← Quay lại trang sách

Chương 14

“Cho gọi ông Harry Clifton.”

Emma nắm tay Harry trước khi anh đứng dậy khỏi chỗ ngồi của mình và bình tĩnh bước tới bục nhân chứng. Sau khi anh đã tuyên thệ, ngài thẩm phán cúi người ra trước và nói, “Ông Clifton, tôi dự định hỏi ông vài câu. Khi tôi đã hỏi xong, nếu các luật sư muốn làm rõ thêm điểm nào, họ sẽ được tự do làm điều đó. Liệu tôi có thể xác nhận để đưa vào biên bản rằng ông là chồng của Emma Clifton và anh rể của cô Grace Barrington, hai bị đơn trong vụ tranh tụng này, hay không?”.

“Đúng vậy, thưa tòa, và tôi cũng là em rể của Sir Giles Barrington, người bạn lâu năm và thân thiết nhất của tôi.”

“Ông có thể nói cho tòa biết mối quan hệ của ông với phu nhân Barrington không?”

“Tôi mới mười hai tuổi khi gặp bà lần đầu tiên trong một bữa tiệc trà được tổ chức nhân dịp sinh nhật Giles, vì vậy tôi biết bà đã gần hai mươi năm nay.”

“Những lời này chưa trả lời cho câu hỏi của tôi,” ngài thẩm phán nhấn giọng.

“Tôi coi Elizabeth như một người bạn thân thiết và gần gũi, và tôi đau khổ trước cái chết quá đột ngột của bà cũng nhiều như bất cứ ai tại đây. Bà là một phụ nữ đáng trân trọng, và nếu phu nhân ra đời muộn hơn một thế hệ, hội đồng quản trị của công ty hàng hải Barrington hẳn đã không cần phải tìm kiếm một chủ tịch mới bên ngoài gia đình khi chồng bà qua đời.”

“Cảm ơn ông,” ngài thẩm phán nói. “Và bây giờ tôi muốn hỏi ông về phong bì này,” ông nói, giơ nó lên để tất cả mọi người cùng thấy, “cũng như việc nó đã tới tay ông như thế nào”.

“Tôi tới bệnh viện thăm Elizabeth vào hầu hết các buổi tối. Lần cuối cùng diễn ra vào đêm cuối cùng của đời bà.”

“Ông chỉ có một mình với phu nhân?”

“Vâng, thưa tòa. Cô Grace, con gái bà, vừa ra về trước đó.” “Ông hãy làm ơn thuật lại cho tòa những gì đã xảy ra.” “Trước đó vào cùng ngày Elizabeth nói với tôi là bà đã có cuộc gặp với ông Siddons, luật sư của bà, và ký một bản di chúc mới.”

“Chúng ta đang nói về tối ngày thứ Năm, hai mươi sáu tháng Bảy có phải không?”

“Vâng, thưa tòa, chỉ vài giờ trước khi Elizabeth qua đời.” “Ông có thể cho tòa biết còn chuyện gì diễn ra trong lần thăm đó nữa không?”

“Bà làm tôi ngạc nhiên khi lấy ra một phong bì dán kín từ dưới gối và đề nghị tôi giữ cẩn thận.”

“Phu nhân có giải thích vì sao bà đưa nó cho ông không?”

“Bà chỉ nói nếu Giles phản đối di chúc mới của bà, tôi cần đưa phong bì này cho thẩm phán chủ tọa phiên tòa.”

“Phu nhân còn căn dặn ông điều gì khác nữa không?”

“Bà nói tôi không được mở phong bì hay để Giles hoặc vợ tôi biết về sự tồn tại của nó.”

“Và nếu Sir Giles không phản đối bản di chúc?”

“Tôi phải hủy phong bì đi, cũng với yêu cầu không được để lộ ra nó từng tồn tại.”

“Vậy là ông không hề biết có thứ gì trong phong bì này, ông Clifton?” Ngài thẩm phán nói, giơ phong bì lên. “Không hề.”

