← Quay lại trang sách

Chương 13

Có một điều Giles và Emma đã đi đến thống nhất, đó là sẽ khôn ngoan hơn nếu vụ tranh tụng được xử tại một phiên tòa kín có thẩm phán chủ tọa, hơn là phải chịu đựng sự khó lường của một bồi thẩm đoàn cũng như việc bị báo giới không ngừng bám riết. Ngài thẩm phán Cameron được lựa chọn để chủ trì phiên tòa, và luật sư của cả hai bên đều cam đoan với thân chủ của họ rằng đó là một người sở hữu cả sự trung thực, sáng suốt và thấu hiểu một cách rất cân xứng.

Cho dù báo chí đã có mặt đông nghịt bên ngoài phòng xử án số 6, những lời chào buổi sáng và tạm biệt buổi tối là tất cả những gì họ thu lượm được từ cả hai bên.

Đại diện cho Giles là Sir Cuthbert Makins KC, trong khi Emma và Grace đã chọn ông Simon Todd KC, cho dù Grace nói rõ cô sẽ không tham dự phiên tòa vì còn có những việc quan trọng hơn cần làm.

“Chẳng hạn là gì?” Emma hỏi.

“Chẳng hạn như dạy dỗ những đứa trẻ thông minh thay vì lắng nghe màn cãi cọ của những kẻ lớn xác mà vẫn trẻ con. Nếu em được trao quyền lựa chọn, em sẽ dộng đầu hai người vào nhau,” là lời bình luận cuối cùng của cô gái về chủ đề này.

Khi chiếc đồng hồ phía sau ghế thẩm phán đổ tiếng chuông đầu tiên báo mười giờ vào ngày đầu tiên của phiên tòa, thẩm phán Cameron bước vào phòng. Tất cả những người có mặt tại tòa cùng làm theo hai vị luật sư thuộc hội đồng hoàng gia, đứng dậy và cúi đầu chào ngài thẩm phán. Sau khi đã đáp lễ, ngài thẩm phán ngồi vào chỗ tại chiếc ghế bọc da lưng cao kê trước gia huy hoàng gia. Ông chỉnh lại bộ tóc giả, mở tập tài liệu dày bìa đỏ trước mặt mình và nhấp một ngụm nước trước khi lên tiếng với cả hai bên.

“Thưa quý bà và quý ông,” ông bắt đầu. “Công việc của tôi là lắng nghe những lý lẽ do cả hai luật sư đại diện của các bên đưa ra, đánh giá lời chứng của các nhân chứng, và cân nhắc những quy định của pháp luật có liên quan tới vụ tranh tụng này. Tôi cần phải bắt đầu bằng việc hỏi luật sư của cả bên nguyên và bên bị rằng liệu tất cả những nỗ lực để đi tới một giải pháp ngoài tòa án đã được thực hiện hay chưa.”

Sir Cuthbert từ tốn đứng dậy, chỉnh lại vạt chiếc áo thụng dài màu đen trước khi lên tiếng với tòa. “Tôi sẽ trả lời hộ nhân danh cả hai bên rằng thật đáng tiếc, thưa quý tòa, giải pháp đó đã không thể đạt được.”

“Vậy chúng ta hãy bắt đầu, Sir Cuthbert, với bản cáo trạng của ông.”

“Với sự cho phép của tòa, trong vụ tranh tụng này tôi đại diện cho bên nguyên đơn, Sir Giles Barrington. Vụ việc này, thưa quý tòa, liên quan tới giá trị pháp lý của một bản di chúc, và việc liệu phu nhân Barrington quá cố có ở trong trạng thái tinh thần đủ minh mẫn để đặt bút ký vào một văn bản pháp lý dài và phức tạp với nhiều chi tiết liên quan chỉ vài giờ trước khi bà qua đời. Thưa tòa, tôi xin đưa ra quan điểm là người phụ nữ yếu ớt đã kiệt quệ này không ở trong trạng thái cho phép đưa ra một phán quyết sáng suốt có tác động tới cuộc sống của nhiều người đến thế. Tôi cũng sẽ cho thấy trước đó phu nhân Barrington đã thảo một bản di chúc khác, chừng mười hai tháng trước khi bà qua đời, khi bà ở trạng thái sức khỏe tốt và có hơn cả đủ thời gian để cân nhắc về hành động của mình. Và vì mục đích đó, thưa tòa, tôi xin cho mời nhân chứng đầu tiên, ông Michael Pym.”

