Chương 24
Giles rời khỏi giường lúc năm giờ vào buổi sáng ngày diễn ra cuộc bầu cử, và không chỉ vì anh không ngủ được.
Khi anh đi xuống dưới nhà, Denby mở cửa dẫn sang phòng ăn sáng và nói, “Chúc ngài buổi sáng tốt lành, Sir Giles,” như thể hôm nào cũng có một cuộc tổng tuyển cử vậy.
Giles bước vào phòng ăn, cầm một cái bát từ bàn kê trong góc phòng và lấy đầy bằng bánh ngô và quả. Anh đang soát lại thời gian biểu trong ngày của mình khi cánh cửa mở ra và Sebastian bước vào, mặc chiếc áo đồng phục ngắn tay màu xanh bảnh bao và quần vải flannel xám.
“Seb. Cháu về lúc nào thế?”
“Tối muộn hôm qua ạ. Phần lớn các trường học đều được nghỉ để trưng dụng làm điểm bỏ phiếu, vậy là cháu chợt nghĩ mình có thể quay về nhà và giúp bác.”
“Cháu muốn làm gì nào?” Giles hỏi trong lúc Denby để một đĩa trứng và thịt muối trước mặt anh.
“Bất cứ điều gì cháu có thể để giúp bác thắng cử.”
“Nếu đó là điều cháu muốn làm, hãy lắng nghe kỹ nhé. Vào ngày bầu cử, đảng của bác có tám văn phòng ủy ban rải khắp khu vực bầu cử. Tất cả đều do các tình nguyện viên điều hành, một số người trong số họ đã có kinh nghiệm từ cả tá cuộc bầu cử rồi. Họ sẽ thu nhận, cập nhật kết quả thăm dò cử tri trong khu vực mình phụ trách. Mọi con phố, tuyến đường, đại lộ và ngõ cụt đều sẽ được đánh dấu để cho biết những người ủng hộ chúng ta sống ở đâu. Chúng ta cũng có tình nguyện viên ngồi bên ngoài từng điểm bỏ phiếu, kiểm tra tên những người đã đi bầu. Vấn đề lớn nhất của chúng ta là phải mang các danh sách đó trở lại văn phòng ủy ban để có thể theo dõi được những người ủng hộ vẫn chưa bỏ phiếu, và đảm bảo đưa họ tới điểm bỏ phiếu trước khi chúng đóng cửa vào lúc chín giờ tối nay. Một nguyên tắc chung,” Giles nói tiếp, “là sẽ có nhiều người ủng hộ chúng ta bỏ phiếu trong khoảng từ tám đến mười giờ sáng, ngay sau khi các điểm bỏ phiếu mở cửa, trong khi vào lúc mười giờ, người của phe Bảo thủ sẽ bắt đầu xuất hiện, và tiếp tục tới cho đến lúc bốn giờ chiều. Nhưng sau đó, khi các cử tri quay về sau giờ làm, đó là thời gian quan trọng nhất của chúng ta, vì nếu họ không bỏ phiếu trên đường về nhà, gần như sẽ không thể kéo họ ra khỏi nhà được nữa,” anh nói thêm trong khi Emma và Harry bước vào phòng.
“Griff giao cho hai người làm gì hôm nay vậy?” Giles hỏi. “Em phục vụ tại một văn phòng ủy ban,” Emma nói.
“Tớ sẽ đi gõ cửa các cử tri được đánh dấu đỏ,” Harry nói. “Và nếu họ cần được đưa đi, tớ sẽ lái xe chở họ tới điểm bỏ phiếu.”
“Đừng quên,” Giles nói, “với một vài người trong số họ, lần cuối cùng được ngồi xe hơi nhiều khả năng là vào kỳ bầu cử trước, trừ khi đã có một đám cưới hay đám tang diễn ra trong gia đình họ trong vòng bốn năm qua. Griff phân công em tới văn phòng nào vậy?” Anh hỏi Emma.
“Em sẽ làm trợ lý cho cô Parish ở khu Woodbine.”
“Em phải lấy làm hãnh diện đấy,” Giles nói. “Cô Parish là một huyền thoại. Những người trưởng thành sẽ phải lo ngay ngáy cho tính mạng của họ nếu quên đi bầu. Nhân tiện đây, Seb đã tình nguyện làm một trong các liên lạc viên của em. Anh đã giải thích cho thằng bé biết nhiệm vụ của nó rồi đấy.”
Emma mỉm cười với con trai cô.
“Anh đi đây,” Giles đứng dậy, nhưng cũng chỉ sau khi đã nhét hai miếng thịt muối vào giữa hai lát bánh mì.
Emma thừa nhận chỉ mẹ cô mới có thể bảo được anh ngồi xuống ăn cho tử tế, và có lẽ cả bà cũng không thể như thế vào một ngày bầu cử.