“Và chúng ta phải tin vào điều đó cơ đấy,” Virginia nói, đủ to để tất cả đều nghe thấy.

“Càng ngày càng kỳ lạ hơn,” ngài thẩm phán nói, tảng lờ lời ngắt quãng. “Tôi không còn câu hỏi nào dành cho ông nữa, ông Clifton. Ông Todd?”

“Xin cảm ơn tòa,” ông Todd vừa nói vừa đứng dậy. “Ông Clifton, ông vừa nói với ngài thẩm phán là phu nhân Barrington nói bà đã thảo một di chúc mới. Bà có cho ông biết bất cứ lý do nào giải thích tại sao bà lại làm vậy không?”

“Tôi không có chút nghi ngờ nào về việc Elizabeth yêu quý con trai bà, song phu nhân nói với tôi rằng bà sợ nếu cậu ấy kết hôn với người phụ nữ kinh khủng đó, phu nhân Virginia...”

“Thưa tòa,” Sir Cuthbert đứng bật dậy nói. “Đây chỉ là lời nói lại, và rõ ràng không thể chấp nhận được.”

“Tôi đồng ý. Nó sẽ bị bỏ ra ngoài biên bản.”

“Nhưng, thưa tòa,” ông Todd can thiệp, “việc phu nhân Barrington để lại Cleopatra, con mèo Xiêm của bà, cho phu nhân Virginia đã cho thấy...”.

“Ông đã giải thích rõ quan điểm của mình, ông Todd,” ngài thẩm phán nói. “Sir Cuthbert, ông có câu hỏi nào dành cho nhân chứng này không?”

“Chỉ một thôi, thưa tòa.” Nhìn thẳng vào Harry, Sir Cuthbert hỏi, “Ông có phải là người được thụ hưởng trong bản di chúc trước hay không?”.

“Không, thưa ngài.”

“Tôi không còn thêm câu hỏi nào dành cho ông Clifton, thưa tòa. Nhưng tôi muốn xin phép tòa cho phép tôi gọi thêm một nhân chứng nữa trước khi tòa quyết định xem lá thư đó có nên được mở ra hay không.”

“Ông đang nghĩ đến ai, Sir Cuthbert?” Ngài thẩm phán hỏi. “Người sẽ mất mát nhiều nhất nếu phán quyết của tòa chống lại ông ấy, cụ thể là Sir Giles Barrington.”

“Tôi không phản đối, với giả thiết là ông Todd cũng đồng ý.” “Tôi đồng ý,” Todd nói, ý thức được phản đối cũng không thu được gì.

Giles từ tốn bước lên bục nhân chứng, tuyên thệ như thể anh đang phát biểu trước Hạ viện. Sir Cuthbert chào đón anh bằng một nụ cười niềm nở.

“Để ghi vào biên bản, mời ông vui lòng cho biết họ tên và nghề nghiệp?”

“Sir Giles Barrington, dân biểu Hạ viện đại diện cho khu bến tàu Bristol.”

“Lần cuối cùng ông gặp mẹ là khi nào?” Sir Cuthbert hỏi. Ngài thẩm phán mỉm cười.

“Tôi vào thăm bà buổi sáng hôm bà mất.”

“Mẹ ông có nói gì tới việc bà đã thay đổi di chúc của mình hay không?” “Không hề.”

“Khi chia tay bà để ra về, ông vẫn nghĩ chỉ có một bản di chúc, chính là bản ông đã trao đổi rất kỹ với mẹ mình hơn một năm trước?”

“Thành thực mà nói, Sir Cuthbert, di chúc của mẹ tôi là điều cuối cùng tôi nghĩ đến vào lúc đó.”

“Hẳn là vậy rồi. Nhưng tôi vẫn cần phải hỏi ông thấy mẹ mình ở trong tình trạng sức khỏe như thế nào vào sáng hôm đó.”

