trai cổ điển.
Không có thứ nào phù hợp với tôi cả.
Cuối cùng, tôi chú ý đến một chiếc đồng hồ quả lắc. Theo như mô tả thì chiếc đồng hồ này được chế tác bởi một huấn luyện viên bầu dục đã về hưu của trường Trung học Heights. Nó trông đơn giản nhưng vô cùng tinh xảo. Từ phía bên kia phòng, Alisa gật đầu với tôi. Tôi nuốt nước bọt và tăng giá cao nhất hiện tại của món đồ lên thêm một mức tối thiểu.
Tôi cảm thấy buồn nôn.
“Làm vậy là chính đáng,” Max an ủi tôi. “Kiểu thế đó.”
Ngôi trường này đâu cần một nhà nguyện mới, cũng như tôi không cần một tác phẩm điêu khắc bằng đồng, khắc họa hình ảnh một chàng cao bồi đang cưỡi trên lưng một con bò tót hoang dã, điên cuồng đá hậu, nhưng tôi vẫn trả giá cho món đồ đó. Tôi còn đấu giá một buổi học làm bánh cùng đầu bếp làm bánh ngọt cho Libby và tăng giá gấp đôi chú gấu nhồi bông lông chồn của Max. Và rồi tôi nhìn thấy bức ảnh đó.
Trước cả khi cúi xuống nhìn kỹ, tôi đã biết đó là một bức ảnh của Grayson.
“Thằng bé có con mắt thật tinh tường.”
Tôi quay sang thì thấy Zara đang đứng cạnh tôi.
“Bác có định đấu giá món đồ này không?” Tôi hỏi bà ấy.
Zara Hawthorne-Calligaris nhướn lông mày nhìn tôi. Sau đó, không nói không rằng, bà ấy nâng giá của chiếc đồng hồ quả lắc lên.
“Chà, cái con tàu đó [1] ,” Max thì thầm. “Tớ khá chắc là bà ta đang thách cậu đấu tay đôi độ giàu có với bà ta.”
“Bình tĩnh đi nào, cô võ sĩ nhà nghề,” Xander xuất hiện bên cạnh tôi.
“Cậu đi đâu vậy?” Tôi khó chịu hỏi.
“Tớ đi giúp đỡ Rebecca và mẹ cậu ấy.” Giọng của Xander nhẹ nhàng đến lạ thường. “Cậu ấy không giỏi uống rượu vang.”
Tôi không có cơ hội để thăm dò thêm câu chuyện đó vì Alisa đã bước đến để hộ tống tôi ra bàn. “Tiệc tối,” chị ấy nói với tôi. “Diễn ra ngay sau buổi đấu giá trực tiếp.”
Tôi chật vật ngồi xuống, ăn salad bằng dĩa chuyên dụng và cố không làm đổ thứ gì ra khăn trải bàn bằng lụa. Mọi việc chỉ trở nên tồi tệ hơn sau đó. Một âm thanh va chạm lớn phá vỡ tiếng chuyện trò lịch sự. Mọi người trong phòng đều quay lại nhìn Rebecca, xinh đẹp nhưng tái nhợt, đang cố gắng đỡ mẹ mình đứng dậy. Giá đỡ bức ảnh của Emily và bản phác thảo nhà nguyện của kiến trúc sư đã bị đổ. Mẹ của Rebecca giật tay mình ra khỏi tay con gái và loạng choạng ngã xuống lần nữa.
Bất ngờ, Thea xuất hiện, quỳ xuống bên cạnh Rebecca và mẹ của cô ấy. Thea nói gì đó với người phụ nữ đang quẫn trí. Từ phía bên này của căn phòng, tôi cũng có thể nhìn thấy nét mặt của Rebecca, trông cô ấy giống như vừa nhớ ra hàng ngàn hàng vạn điều mà cô ấy đã cố gắng đến tuyệt vọng để quên chúng đi.
Như thể khoảnh khắc này và cách Thea đến bên cô ấy có thể phá hủy cô ấy đến tận cùng.
Một lúc sau, Libby cũng tiến đến, cố gắng giúp mẹ của Rebecca đứng dậy, và người phụ nữ đang phải chịu muôn vàn đớn đau ấy đã bùng nổ.
“Cô.” Bà ấy chỉ tay vào Libby. Chị gái tôi đang mặc một chiếc đầm dạ tiệc màu đen. Mái tóc màu xanh lam được ép thẳng vào da đầu như dải lụa. Thay vì đeo vòng cổ, chị ấy đã buộc một dải ruy-băng đen quanh cổ. Trông Libby vẫn quyến rũ như mọi ngày, nhưng mẹ của Rebecca lại tỏ vẻ khinh thường, coi chị ấy chẳng khác nào quái vật. “Tôi đã nhìn thấy cô đi cùng cậu ấy. Chàng trai mang họ Hawthore đó.” Bà ấy đã đứng dậy được. “Đừng bao giờ tin tưởng người nhà Hawthorne,” bà ấy lắp bắp. “Họ lấy đi mọi thứ.”
“Mẹ.” Tiếng thì thầm của Rebecca xuyên qua căn phòng. Mẹ của cô ấy vẫn đang nức nở, nước mắt giàn giụa. Libby phát giác ngày càng có nhiều người đổ dồn ánh mắt về phía mình và chị ấy rốt cục đã bỏ chạy. Tôi đuổi theo, mặc cho Alisa ở phía sau đang cố gọi tôi lại. Khi đi ngang qua Thea, Rebecca và mẹ của cô ấy, tôi nghe thấy người phụ nữ say rượu ấy cứ thút thít, lặp đi lặp lại một câu hỏi.
“Tại sao tất cả các con tôi đều chết?”
Max nói trại shit thành ship (con tàu).