Chương 23
Giles ngồi xuống ghế của anh trên sân khấu trong tiếng hoan hô nhiệt liệt. Bài phát biểu của anh trước hội trường đông nghịt khó có thể thành công hơn thế, và phát biểu sau cùng hóa ra lại là một lợi thế.
Ba ứng cử viên đều tới sớm nửa giờ đồng hồ, sau đó vờn nhau như mấy cậu học trò đang chờ dự lớp học khiêu vũ đầu tiên của họ. Ông giám mục, vào vai người điều hành, cuối cùng gọi cả ba lại và giải thích cách thức ông định điều khiển buổi tối.
“Tôi sẽ mời từng người lên nói một bài phát biểu mở màn, không dài quá tám phút. Sau bảy phút tôi sẽ rung chuông.” Ông làm mẫu. “Tôi sẽ rung chuông lần thứ hai sau tám phút, để báo cho các vị biết thời gian đã hết. Sau khi tất cả các vị đều đã phát biểu xong, tôi sẽ cho cử tọa bắt đầu đặt câu hỏi từ phía dưới.”
“Thứ tự được quyết định bằng cách nào đây?” Fisher hỏi. “Bằng cách rút thăm.” Ông giám mục sau đó đưa ra ba cây thăm trong bàn tay nắm chặt và mời mỗi ứng cử viên rút một cây.
Fisher rút được cây thăm ngắn.
“Vậy ông sẽ mở đầu cuộc tranh luận, thiếu tá Fisher,” ông giám mục nói. “Ông sẽ phát biểu thứ hai, ông Ellsworthy, và Sir Giles, ông sẽ phát biểu sau cùng.”
Giles mỉm cười với Fisher và nói, “Không may rồi, ông bạn thân mến”.
“Không, tôi muốn lên đầu tiên,” Fisher phản đối, làm cả ông giám mục cũng phải nhướng một bên mày lên.
Khi ông giám mục dẫn ba người lên sân khấu lúc 7 giờ 25 phút, đó là lần duy nhất trong buổi tối hôm đó tất cả mọi người trong hội trường cùng nhất loạt vỗ tay hoan hô. Giles ngồi xuống ghế của anh và nhìn đám đông đang ngồi chật hội trường. Anh ước tính có hơn một nghìn cử tọa đã có mặt để chứng kiến cuộc tỷ thí.
Giles biết mỗi đảng trong số ba đảng đều được phát 200 phiếu cho những người ủng hộ mình, có nghĩa là vẫn còn khoảng 400 cử tri chưa quyết định cần thu hút; đúng bằng đa số anh giành được trong kỳ bầu cử trước.
Đến 7 giờ 30, ông giám mục bắt đầu cuộc tranh luận. Ông giới thiệu ba ứng cử viên, sau đó mời thiếu tá Fisher thực hiện bài phát biểu mở màn của anh ta.
Fisher thong thả bước ra trước sân khấu, để bài phát biểu chuẩn bị sẵn lên bục và gõ vào micro. Anh ta đọc bài phát biểu một cách bồn chồn, đầu luôn cúi, rõ ràng sợ bị quên nội dung.
Khi ông giám mục rung chuông báo còn một phút nữa, Fisher bắt đầu tăng tốc, việc này lập tức khiến anh ta vấp lời. Giles hẳn có thể nhắc anh ta một quy tắc vàng là khi bạn được dành cho tám phút, hãy chuẩn bị một bài phát biểu cho bảy phút. Kết thúc hơi sớm hơn một chút sẽ tốt hơn nhiều so với việc bị ngắt giữa chừng. Bất chấp chuyện này, khi quay về chỗ ngồi, Fisher vẫn được tưởng thưởng bằng một tràng vỗ tay kéo dài từ phía những người ủng hộ.
Giles thực sự ngạc nhiên khi Reg Ellsworthy đứng lên trình bày quan điểm của phe Tự do. Anh ta không hề có bài phát biểu chuẩn bị trước, thậm chí cũng chẳng có danh sách đề mục để nhắc mình nên tập trung vào những chủ đề nào. Thay vào đó, anh ta huyên thuyên về những vấn đề địa phương, và khi tiếng chuông báo hiệu hết một phút cuối vang lên, anh ta bị ngắt giữa câu và quay về chỗ của mình. Ellsworthy đã làm được một điều Giles vốn nghĩ là không thể; khiến Fisher có vẻ xuất sắc. Dù sao đi nữa, một phần năm cử tọa vẫn hoan hô ứng cử viên đại diện cho họ.