“Bà rất yếu. Gần như chúng tôi không nói với nhau lời nào trong suốt một giờ tôi ở bên bà.”

“Vậy ông hẳn đã rất ngạc nhiên khi biết chỉ ngay sau khi ông ra về, phu nhân đã ký tên vào một văn bản pháp lý phức tạp dài đến ba mươi sáu trang.”

“Tôi thấy không thể tin nổi điều đó,” Giles nói, “và vẫn giữ nguyên quan điểm đó”.

“Ông có yêu quý mẹ mình không, Sir Giles?”

“Tôi ngưỡng mộ bà. Bà là trụ cột của gia đình. Tôi chỉ ước bà vẫn còn ở bên chúng tôi, để toàn bộ sự việc đáng buồn này không bao giờ xảy ra.”

“Cảm ơn ông, Sir Giles. Làm ơn hãy nán lại đó, vì ông Todd có thể sẽ muốn đặt câu hỏi cho ông.”

“Tôi e rằng mình sẽ phải chấp nhận mạo hiểm,” Todd thì thầm với Siddons trước khi đứng dậy đưa ra câu hỏi với nhân chứng. “Sir Giles, cho phép tôi bắt đầu bằng việc hỏi ông có phản đối việc ngài thẩm phán mở phong bì được gửi cho mình không?”

“Tất nhiên là có rồi!” Virginia nói.

“Tôi không có gì phản đối việc mở lá thư ra,” Giles nói, tảng lờ vợ anh. “Nếu nó được viết vào ngày mẹ tôi mất, chắc chắn nó sẽ cho thấy bà không còn khả năng ký vào một văn bản quan trọng như di chúc. Và nếu nó được viết trước ngày hai mươi sáu tháng Bảy, lá thư khó có khả năng mang lại ý nghĩa gì quan trọng.”

“Vậy nghĩa là ông chấp nhận lời kể của ông Clifton về những gì đã diễn ra sau khi ông gặp mẹ mình lần cuối cùng?”

“Không, chắc chắn là không rồi,” Virginia nói.

“Thưa bà, bà cần chấm dứt việc nói chen vào như vừa rồi,” ngài thẩm phán nói, trừng mắt nhìn người phụ nữ. “Nếu bà tiếp tục bày tỏ quan điểm, ngoại trừ từ bục nhân chứng, tôi sẽ không có lựa chọn nào khác ngoài cho người đưa bà ra khỏi phòng xử án. Tôi nói vậy đã rõ chưa?”

Virginia cúi đầu, phản ứng mà thẩm phán Cameron coi là tất cả những gì ông có thể có được từ người phụ nữ này.

“Ông Todd, ông có thể lặp lại câu hỏi của mình.”

“Không cần thiết phải làm vậy, thưa tòa,” Giles nói. “Nếu Harry nói mẹ tôi đã đưa cho cậu ấy lá thư vào tối hôm đó, thì đấy là những gì đã diễn ra.”

“Cảm ơn ông, Sir Giles. Tôi không còn câu hỏi nào.”

Ngài thẩm phán yêu cầu cả hai luật sư đứng dậy. “Sau lời chứng của Sir Giles Barrington, nếu không có ai phản đối, tôi sẽ mở phong bì này ra.”

Cả hai luật sư gật đầu, ý thức nếu họ phản đối thì sẽ chỉ tạo cớ để bên kia kháng cáo. Dù thế nào đi nữa, không ai trong hai người tin rằng có vị thẩm phán nào tại đất nước này lại không bác bỏ việc phản đối mở phong bì.

Thẩm phán Cameron giơ phong bì lên để mọi người đều thấy.

Ông mở nó và lấy ra một tờ giấy duy nhất, đặt lên bàn trước mặt. Ngài thẩm phán xem qua tờ giấy ba lần trước khi lên tiếng.

“Ông Siddons,” cuối cùng ông nói.