Một người đàn ông tóc bạc, cao ráo, ăn mặc lịch sự bước vào phòng xử án. Thậm chí từ trước khi bước lên bục nhân chứng, người đàn ông này đã tạo được ấn tượng tích cực như Sir Cuthbert dự kiến. Sau khi nhân chứng tuyên thệ, Sir Cuthbert dành cho ông này một nụ cười thân thiện.

“Ông Pym, mời ông vui lòng cho biết họ tên và nghề nghiệp để đưa vào biên bản phiên tòa.”

“Tên tôi là Michael Pym, và tôi là bác sĩ giải phẫu cao cấp ở bệnh viện Guy tại khu City, London.”

“Ông đã giữ cương vị này trong bao lâu?” “Mười sáu năm.”

“Vậy ông là một người có rất nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực chuyên môn của mình. Thực ra, người ta có thể nói…”

“Tôi chấp nhận ông Pym là một nhân chứng có hiểu biết chuyên môn, Sir Cuthbert. Hãy dừng phần này lại,” ngài thẩm phán nói.

“Ông Pym,” Sir Cuthbert nói, nhanh chóng trấn tĩnh lại, “ông có thể vui lòng cho tòa được biết, với tất cả kinh nghiệm đáng kể của mình, một bệnh nhân sẽ trải qua tuần cuối cùng của cuộc đời họ như thế nào khi họ phải chịu đựng một căn bệnh đau đớn và gây suy nhược cơ thể như ung thư?”.

“Tất nhiên tình trạng có thể có những khác biệt, song phần lớn bệnh nhân sẽ trải qua quãng thời gian nửa tỉnh nửa mê hoặc bất tỉnh. Trong những khoảnh khắc tỉnh táo, họ thường nhận ra cuộc sống của mình đang lụi dần, nhưng ngoài điều đó ra, họ có thể đã mất mọi cảm nhận về thực tế.”

“Ông có cho rằng một bệnh nhân ở tình trạng đó có thể đưa ra một quyết định quan trọng về một vấn đề pháp lý phức tạp như ký vào một bản di chúc hay không?”

“Không, tôi không cho là vậy,” Pym đáp. “Bất cứ khi nào yêu cầu một bản chứng thực chấp nhận y khoa được ký trong hoàn cảnh như vậy, tôi luôn đảm bảo việc này được thực hiện một thời gian trước khi bệnh nhân lâm vào tình trạng như đã nói ở trên.”

“Không có thêm câu hỏi nào, thưa tòa,” Sir Cuthbert nói và trở về chỗ của mình.

“Ông Pym,” ngài thẩm phán nói, cúi người về trước, “có phải ông đang nói rằng không có bất cứ một ngoại lệ nào cho quy luật này không?”.

“Ngoại lệ chứng minh cho quy luật, thưa tòa.”

“Quả vậy,” ngài thẩm phán đáp. Quay sang ông Todd, ông hỏi, “Ông có câu hỏi nào dành cho nhân chứng này không?”.

“Chắc chắn rồi, thưa quý tòa,” ông Todd nói, đứng dậy khỏi chỗ ngồi. “Ông Pym, ông đã bao giờ gặp qua phu nhân Barrington, dù vì lý do xã giao hay chuyên môn hay chưa?”

“Chưa, nhưng…”

“Vậy là ông chưa có cơ hội nghiên cứu bệnh án của bà ấy?” “Tất nhiên là chưa. Bà ấy không phải là bệnh nhân của tôi, nên làm thế sẽ vi phạm quy tắc hành nghề của Hội đồng Y khoa.”

“Vậy là ông chưa bao giờ gặp phu nhân Barrington, và cũng không quen thuộc với trường hợp của bà ấy?”

“Không, thưa ông.”

“Vậy thì, ông Pym, rất có thể bà ấy là ngoại lệ chứng minh cho quy luật chăng?”