“Anh sẽ ghé qua tất cả các văn phòng vào một thời điểm nào đó trong ngày,” ông anh cô vừa đi vừa nói, “vậy nên anh sẽ gặp lại em sau”.
Denby đang đợi ngài dân biểu ngoài cửa trước.
“Tôi rất xin lỗi phải quấy quả ngài, thưa ngài, nhưng tôi hy vọng sẽ không sao nếu các nhân viên phục vụ tại đây vắng mặt nửa giờ từ bốn giờ đến lúc bốn giờ ba mươi phút chiều nay.”
“Có lý do cụ thể nào không?” “Để bỏ phiếu, thưa ngài.”
Giles trông có vẻ băn khoăn. “Bao nhiêu người đi bỏ phiếu tất cả?” Anh thì thầm.
“Sáu người bầu cho ngài, thưa ngài, và một người chưa quyết định.” Giles nhướng một bên mày lên. “Người làm vườn mới, thưa ngài, có những ý tưởng cao hơn vị trí của anh ta. Tôi nghĩ anh ta ủng hộ đảng Bảo thủ.”
“Vậy thì hãy hy vọng tôi sẽ không thất cử vì kém một phiếu bầu,” Giles nói trong lúc hối hả chạy ra ngoài qua cửa trước.
Jessica đang đứng ngoài lối chạy xe, giữ cửa mở sẵn cho anh, như cô bé vẫn làm mỗi buổi sáng. “Cháu có thể đi cùng bác được không, bác Giles?” Cô bé hỏi.
“Lần này thì không. Nhưng bác xin hứa cháu sẽ ở cạnh bác vào lần bầu cử tới. Bác sẽ nói với tất cả mọi người cháu là bạn gái của bác, và sau đó bác sẽ thắng cử tưng bừng.”
“Chẳng lẽ không có gì cháu có thể làm để giúp bác sao ạ?” “Không... à có đấy. Cháu biết người làm vườn mới không?” “Albert ấy ạ? Có chứ, chú ấy dễ mến lắm.”
“Chú ấy đang định bỏ phiếu cho đảng Bảo thủ. Cháu hãy thử xem có thể thuyết phục chú ấy nghĩ lại vào lúc bốn giờ chiều nay không nhé.”
“Cháu sẽ làm, cháu sẽ làm,” Jessica nói khi Giles leo lên xe.
Giles đậu xe bên ngoài lối vào bến tàu ngay trước lúc bảy giờ. Anh bắt tay tất cả mọi người trước khi họ chấm công cho ca làm việc sáng, và cả những người ra về sau ca đêm. Anh ngạc nhiên khi có nhiều người muốn nói chuyện với mình.
“Lần này tôi sẽ không bỏ rơi anh đâu, anh bạn.” “Anh có thể trông cậy vào tôi.”
“Tôi sẽ tới chỗ bỏ phiếu ngay bây giờ.”
Khi Dave Coleman, người đốc công ca đêm, chấm công hết giờ, Giles kéo anh ta sang bên và hỏi liệu anh ta có biết lý do đằng sau sự nhiệt tình của mọi người không.
“Rất nhiều người nghĩ đã đến lúc anh nên giải quyết cho xong chuyện hôn nhân rắc rối của mình,” Coleman, người được biết đến vì tính bộc trực, nói thẳng, “nhưng bọn họ thực sự ghét cay ghét đắng tay thiếu tá Fisher hãnh tiến kia, chắc chắn họ không muốn anh ta trình bày tình cảnh khốn khó của chúng ta tại Nghị viện. Ở mức độ cá nhân,” anh ta nói thêm, “tôi chắc sẽ tôn trọng Fisher hơn nếu anh ta đủ can đảm để chường mặt ra tại bến tàu. Trong nghiệp đoàn cũng có một nhúm người ủng hộ đảng Bảo thủ, nhưng anh ta thậm chí chẳng thèm bỏ công tìm hiểu xem họ là ai”.
Giles phấn chấn lên khá nhiều với câu trả lời anh nhận được khi tới thăm nhà máy thuốc lá W.D. & H.O. Wills, và một lần nữa khi anh gặp gỡ công nhân tại Công ty Hàng không Bristol. Nhưng anh biết vào ngày diễn ra cuộc tổng tuyển cử, tất cả các ứng cử viên đều cảm thấy được thuyết phục là anh ta sẽ thắng cử, kể cả người của phe Tự do.
Giles xuất hiện tại văn phòng đầu tiên chỉ vài phút sau mười giờ. Người phụ trách cho anh hay 22 phần trăm số người ủng hộ mà họ nắm được đã bỏ phiếu, con số cũng tương tự như cuộc bầu cử năm 1951, khi Giles thắng cử nhờ 414 phiếu.