Giles đứng dậy giữa màn chào đón nhiệt liệt từ hai trăm người ủng hộ anh, cho dù phần lớn cử tọa vẫn ngồi im lặng. Một chuyện anh đã quá quen bất cứ khi nào diễn thuyết trước các băng ghế của phe chính phủ. Anh đứng cạnh bục diễn giả, chỉ thỉnh thoảng liếc nhìn các ghi chú của mình.
Giles bắt đầu bằng việc nhắc tới những thất bại của chính phủ Bảo thủ đương nhiệm, và nêu rõ các chính sách của Công đảng sẽ như thế nào nếu đảng này đứng ra thành lập chính phủ tiếp theo. Sau đó, anh đề cập tới các vấn đề địa phương, thậm chí còn kịp đảo qua một chút về chủ trương của phe Tự do, chi tiết làm cả hội trường đông nghịt bật cười. Khi anh kết thúc bài phát biểu, ít nhất một nửa số cử tọa đã vỗ tay hoan hô. Nếu cuộc tranh luận kết thúc ở đây, rõ ràng chỉ có thể có một người thắng cuộc.
“Bây giờ, các ứng cử viên sẽ trả lời câu hỏi từ cử tọa,” ông giám mục thông báo, “và tôi hy vọng việc này sẽ được thực hiện trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau và một cách trật tự”.
Ba mươi người trong số những người ủng hộ Giles đồng loạt giơ tay, tất cả đều được trang bị những câu hỏi chuẩn bị kỹ lưỡng nhằm hỗ trợ ứng cử viên của họ và hạ hai người kia. Rắc rối duy nhất là cũng có sáu mươi cánh tay khác cương quyết không kém giơ lên cùng thời điểm.
Ông giám mục cũng đủ tinh tế để nhận ra nơi ba khối người ủng hộ các ứng cử viên khác nhau đang ngồi, và khéo léo chọn các thành viên trung lập muốn hỏi về những vấn đề như quan điểm của các ứng cử viên về việc lắp đặt đồng hồ tính giờ đậu xe ở Bristol, việc này giúp ứng cử viên Tự do có cơ hội để tỏa sáng; việc chấm dứt định mức cung cấp lương thực, điều cả ba đều nhất trí; và dự định mở rộng việc dùng điện cho hệ thống đường xe lửa, vấn đề không khiến ứng cử viên nào ghi được thêm điểm.
Nhưng Giles biết kiểu gì một mũi tên cũng sẽ được bắn về phía anh, và anh cần đảm bảo để nó không trúng mục tiêu. Cuối cùng, Giles nghe thấy tiếng dây cung bật.
“Liệu Sir Giles có thể giải thích vì sao ông đã dành nhiều thời gian tới thăm Cambridge trong khóa Hạ viện vừa qua hơn so với tới khu vực bầu cử của chính mình không?” Một người đàn ông trung niên cao gầy hỏi, Giles nghĩ anh nhận ra người này.
Giles ngồi im một lát trong lúc trấn tĩnh lại. Anh vừa định đứng lên thì Fisher bật dậy, rõ ràng không hề ngạc nhiên trước câu hỏi mới được đưa ra, trong khi phỏng đoán tất cả mọi người có mặt đều hiểu người đặt câu hỏi đang muốn ám chỉ điều gì.
“Cho phép tôi cam đoan với tất cả mọi người có mặt tại đây,” anh ta nói, “là tôi sẽ dành nhiều thời gian ở Bristol hơn bất cứ thành phố nào khác, cho dù có bị thu hút bởi điều gì chăng nữa”.
Giles nhìn xuống, và thấy từng dãy khuôn mặt vô cảm. Dường như cử tọa không hề biết Fisher đang nói về điều gì.
Ứng cử viên Tự do là người đứng dậy tiếp theo. Anh ta rõ ràng không hiểu được dụng ý của câu hỏi, vì tất cả những gì anh ta nói là, “Là một người Oxford, tôi chưa bao giờ tới thăm những nơi khác trừ khi phải làm thế”.
Vài người bật cười.
Hai đối thủ của Giles đã cung cấp vũ khí để anh phản kích. Anh đứng dậy, quay sang đối mặt với Fisher.