“Có thể, nhưng rất khó có khả năng.” “Không có thêm câu hỏi nào, thưa quý tòa.”

Sir Cuthbert mỉm cười khi ông Todd ngồi xuống.

“Ông có mời thêm nhân chứng chuyên gia nào nữa không, Sir Cuthbert?” Ngài thẩm phán hỏi.

“Không, thưa quý tòa, tôi cảm thấy đã chứng minh được quan điểm của mình. Tuy nhiên, trong số những bằng chứng trong tay ngài, tôi đã đệ trình để ngài xem xét ba bản bày tỏ quan điểm từ những thành viên khác cũng rất có uy tín trong giới y học. Nếu ngài, thưa quý tòa, hay ông Todd cảm thấy họ cần xuất hiện trước tòa, họ đều sẵn sàng có mặt.”

“Ông thật chu đáo, Sir Cuthbert. Tôi đã đọc cả ba bản bày tỏ quan điểm, và tất cả đều xác nhận ý kiến của ông Pym. Ông Todd, ông có muốn cho mời người nào trong số các nhân chứng này, hay cả ba người, hay không?”

“Điều đó không cần thiết, thưa tòa,” Todd nói. “Tất nhiên, trừ khi có ai trong số họ trực tiếp quen biết phu nhân Barrington, hay quen thuộc với bệnh trạng của bà.”

Ngài thẩm phán đưa mắt về phía Sir Cuthbert, ông này lắc đầu. “Tôi không có thêm nhân chứng nào nữa, thưa tòa.”

“Vậy ông có thể cho gọi nhân chứng đầu tiên của mình, ông Todd,” ngài thẩm phán nói.

“Xin cảm ơn quý tòa. Tôi xin gọi ông Kenneth Langbourne.” Ông Langbourne có ngoại hình trái ngược hoàn toàn so với ông Pym. Ông này có vóc người lùn, áo khoác ngoài thiếu mất vài chiếc khuy, điều cho phép suy đoán rằng có thể gần đây ông ta mới lên cân, hoặc giả chưa lập gia đình. Và tương tự, có thể nhúm tóc ít ỏi còn lại trên đầu ông này có chính kiến riêng của chúng, hoặc là ông ta không hề sở hữu một cái lược.

“Mời ông vui lòng nói rõ họ tên và nghề nghiệp.”

“Tên tôi là Kenneth Langbourne, và tôi là bác sĩ giải phẫu chính tại Bệnh viện Hoàng gia Bristol.”

“Ông đã đảm nhiệm vị trí đó bao lâu rồi, ông Langbourne?” “Trong chín năm vừa qua.”

“Và có phải ông là bác sĩ điều trị cho phu nhân Barrington khi bà là bệnh nhân ở Bệnh viện Hoàng gia Bristol?”

“Vâng, đúng thế. Bà được bác sĩ Raeburn, bác sĩ đa khoa của gia đình, giới thiệu cho tôi.”

“Liệu tôi có đúng không khi nói rằng sau khi thực hiện một số kiểm tra đánh giá sức khỏe của phu nhân Barrington, ông đã khẳng định chẩn đoán của bác sĩ gia đình rằng bà bị ung thư vú, và báo cho bệnh nhân biết bà ấy chỉ còn sống được vài tuần nữa?”

“Vâng, đó là một trong những nhiệm vụ không mong muốn của người bác sĩ, thông báo cho bệnh nhân về tiên lượng xấu của bệnh trạng. Điều này còn nặng nề hơn nữa khi bệnh nhân lại là một người bạn lâu năm.”

“Và ông có thể nói cho tòa biết phu nhân Barrington đã phản ứng thế nào trước tin này không?”

“Kiên cường là từ tôi muốn dùng để mô tả về bà ấy. Và sau khi đã chấp nhận số phận của mình, bà ấy thể hiện sự quyết tâm cho thấy bà ấy đang có một việc rất quan trọng cần làm, và không để phí một khoảnh khắc nào.”

“Nhưng thưa ông Langbourne, chắc chắn người bệnh phải ở trong tình trạng suy kiệt vì liên tục phải chịu đựng đau đớn, đồng thời ở trong trạng thái lơ mơ vì những loại thuốc phải dùng chứ?”