“Còn phe Bảo thủ thế nào?” Giles hỏi. “Mười sáu phần trăm.”
“So với năm 51 thì sao?”
“Tăng thêm một phần trăm,” người phụ trách thừa nhận.
Khi Giles tới văn phòng thứ tám, lúc ấy đã quá bốn giờ chiều một chút. Cô Parish đang đứng cạnh cửa đợi anh, một tay bưng một đĩa sandwich kẹp pho mát và cà chua, tay còn lại cầm một cốc sữa to. Cô Parish là một trong số vài người hiếm hoi ở khu Woodbine sở hữu một cái tủ lạnh.
“Tình hình thế nào?” Giles hỏi.
“Ơn Chúa trời đã mưa từ lúc mười giờ đến bốn giờ chiều, nhưng giờ mặt trời đã lại ló ra rồi. Tôi bắt đầu tin rất có thể Chúa là người theo khuynh hướng xã hội. Nhưng chúng ta vẫn còn rất nhiều việc phải làm nếu muốn san bằng cách biệt bị dẫn trước trong năm giờ vừa qua.”
“Bà chưa bao giờ tiên đoán sai về một cuộc bầu cử cả, Irish. Lần này bà dự đoán thế nào?”
“Sự thật ư?” “Sự thật.”
“Quá sít sao để có thể dự đoán.”
“Vậy thì trở lại với công việc thôi.” Giles bắt đầu đi quanh phòng, cảm ơn tất cả những tình nguyện viên đã tới giúp đỡ.
“Gia đình ông đã tạo ra hiệu quả rất tích cực,” cô Parish nói, “hãy nhớ họ vốn đều là người theo phe Bảo thủ”.
“Emma có thể làm được bất cứ việc gì.”
“Cô ấy rất cừ,” cô Parish nói, trong lúc Giles quan sát em gái anh nhập các số liệu vừa được đưa từ địa điểm bầu cử về vào tờ thống kê thăm dò. “Nhưng anh bạn Sebastian mới thực sự là siêu sao. Nếu có mười người như cậu bé, chúng ta sẽ không bao giờ thua cuộc.”
Giles mỉm cười. “Vậy chàng trai trẻ lúc này đang ở đâu rồi?” “Hoặc đang trên đường tới điểm bầu cử, hoặc đang từ đó quay về. Cậu bé không thể đứng im một chỗ.”
Sebastian kỳ thực lại đang đứng im một chỗ, chờ đợi một tình nguyện viên kiểm soát cử tri đưa cho bản danh sách mới nhất để cậu có thể mang về cho cô Parish, người liên tục tiếp năng lượng cho cậu bằng sô cô la sữa Tizer và Fry, bất chấp cái nhìn không chút tán đồng thỉnh thoảng lại xuất hiện từ phía mẹ cậu.
“Vấn đề là ở chỗ,” vị tình nguyện viên nói với một ông bạn vừa bỏ phiếu xong, “gia đình Miller ở số nhà hai mốt đằng kia, cả sáu người, thậm chí còn chẳng chịu quá bộ sang đường, mặc dù việc họ không ngừng than phiền về chính phủ Bảo thủ hiện tại. Thế nên nếu chúng ta thua cuộc vì sáu phiếu bầu, chúng ta biết là cần phải trách ai”.
“Sao ông không bảo cô Parish tới gặp họ?” Người bạn hỏi. “Chẳng cần cất công xuống tận đây bà ấy đã bận tối tăm mặt mũi rồi. Tôi rất muốn tự đến gặp họ, nhưng tôi không thể bỏ vị trí của mình.”
Sebastian quay lại và băng qua đường. Cậu bé dừng chân bên ngoài số nhà 21, nhưng phải mất một lúc mới thu được đủ can đảm để gõ cửa. Thiếu chút nữa cậu đã co cẳng chạy khi thấy vóc dáng của người đàn ông ra mở cửa.
“Mày muốn gì, nhóc?” Ông ta gầm lên.
“Tôi đại diện cho thiếu tá Fisher, ứng cử viên Bảo thủ,” Sebastian nói, theo giọng phát âm học sinh trường công khá nhất cậu có thể làm, “và ông thiếu tá hy vọng ông có thể ủng hộ cho ông ấy ngày hôm nay, vì kết quả thăm dò cho thấy cuộc bầu cử nhiều khả năng sẽ rất sít sao”.
“Biến ngay trước khi tao xoắn tai mày lại,” ông Miller nói, rồi đóng sầm cửa lại trước mặt cậu nhóc.
Sebastian lại chạy qua đường, và trong lúc nhận lấy thông tin mới nhất từ tình nguyện viên, cậu thấy cửa số nhà 21 mở ra, ông Miller xuất hiện, dẫn năm thành viên trong gia đình ông ta qua đường. Sebastian thêm gia đình Miller vào danh sách đã bỏ phiếu trước khi quay lại văn phòng.