“Tôi cảm thấy cần phải hỏi thiếu tá Fisher, nếu ông dự định dành nhiều thời gian ở Bristol hơn bất cứ thành phố nào khác, liệu điều đó có nghĩa là nếu ông giành thắng lợi vào thứ Năm tới, ông sẽ không tới London nhận ghế của mình tại Hạ viện hay không?”
Giles dừng lại đợi cho tiếng cười và tiếng hoan hô lắng xuống trước khi nói thêm, “Tôi tin chắc mình không cần nhắc lại với ứng cử viên Bảo thủ những lời của Edmund Burke. ’Tôi được bầu để đại diện cho người dân Bristol tại Westminster, chứ không phải để đại diện cho người dân Westminster tại Bristol.’ Đó là một người Bảo thủ mà tôi hoàn toàn nhất trí về quan điểm”. Giles ngồi xuống để duy trì tràng hoan hô kéo dài hơn. Cho dù biết mình chưa thực sự trả lời câu hỏi, anh cảm thấy đã giải quyết xong nó.
“Tôi nghĩ chỉ còn thời gian cho một câu hỏi nữa thôi,” ông giám mục nói, và chỉ tay về phía một phụ nữ ngồi ở chính giữa hội trường phía nửa sau, người ông cảm thấy tin chắc là trung lập.
“Liệu mỗi người trong ba ứng cử viên có thể cho chúng tôi biết vợ họ đang ở đâu tối nay không?”
Fisher ngả lưng ra sau, khoanh tay lại, trong khi Ellsworthy trông có vẻ lúng túng. Cuối cùng, ông giám mục quay sang Giles và nói, “Tôi nghĩ lần này đến lượt ông trả lời đầu tiên”.
Giles đứng dậy và nhìn thẳng vào người phụ nữ.
“Vợ tôi và tôi,” anh bắt đầu nói, “hiện đang tiến hành thủ tục ly hôn, và tôi hy vọng việc này sẽ sớm được thu xếp trong tương lai gần”.
Anh ngồi xuống trong bầu không khí im lặng nặng nề.
Ellsworthy đứng bật dậy và nói, “Tôi buộc phải thừa nhận kể từ khi trở thành ứng cử viên phe Tự do, tôi đã không thể thành công trong việc tìm ra ai đó sẵn lòng hẹn hò cùng mình, chứ chưa nói gì tới kết hôn”.
Câu trả lời này được đón nhận bằng những tiếng cười và những tràng vỗ tay vui vẻ. Trong khoảnh khắc Giles chợt nghĩ rằng rất có thể Ellsworthy đã giúp làm giảm căng thẳng.
Fisher chậm rãi đứng dậy.
“Bạn gái của tôi,” anh ta nói, và làm Giles thực sự ngạc nhiên, “người đã tới đây cùng tôi tối nay và hiện đang ngồi trên hàng ghế đầu, sẽ sát cánh bên tôi trong phần còn lại của chiến dịch tranh cử. Jenny, sao em không đứng dậy cúi chào mọi người đi”.
Một phụ nữ trẻ hấp dẫn đứng dậy, quay lại đối mặt với cử tọa và vẫy chào họ. Cô gái được chào đón bằng một tràng vỗ tay.
“Trước đây em từng thấy người phụ nữ này ở đâu rồi nhỉ?” Emma thì thầm. Nhưng Harry đang tập trung vào Fisher, người vẫn chưa quay về ghế của mình và hiển nhiên vẫn còn nhiều điều để nói.
“Tôi nghĩ các vị cũng nên biết sáng nay tôi đã nhận được một lá thư từ phu nhân Barrington.”
Sự im lặng bao trùm cả hội trường ở mức độ chưa ứng cử viên nào làm được trước đó trong suốt buổi tối. Giles đang ngồi bồn chồn trên mép ghế của anh trong khi Fisher lấy từ túi trong áo vét ra một lá thư. Anh ta thong thả mở nó ra và bắt đầu đọc.
“Thiếu tá Fisher thân mến, tôi viết cho ông để bày tỏ sự ngưỡng mộ với chiến dịch vận động tranh cử can đảm ông đang thực hiện nhân danh đảng Bảo thủ. Tôi muốn nói để ông biết nếu tôi là một công dân Bristol, chắc hẳn tôi sẽ không do dự bầu cho ông, vì tôi tin ông chính là ứng cử viên xứng đáng nhất. Tôi mong mỏi được chứng kiến ông ngồi vào ghế của mình tại Hạ viện. Trân trọng, Virginia Barrington.”