“Chắc chắn bà ấy có ngủ trong những khoảng thời gian dài, nhưng khi tỉnh táo, bà ấy hoàn toàn có khả năng đọc tờ The Times, và bất cứ khi nào có khách tới thăm, thường chính những người khách cuối cùng lại bị mệt nhoài.”

“Ông lý giải việc này thế nào, ông Langbourne?”

“Tôi không thể. Tất cả những gì tôi có thể nói là đôi khi cách một con người phản ứng thật đáng kinh ngạc một khi họ đã chấp nhận thời gian của mình rất hạn chế.”

“Dựa trên những hiểu biết của ông về trường hợp bệnh này, ông Langbourne, ông có cho rằng phu nhân Barrington có thể hiểu được một văn bản pháp lý phức tạp như một di chúc và ký tên vào đó hay không?”

“Tôi không thấy tại sao lại không thể. Trong thời gian nằm viện, phu nhân đã viết vài bức thư, và trên thực tế bà ấy đã yêu cầu tôi làm nhân chứng khi bà ấy ký tên vào di chúc của mình trước sự hiện diện của luật sư.”

“Đó có phải là vai trò ông thường xuyên đảm nhiệm không?” “Chỉ khi tôi hoàn toàn tin chắc bệnh nhân ý thức được đầy đủ họ đang ký vào cái gì. Nếu không tôi sẽ từ chối làm việc này.”

“Nhưng trong trường hợp này, ông hoàn toàn tin tưởng rằng phu nhân Barrington ý thức được đầy đủ điều bà ấy đang làm?”

“Vâng, đúng thế.”

“Không có thêm câu hỏi nào, thưa quý tòa.”

“Sir Cuthbert, ông có muốn đưa ra câu hỏi với nhân chứng này không?”

“Tôi chỉ có một câu hỏi duy nhất, thưa quý tòa,” Sir Cuthbert nói. “Ông Langbourne, phu nhân Barrington sống được bao lâu sau khi ông chứng kiến bà ấy ký tên vào di chúc?”

“Bà ấy qua đời tối hôm đó.”

“Ngay tối hôm đó.” Sir Cuthbert nhắc lại. “Nghĩa là chỉ tính bằng giờ?”

“Vâng.”

“Không có thêm câu hỏi nào, thưa quý tòa.”

“Ông sẽ gọi nhân chứng tiếp theo chứ, ông Todd?” “Vâng, thưa tòa. Tôi xin gọi ông Desmond Siddons.”

Siddons bước vào phòng xử án như thể bước ra phòng khách nhà mình, đọc lời tuyên thệ trôi chảy đúng như một người chuyên nghiệp từng trải.

“Mời ông vui lòng nói rõ họ tên và nghề nghiệp.”

“Tên tôi là Desmond Siddons. Tôi là thành viên cao cấp của Marshall, Baker và Siddons, và tôi đã là luật sư của gia đình Barrington trong hai mươi ba năm qua.”

“Ông Siddons, cho phép tôi bắt đầu bằng việc hỏi liệu ông có chịu trách nhiệm soạn thảo bản di chúc trước đó, được Sir Giles cho rằng trên thực tế là di chúc cuối cùng của phu nhân Barrington, hay không?”

“Đúng là tôi, thưa ông.”

“Và di chúc đó được soạn thảo bao lâu rồi?”

“Hơn một năm trước khi phu nhân Barrington qua đời.”

“Và sau đó phu nhân Barrington có liên hệ với ông để cho ông biết bà ấy muốn thảo một di chúc mới hay không?”

“Đúng là phu nhân có làm vậy, thưa ông. Chỉ vài ngày trước khi bà ấy qua đời.”

“Và bản di chúc cuối cùng này, cũng chính là chủ đề dẫn tới phiên tranh tụng hôm nay, có gì khác biệt so với bản di chúc ông đã soạn thảo chỉ hơn một năm trước?”

“Tất cả những khoản dành cho việc làm từ thiện, cho người làm trong nhà, cho các cháu và bạn bè của phu nhân đều không có gì thay đổi. Trên thực tế, chỉ có một khác biệt lớn duy nhất trong toàn bộ văn bản.”