Người luật sư của gia đình Barrington hồi hộp đứng dậy từ chỗ của mình.

“Ông có thể cho tôi biết ngày giờ chính xác phu nhân Barrington qua đời không?”

Siddons lục trong đống giấy tờ trước khi thấy văn bản cần tìm. Ông này ngước nhìn lên ngài thẩm phán và nói, “Thưa tòa, tôi có thể khẳng định giấy chứng tử được ký vào lúc mười giờ hai mươi sáu phút tối ngày thứ Năm, hai mươi sáu tháng Bảy năm 1951”.

“Tôi rất biết ơn, ông Siddons. Bây giờ tôi sẽ quay về phòng mình để cân nhắc ý nghĩa của bằng chứng này. Phiên tòa tạm dừng nửa tiếng.”

“Tôi thấy trông nó không giống một lá thư,” Emma nói khi nhóm nhỏ của họ cúi đầu tập hợp để trao đổi. “Giống một văn bản chính thức hơn. Mẹ tôi có ký vào giấy tờ nào khác ngày hôm đó không, ông Siddons?”

Siddons lắc đầu. “Khi tôi có mặt thì không. Ông Todd, ông có ý tưởng nào chăng?”

“Rất mơ hồ. Có thể đó là một mảnh giấy cắt từ báo ra, nhưng từ khoảng cách đó thì tôi không dám chắc.”

“Tại sao anh lại cho phép ông thẩm phán mở lá thư đó ra, Giles?” Virginia rít lên từ bên phía bên kia phòng xử án.

“Trong hoàn cảnh hiện tại, phu nhân Virginia, chồng bà không có nhiều lựa chọn,” Sir Cuthbert nói. “Cho dù tôi tin chúng ta đã giành phần thắng trong phiên tòa này trước khi có sự can thiệp vào phút chót đó.”

“Ông thẩm phán có thể đang làm gì nhỉ?” Emma hỏi, không thể giấu nổi sự bồn chồn.

Harry nắm tay vợ anh. “Sẽ không lâu đâu, em yêu.”

“Nếu thẩm phán ra phán quyết chống lại chúng ta,” Virginia nói, “chúng ta vẫn có thể tuyên bố rằng bất cứ thứ gì nằm trong phong bì là không thể chấp nhận được chứ?”.

“Tôi không thể trả lời câu hỏi đó,” Sir Cuthbert nói, “cho đến khi tôi có cơ hội xem qua nó. Nội dung lá thư rất có thể sẽ chứng minh chồng bà đã đúng khi cho rằng mẹ ông không ở trong trạng thái đủ sức khỏe để ký vào một văn bản pháp lý quan trọng trong những giờ phút cuối cùng của cuộc đời bà ấy, trong trường hợp đó bên bị sẽ quyết định xem có nên kháng cáo hay không”.

Cả hai bên còn đang cúi đầu thì thầm trao đổi ở góc của mình như những vận động viên quyền Anh chờ tiếng chuông cho phép họ xông vào hiệp đấu cuối cùng thì cánh cửa phía sau ghế thẩm phán mở ra và vị trọng tài xuất hiện trở lại.

Tất cả những người có mặt trong phòng xử án đứng dậy cúi chào trước khi thẩm phán Cameron ngồi xuống chỗ của ông tại chiếc ghế lưng cao. Ông nhìn xuống một tá khuôn mặt đang chờ đợi.