Tiếng ồn ào bùng lên trong cả hội trường, và Giles hiểu ra tất cả những gì anh đạt được trong một giờ vừa qua đã bốc hơi chỉ trong một phút. Fisher gấp lá thư lại, cất vào trong túi áo và trở về chỗ của anh ta. Ông giám mục can đảm cố hết sức vãn hồi trật tự cho cuộc tranh luận, trong khi những người ủng hộ Fisher không ngừng hoan hô vang dội, khiến những người ủng hộ Giles chỉ còn biết ngao ngán giương mắt nhìn.
Griff đã chứng tỏ ông có lý. Đừng bao giờ cho đối thủ của bạn một đấu trường.
“Anh đã mua lại được phần nào trong số cổ phiếu đó chưa?” “Vẫn chưa,” Benny nói, “cổ phiếu của Barrington vẫn tiếp tục lên giá sau công bố lợi nhuận hàng năm tốt hơn dự kiến, và triển vọng phe Bảo thủ sẽ gia tăng đa số của họ trong cuộc bầu cử”. “Hiện giá cổ phiếu đang ở mức bao nhiêu?”
“Khoảng bốn bảng bảy shilling, và tôi không nghĩ giá có thể giảm trong tương lai gần.”
“Chúng tôi có thể phải chịu lỗ bao nhiêu?” Fisher hỏi.
“Các vị ư? Không phải là cả hai vị,” Benny nói, “chỉ riêng ngài thôi. Phu nhân Virginia sẽ chẳng mất gì hết. Bà ấy đã bán hết lượng cổ phiếu của mình ở mức giá cao hơn nhiều so với mức phải trả cho chúng ban đầu”.
“Nhưng nếu bà ấy không mua lại chúng, tôi sẽ mất ghế trong hội đồng quản trị.”
“Nếu mua lại, bà ấy sẽ phải ứng ra một khoản kha khá, và tôi hình dung là bà ấy sẽ không thích chuyện đó cho lắm.” Benny đợi vài giây trước khi nói thêm, “Hãy cố nhìn về mặt tích cực, thiếu tá. Vào giờ này tuần sau, ngài sẽ là dân biểu”.
Ngày hôm sau, hai tờ báo địa phương trở nên không mấy dễ đọc với vị dân biểu tại vị. Bài phát biểu của Giles hầu như chẳng được nhắc đến, chỉ có một bức ảnh lớn của Virginia trên trang nhất, trông lộng lẫy chưa từng thấy, cùng với bản sao bức thư cô ta gửi cho Fisher được in bên dưới.
“Đừng lật sang trang sau,” Griff nói.
Giles lập tức lật sang trang sau để tìm kết quả thăm dò ý kiến mới nhất, dự đoán phe Bảo thủ sẽ tăng thêm đa số của họ hai mươi ba ghế nữa. Khu bến tàu Bristol xếp ở vị trí số tám trong danh sách những ghế bấp bênh nhất của Công đảng nhiều khả năng sẽ mất về tay đảng Bảo thủ.
“Không có nhiều điều một dân biểu tại vị có thể làm khi xu hướng trên toàn quốc đang chống lại đảng của anh ta,” Griff nói, sau khi Giles đã đọc xong bài báo. “Tôi ước tính một anh chàng dân biểu tại vị cừ đáng giá thêm một nghìn phiếu, và một anh chàng ứng cử viên đối lập dở tệ có thể mất một nghìn phiếu, nhưng thẳng thắn mà nói, thậm chí tôi không dám chắc liệu có thêm một nghìn phiếu nữa có đủ hay không. Nhưng điều đó cũng không ngăn chúng ta tranh đấu giành lấy từng phiếu bầu cho tới tận chín giờ tối thứ Năm. Vậy nên hãy đảm bảo ông không bao giờ mất tập trung. Tôi muốn ông xuất hiện trên phố, bắt tay bất cứ thứ gì chuyển động. Ngoại trừ Alex Fisher. Nếu ông bắt gặp gã đó, tôi cho phép ông được bóp hắn lè lưỡi ra.”
“Anh đã mua lại được cổ phiếu nào của Barrington chưa?” “Tôi e là chưa, thưa thiếu tá. Chúng chưa bao giờ rơi xuống dưới mức bốn bảng và ba shilling.”