“Và khác biệt đó là gì vậy, ông Siddons?”

“Đó là toàn bộ gia sản của dòng họ Harvey không còn được chuyển cho con trai bà ấy, Sir Giles Barrington, mà được để lại cho các con gái phu nhân, bà Harold Clifton và cô Grace Barrington.”

“Hãy cho phép tôi được hoàn toàn rõ ràng về điểm này,” ông Todd nói. “Với ngoại lệ là một thay đổi duy nhất, và tôi thừa nhận đó là một thay đổi đáng kể, văn bản trước đây vẫn được giữ nguyên vẹn?”

“Đúng thế.”

“Phu nhân Barrington đang ở trạng thái tinh thần như thế nào khi yêu cầu ông thực hiện thay đổi đáng kể này trong di chúc của mình?”

“Thưa quý tòa, tôi buộc phải phản đối,” Sir Cuthbert lên tiếng, đứng dậy khỏi chỗ của mình. “Làm thế nào ông Siddons có thể đưa ra phán xét về trạng thái tinh thần của phu nhân Barrington? Ông là một luật sư chứ không phải bác sĩ tâm lý.”

“Tôi đồng ý,” ngài thẩm phán nói, “nhưng vì ông Siddons đã quen phu nhân trong hai mươi ba năm, tôi cũng rất muốn được nghe quan điểm của ông ấy”.

“Phu nhân rất mệt,” Siddons nói, “và mất nhiều thời gian hơn thường lệ để diễn đạt yêu cầu của bà ấy. Tuy nhiên, bà ấy đã nói rõ mình muốn bản di chúc mới được soạn thảo một cách khẩn trương”.

“Một cách khẩn trương - đó là những lời của ông hay của phu nhân vậy?” Ngài thẩm phán hỏi.

“Của phu nhân, thưa quý tòa. Bà ấy vẫn thường phê phán tôi vì viết cả một đoạn trong khi chỉ một câu cũng đã đủ.”

“Vậy là ông đã chuẩn bị bản di chúc mới một cách khẩn trương?”

“Chắc chắn là thế rồi, vì tôi ý thức được thời gian đang chống lại chúng tôi.”

“Ông có mặt khi bản di chúc được ký trước nhân chứng?” “Vâng. Những người làm chứng gồm ông Langbourne và người y tá trưởng của khu buồng bệnh, cô Rumbold.”

“Và ông vẫn khẳng định chắc chắn rằng phu nhân Barrington biết chính xác bà ấy đang ký cái gì?”

“Chắc chắn,” Siddons quả quyết nói. “Nếu không tôi đã không đời nào chấp thuận để quá trình này được tiến hành.”

“Hẳn là vậy rồi. Không có thêm câu hỏi nào, thưa quý tòa,” ông Todd nói.

“Nhân chứng là của ông, Sir Cuthbert.”

“Xin cảm ơn quý tòa. Ông Siddons, ông vừa nói rằng ông đã ở trong tình trạng phải chịu sức ép đáng kể để bản di chúc mới được hoàn tất và ký, và chính vì thế ông phải chuẩn bị nó rất khẩn trương, theo đúng những lời của chính ông.”

“Đúng thế. Ông Langbourne đã cảnh báo tôi là phu nhân Barrington không còn sống được bao lâu nữa.”

“Vậy nên, một cách hoàn toàn có thể hiểu được, ông đã làm mọi thứ trong khả năng để đẩy nhanh việc đó lên.” “Tôi không có nhiều lựa chọn.”

“Tôi không nghi ngờ điều đó, ông Siddons. Cho phép tôi hỏi ông đã mất bao lâu để soạn thảo bản di chúc trước, bản di chúc mà thân chủ của tôi cho là di chúc thật sự của phu nhân Barrington?”

Siddons do dự giây lát trước khi trả lời, “Ba, mà cũng có thể là bốn tháng”.

“Và ông thường xuyên hỏi ý kiến phu nhân Barrington, phải vậy không?”

“Phải, bà là người rất nghiêm khắc về các chi tiết.”

“Tôi tin chắc là thế. Nhưng phu nhân không có nhiều thời gian để cân nhắc các chi tiết trong bản di chúc sau của bà. Chính xác là năm ngày.”