“Tới lúc này, tôi đã có cơ hội nghiên cứu nội dung bên trong phong bì.” Mọi con mắt dán cả vào ngài thẩm phán. “Tôi rất ngạc nhiên khi phát hiện ra phu nhân Barrington và tôi chia sẻ một thú vui chung, tuy vậy tôi phải thú nhận bà là một người chơi xuất sắc hơn tôi nhiều. Vì vào thứ Năm ngày hai mươi sáu tháng Bảy, bà đã hoàn thành ô chữ trên tờ The Times, chỉ để trống lại một đầu mối, điều tôi không hề nghi ngờ là bà đã làm để chứng minh quan điểm của mình. Lý do khiến tôi phải tạm rời khỏi phòng xử là vì tôi cần tới thư viện để tìm một tờ The Times số ra thứ Sáu ngày hai mươi bảy tháng Bảy, hôm sau ngày phu nhân Barrington qua đời. Tôi muốn kiểm tra xem bà có phạm sai lầm nào trong ô chữ ngày hôm trước không, và bà không có bất cứ sai lầm nào, cũng như để xác nhận câu trả lời cho đầu mối bà để trống. Sau khi kiểm tra, tôi không còn nghi ngờ về việc phu nhân Barrington không chỉ đủ khả năng ký một bản di chúc, mà còn hoàn toàn ý thức được về nội dung của nó. Vì vậy tôi đã sẵn sàng để đưa ra phán quyết cho vụ tranh tụng này.”

Sir Cuthbert lập tức đứng dậy. “Thưa tòa, tôi tò mò muốn biết đầu mối còn trống nào đã giúp ngài đi tới phán quyết của mình vậy?”

Thẩm phán Cameron nhìn xuống ô chữ. “Hàng ngang thứ mười hai, sáu và sáu, những con bọ thường gặp tôi lẫn lộn khi tâm trí tôi sáng suốt.”1*

Sir Cuthbert cúi người, và một nụ cười bừng nở trên khuôn mặt Harry.

“Vì thế, trong vụ Barrington chống lại Clifton và Barrington, tôi đưa ra phán quyết nghiêng về phía bà Harold Clifton và cô Grace Barrington.”

“Chúng ta nhất định phải kháng cáo,” Virginia nói, trong khi Sir Cuthbert và ông Todd cúi đầu thật thấp.

“Anh sẽ không kháng cáo,” Giles nói. “Thậm chí với vốn liếng Latinh của mình anh cũng có thể hiểu được2*.”

“Anh điên rồi,” Virginia nói khi đùng đùng lao ra ngoài phòng xử án.

“Nhưng Harry là bạn thân nhất của anh,” Giles nói trong lúc đuổi theo vợ.

“Còn em là vợ anh, trong trường hợp anh đã quên mất.” Virginia lao qua cánh cửa quay và hối hả bước ra ngoài phố Strand.

“Nhưng anh có thể làm gì khác trong hoàn cảnh hiện tại đây?” Anh hỏi khi bắt kịp cô vợ.

“Anh có thể tranh đấu đến cùng để giành lấy những thứ thuộc về mình một cách hợp pháp, như anh đã hứa sẽ làm,” cô này nhắc chồng nhớ lại trước khi vẫy một chiếc taxi.

“Nhưng chẳng lẽ không thể có khả năng thẩm phán đã đúng khi nói mẹ anh biết chính xác bà đã làm gì hay sao?”

“Nếu anh tin như vậy, Giles,” Virginia nói, quay sang đối diện với chồng, “chắc chắn anh cũng đánh giá em thấp kém hệt như bà ấy”.

Giles ngớ người không nói được gì khi chiếc taxi dừng lại. Virginia mở cửa, chui vào trong xe và kéo cửa kính xuống.

“Em sẽ đến ở với anh trai em vài ngày. Nếu đến khi em quay lại anh vẫn chưa đệ đơn kháng cáo, em khuyên anh nên tìm một luật sư chuyên xử lý các vụ ly hôn.”

1*Nguyên văn: Common pests I confused when in my right mind. Đây là câu chơi chữ không thể dịch được: “Common pests I” sắp xếp đảo chữ lại là “compos mentis”, tiếng Latinh có nghĩa là “đầu óc sáng suốt” (tương đương với “in my right mind”). Ở đây Elizabeth muốn nói bà vẫn hoàn toàn sáng suốt tỉnh táo.

2*Ý Giles muốn nói anh đã hiểu câu chơi chữ của mẹ mình.