“Vậy là tôi đã mất ghế của mình trong hội đồng quản trị.” “Tôi nghĩ ngài sẽ phát hiện ra đó là một phần trong kế hoạch của Barrington,” Benny nói.
“Ý anh là sao?”
“Sandy McBride chính là người đã mua hết cổ phiếu của ngài ngay khi chúng xuất hiện trên thị trường, và ông ta là người mua chính trong hai mươi mốt ngày qua. Ai cũng biết ông ta là người môi giới cho nhà Barrington.”
“Đồ con hoang khốn kiếp.”
“Chắc chắn bọn họ đã phát hiện ra ý đồ của ngài, thưa thiếu tá. Nhưng dù sao đây cũng không hoàn toàn là tin xấu, vì phu nhân Virginia đã kiếm được món lợi nhuận hơn bảy mươi nghìn bảng từ khoản đầu tư ban đầu của bà ấy, vì thế tôi cho rằng bà ấy mắc nợ ngài.”
Giles làm việc không thể cần cù hơn trong suốt tuần cuối cùng của chiến dịch tranh cử, cho dù nhiều lúc anh cảm thấy mình chẳng khác gì Sisyphus1* đang đẩy tảng đá khổng lồ ngược dốc.
Khi anh xuất hiện tại trụ sở chiến dịch tranh cử vào hôm trước ngày bỏ phiếu, lần đầu tiên Giles thấy Griff có vẻ tuyệt vọng.
“Mười nghìn cái này được thả vào các thùng thư ở khắp khu vực bầu cử tối hôm qua, để đề phòng trường hợp có ai đó bỏ lỡ mất nó.”
Giles nhìn một bản sao trang nhất tờ Bristol Evening Post với bức hình Virginia phía trên lá thư cô ta gửi cho Fisher. Phía dưới là dòng chữ: Nếu bạn muốn được đại diện tại Nghị viện bởi một người trung thực và chính trực, hãy bỏ phiếu cho Fisher.
“Hắn ta đúng là một bãi phân,” Griff nói. “Và đã được thả xuống trúng đầu chúng ta từ rất cao,” ông nói thêm đúng lúc một trong những tình nguyện viên đầu tiên bước vào mang theo các số báo ra buổi sáng.
Giles ngồi phịch xuống ghế của anh, ngả người ra sau và nhắm mắt lại. Nhưng chỉ một khoảnh khắc sau anh dám thề là vừa nghe thấy Griff cười phá lên. Ông đang cười ha hả. Anh mở mắt ra và Griff đưa cho anh một tờ Daily Mail. “Sẽ sát sạt đấy, anh bạn, nhưng ít nhất chúng ta đã quay trở lại cuộc đua.”
Giles không ngay lập tức nhận ra cô gái xinh đẹp trên trang nhất, người vừa mới được chọn làm ngôi sao của chương trình The Benny Hill Show. Jenny đã nói với tay phóng viên chuyên viết về giới showbiz công việc cô ta từng làm trước khi có được bước tiến lớn của bản thân.
“Tôi được trả mười bảng mỗi ngày để tháp tùng một ứng cử viên Bảo thủ đi khắp khu vực bầu cử, và nói với tất cả mọi người tôi là bạn gái của anh ta.”
Giles không nghĩ đây là một bức hình đẹp đẽ lắm của Fisher.
Fisher rủa lớn tiếng khi trông thấy trang nhất của tờ Daily Mail. Anh ta uống cạn cốc cà phê đen thứ ba của mình rồi đứng lên để đi tới trụ sở chiến dịch vận động tranh cử, đúng lúc nghe thấy tiếng báo sáng được giao rơi xuống tấm thảm chùi chân. Bất cứ lá thư nào cũng sẽ phải chờ đến tối nay, và hẳn anh ta đã tảng lờ chúng nếu không để ý thấy biểu tượng công ty Barrington trên phong bì. Anh ta cúi xuống, nhặt nó lên và quay vào trong bếp. Fisher xé phong bì lấy ra hai tấm séc, một được thanh toán cho anh ta, trị giá một ngàn bảng, khoản lương quý cho vai trò một giám đốc trong công ty Barrington, tấm séc thứ hai trị giá 7.341 bảng, khoản cổ tức hàng năm của Virginia, cũng được ghi thanh toán cho “Thiếu tá Alexander Fisher” để không ai biết chính bảy phẩy năm phần trăm cổ phần của cô ta đã giúp cho Fisher có thể ngồi vào hội đồng quản trị. Nhưng giờ thì không còn thế nữa.