“Vâng, nhưng đừng quên là…”

“Và vào ngày cuối cùng, bà chỉ vừa kịp đủ thời gian ký tên vào nó. Đúng vậy không?”

“Vâng, tôi nghĩ ông có thể diễn đạt như vậy.”

Sir Cuthbert quay sang nhân viên của tòa. “Ông có thể vui lòng đưa cho ông Siddons hai bản di chúc của phu nhân Barrington được không?”

Sir Cuthbert đợi cho đến khi hai văn bản đã được đặt trước mặt nhân chứng trước khi tiếp tục quá trình hỏi chéo của mình.

“Ông Siddons, ông có đồng ý với tôi rằng chữ ký trong bản di chúc trước trông đậm nét và chắc chắn hơn chữ ký trong bản di chúc ’vào phút chót’ hay không? Trên thực tế, thật khó tin chúng được ký bởi cùng một người.”

“Sir Cuthbert, có phải ông đang có ý ám chỉ rằng phu nhân Barrington không hề ký bản di chúc thứ hai hay không?” Ngài thẩm phán hỏi.

“Chắc chắn là không rồi, thưa quý tòa, nhưng tôi cho rằng bà ấy không hề biết mình đang ký cái gì.”

“Ông Siddons,” Sir Cuthbert tiếp tục, quay lại người luật sư, ông này giờ đang nắm chặt lấy rìa bục nhân chứng bằng cả hai bàn tay, “sau khi đã hoàn tất bản di chúc mới một cách vội vã, ông có đọc cho thân chủ duyệt qua từng điều khoản hay không?”.

“Không, tôi không làm thế. Nói cho cùng, chỉ có một thay đổi lớn duy nhất so với bản di chúc trước.”

“Nếu ông không cùng phu nhân Barrington duyệt qua từng điều khoản một, nghĩa là chúng ta chỉ có lời nói của ông cho việc đó thôi, ông Siddons.”

“Thưa quý tòa, đây là một ngụ ý không thể chấp nhận được,” ông Todd đứng bật dậy nói. “Ông Siddons đã có một sự nghiệp lâu dài và nổi bật trong nghề luật, và không đáng phải chịu một lời vu khống như vậy về nhân cách của mình.”

“Tôi đồng ý với ông, ông Todd,” ngài thẩm phán nói. “Sir Cuthbert, ông cần rút lại câu nói vừa rồi của mình.”

“Tôi xin lỗi, thưa quý tòa,” Sir Cuthbert nói, hơi cúi người trước khi quay lại phía nhân chứng. “Ông Siddons, trong bản di chúc trước, ai là người đã đề nghị tất cả ba mươi sáu trang cần được ký nháy bằng hai chữ cái đầu EB?”

“Tôi tin là tôi,” Siddons nói, giọng có vẻ hơi bối rối.

“Nhưng ông lại không yêu cầu phu nhân thực hiện quy trình chu đáo đó cho bản di chúc thứ hai, văn bản được chuẩn bị một cách khẩn trương.”

“Tôi không cảm thấy điều đó cần thiết. Nói cho cùng, như tôi đã nói, chỉ có một thay đổi đáng kể.”

“Và chúng ta có thể tìm thấy thay đổi đáng kể đó ở trang nào vậy, ông Siddons?”

Siddons lật nhanh qua bản di chúc và mỉm cười. “Trang hai mươi chín, điều bảy.”

“À phải, tôi có nó trước mặt mình đây rồi,” Sir Cuthbert nói. “Nhưng tôi không hề thấy hai chữ cái đầu EB, dù là ở cuối trang hay cạnh điều khoản quan trọng này. Có lẽ phu nhân Barrington đã quá mệt mỏi để ký tên hai lần trong cùng một ngày chăng?”

Siddons trông có vẻ như muốn phản đối, nhưng rồi không nói gì.

“Cho phép tôi hỏi ông, ông Siddons, đã bao nhiêu lần trong sự nghiệp lâu dài và nổi bật của mình, ông quên không đề nghị thân chủ của mình ký nháy lên từng trang của bản di chúc vậy?”