Khi quay về nhà tối nay, Fisher sẽ viết một tấm séc có cùng giá trị và gửi cho Virginia. Tự hỏi liệu lúc này gọi điện cho cô ta có sớm quá hay không, Fisher nhìn đồng hồ đeo tay. Đã quá tám giờ vài phút, và theo kế hoạch anh ta cần phải đứng bên ngoài ga Temple Meads để gặp gỡ các cử tri khi họ rời khỏi nhà ga trên đường tới chỗ làm. Chắc chắn giờ này cô ta phải dậy rồi. Fisher nhấc máy lên và quay số ở Kensington.
Chuông reo vài lần trước khi một giọng ngái ngủ vang lên ở đầu dây bên kia. Fisher thiếu chút nữa đã gác máy.
“Ai đấy?” Virginia hỏi.
“Tôi là Alex Fisher. Tôi nghĩ nên gọi cho bà để báo tôi đã bán tất cả cổ phiếu Barrington của bà, và bà đã thu được một khoản lợi nhuận trên bảy mươi nghìn bảng.” Anh ta chờ đợi một lời cảm ơn, nhưng chẳng có gì xuất hiện. “Tôi không rõ liệu bà có dự định mua lại số cổ phiếu đó của mình hay không?” Anh ta hỏi. “Nói gì thì nói, bà đã thu được lợi nhuận đáng kể từ khi tôi vào hội đồng quản trị.”
“Cả ông cũng vậy, thiếu tá, và tôi chắc mình không cần phải nhắc nhở ông về chuyện đó. Song các kế hoạch cho tương lai của tôi đã thay đổi ít nhiều, và chúng không còn can dự gì đến Barrington nữa.”
“Nhưng nếu bà không mua lại bảy phẩy năm phần trăm cổ phần của mình, tôi sẽ mất ghế trong hội đồng quản trị.”
“Chuyện đó chắc không làm tôi mất ngủ nhiều lắm đâu, thiếu tá.”
“Nhưng tôi tự hỏi, xét đến hoàn cảnh…” “Hoàn cảnh nào cơ?”
“Liệu bà có cảm thấy một khoản thù lao nhỏ là thích đáng hay không,” anh ta nói, nhìn xuống tấm séc trị giá 7.341 bảng.
“Nhỏ đến mức nào đây?”
“Tôi nghĩ có lẽ khoảng năm nghìn bảng chẳng hạn?”
“Để tôi suy nghĩ một chút.” Đường dây im lặng, và Alex thậm chí băn khoăn không hiểu có phải anh ta đã bị ngắt liên lạc hay không. Cuối cùng Virginia lên tiếng. “Tôi đã suy nghĩ về việc đó, thiếu tá, và quyết định không chấp nhận.”
“Vậy thì có thể là một khoản vay vậy…” Fisher nói, cố không tỏ vẻ tuyệt vọng.
“Chẳng lẽ cô bảo mẫu của ông không dạy ông là đừng bao giờ trở thành kẻ đi vay hay cho vay sao? Không, tất nhiên là không rồi, vì ông đâu có bảo mẫu.”
Virginia quay người và gõ mạnh ba cái lên thành giường gỗ.
“À, thiếu tá này, cô hầu gái vừa mang bữa sáng của tôi đến, vậy nên tôi đành phải chào tạm biệt ông. Và khi tôi nói tạm biệt, ý tôi là vĩnh biệt.”
Fisher nghe tiếng cạch khi ống nghe gác xuống. Anh ta nhìn chằm chằm vào tấm séc 7.341 bảng được viết thanh toán cho mình, và nhớ lại những lời Benny đã nói: Bà ấy mắc nợ ngài.
1* Vua xứ Ephyra trong thần thoại Hy Lạp, do lừa dối phản trắc nên khi chết bị thần Zeus trừng phạt bằng cách phải đẩy một tảng đá nặng theo triền dốc lên đỉnh đồi, song cứ gần đến đỉnh tảng đá lại lăn ngược xuống chân đồi, buộc Sisyphus phải làm lại từ đầu mà không bao giờ kết thúc hình phạt được. Thường được dùng làm hình ảnh để nói về những nỗ lực vô ích của con người.