Siddons không trả lời. Sir Cuthbert trước hết nhìn sang ông Todd, sau đó nhìn lên ngài thẩm phán, rồi quay trở lại bục nhân chứng. “Tôi vẫn đang chờ đây, thưa ông.”

Siddons tuyệt vọng nhìn lên bục thẩm phán và bật ra, “Thưa ngài thẩm phán, nếu ngài đọc qua lá thư phu nhân Barrington gửi cho ngài, có thể nó sẽ giúp ngài quyết định xem bà ấy có biết chính xác điều mình đang làm hay không”.

“Lá thư?” Ngài thẩm phán nói đầy ngỡ ngàng. “Tôi không biết gì về lá thư nào cả. Chắc chắn nó không có trong các văn bản được cung cấp cho tòa. Ông có biết sự tồn tại của một lá thư như vậy không, Sir Cuthbert?”

“Đây là lần đầu tiên tôi nghe nói đến nó, thưa tòa. Tôi cũng không biết gì giống như ngài.”

“Đó là vì,” Siddons lúng búng, “nó mới chỉ vừa được đưa cho tôi sáng hôm nay. Thậm chí tôi còn chưa có thời gian báo để ông Todd biết về sự tồn tại của nó”.

“Ông đang nói về chuyện gì vậy?” Ngài thẩm phán hỏi.

Mọi con mắt đều đổ dồn vào Siddons khi ông này lấy từ trong túi áo trong ra một cái phong bì và giơ nó lên cách xa người như thể nó đang bốc cháy. “Đây là phong bì được chuyển cho tôi sáng nay, thưa tòa.”

“Từ ai vậy, ông Siddons?” Ngài thẩm phán hỏi.

“Ông Harry Clifton. Ông ấy nói với tôi rằng phu nhân Barrington đã trao nó cho ông ấy chỉ vài giờ trước khi qua đời.” “Ông đã mở phong bì ra chưa, ông Siddons?”

“Không, thưa tòa, tôi chưa mở. Nó được gửi cho ngài, với tư cách thẩm phán của phiên tòa.”

“Tôi hiểu rồi,” ngài thẩm phán nói. “Ông Todd và Sir Cuthbert, hai người có thể vui lòng cùng tôi vào trong phòng của tôi chứ?”

“Đây là một việc thật kỳ lạ, thưa các ngài,” ngài thẩm phán nói khi đặt phong bì chưa mở trên bàn làm việc của mình, trước mặt hai vị luật sư. “Trong hoàn cảnh hiện tại, tôi phải thú nhận tôi không biết tốt nhất nên hành động như thế nào.”

“Cả hai chúng tôi,” ông Todd nói, “đều có thể đưa ra một lý lẽ đầy thuyết phục rằng lá thư cần được coi như một bằng chứng không được chấp nhận”.

“Tôi đồng ý,” Sir Cuthbert nói, “nhưng thẳng thắn mà nói dù có làm thế hay không chúng ta cũng sẽ rơi vào cảnh khó xử. Vì nếu ngài không mở phong bì ra, khi giờ đây nó đã tìm đến tận phòng xử án, cho dù bên nào thua kiện cũng sẽ có cớ yêu cầu xử lại”.

“Tôi e đúng là như thế,” ngài thẩm phán nói. “Nếu cả hai ông đều đồng ý, có lẽ với ông, Simon, sẽ sáng suốt hơn nếu ông gọi ông Clifton ra làm nhân chứng tuyên thệ, và xem xem ông ta có thể ít nhiều làm sáng tỏ được việc mình đã có được phong bì này trong hoàn cảnh nào hay không. Ông nghĩ sao, Cuthbert?”

“Tôi không có gì phản đối việc này,” Sir Cuthbert nói.

“Tốt. Tuy nhiên, cho phép tôi cam đoan với hai vị,” ngài thẩm phán nói tiếp, “tôi sẽ không mở phong bì này ra cho tới khi đã nghe xong lời chứng của ông Clifton, và sẽ chỉ mở nó nếu cả hai ông chấp nhận. Và nếu tôi có làm vậy, việc này sẽ được thực hiện trước sự chứng kiến của tất cả những người có thể bị ảnh hưởng bởi kết quả phiên tòa”.