Giles trở lại khu bến tàu lúc sáu giờ để gặp những người làm ca ngày ra về và những người làm ca đêm đang chấm công vào làm. “Đứng đây cả ngày sao, anh bạn?” Một công nhân hỏi.
“Tôi muốn thế lắm,” Giles nói lúc bắt tay một người nữa.
Một hay hai người quay lại khi thấy anh đứng đó, rồi hối hả đi về phía điểm bầu cử ngay gần bên, trong khi những người đi ra dường như đều theo một hướng, và hướng đó không dẫn tới quán rượu gần nhất.
Đến sáu rưỡi chiều, sau khi tất cả công nhân bến tàu đã về nhà, Giles làm điều anh vẫn làm trong hai cuộc bầu cử trước và nhảy lên chiếc xe buýt hai tầng đầu tiên quay trở về thành phố.
Khi đã ở trên xe, anh leo lên tầng trên và bắt tay vài hành khách đầy ngạc nhiên. Khi đã hoàn thành hết tầng dưới, anh xuống xe ở điểm dừng tiếp theo và lên một chiếc xe buýt khác chạy theo hướng ngược lại. Anh tiếp tục leo lên rồi nhảy xuống những chiếc xe buýt trong hai tiếng rưỡi sau đó, tiếp tục những cái bắt tay cho đến khi đã quá chín giờ một phút.
Giles xuống khỏi chiếc xe buýt cuối cùng và ngồi một mình ở điểm dừng. Chẳng còn gì anh có thể làm để thắng cuộc bầu cử này.
Giles nghe thấy một tiếng chuông duy nhất vẳng tới từ đằng xa và liếc nhìn đồng hồ đeo tay: chín rưỡi tối; thời điểm để di chuyển. Anh không thể nhảy lên thêm một chiếc xe buýt nữa, và bắt đầu chậm rãi đi bộ về phía trung tâm thành phố, hy vọng không khí ban đêm có thể làm đầu óc mình thư thái hơn trước lúc kiểm phiếu.
Đến lúc này cảnh sát địa phương hẳn đã bắt đầu thu các thùng phiếu từ khắp các khu vực bầu cử trước khi chuyển chúng về Tòa Thị chính; quá trình này có thể mất hơn một giờ đồng hồ. Sau khi tất cả các thùng phiếu đã được giao, kiểm tra hai lần, ông Wainwright, chánh văn phòng thành phố, sẽ ra lệnh gỡ các niêm phong ra để bắt đầu quá trình kiểm phiếu. Nếu kết quả được thông báo trước một giờ sáng hôm sau thì sẽ là một phép màu.
Sam Wainwright không phải là người được sinh ra để phá các kỷ lục tốc độ trên cạn hay trên biển. “Chậm nhưng chắc” hẳn sẽ là những từ được khắc trên bia mộ của ông này. Giles đã làm việc với ông chánh văn phòng thành phố về các vấn đề địa phương trong thập niên vừa qua và vẫn không thể biết ông này ủng hộ cho đảng nào. Anh ngờ rằng ông ta không đi bỏ phiếu. Điều Giles biết chắc chắn là kỳ bầu cử này cũng là kỳ cuối cùng của Wainwright, vì ông này sẽ nghỉ hưu vào cuối năm. Theo quan điểm của Giles, thành phố sẽ rất may mắn nếu tìm được một người kế nhiệm xứng đáng. Một người nào đó có thể kế nhiệm Wainwright, song không ai có thể thay thế ông này, như Thomas Jefferson đã nói khi kế nhiệm Benjamin Franklin nhận chức đại sứ Mỹ tại Pháp.
Một vài người qua đường vẫy tay khi Giles đi tới Tòa Thị chính, trong khi những người khác chỉ tảng lờ anh. Anh bắt đầu nghĩ về cuộc đời mình, về điều anh có thể làm nếu không còn là dân biểu đại diện cho khu bến tàu Bristol. Sau vài tuần nữa anh sẽ ba mươi lăm tuổi. Chưa phải là nhiều, nhưng kể từ khi trở về Bristol ngay sau khi chiến tranh kết thúc, anh vẫn chỉ làm một công việc duy nhất, và thẳng thắn mà nói anh không có năng lực cho nhiều công việc khác; vấn đề vĩnh cửu với bất cứ thành viên Nghị viện nào không có một cái ghế vững chãi.
Dòng suy nghĩ của anh quay sang Virginia, người đã có thể giúp cuộc sống của anh dễ dàng hơn rất nhiều chỉ đơn giản bằng cách ký vào một tờ giấy sáu tháng trước. Giờ anh nhận ra đó chưa bao giờ là một phần kế hoạch của cô ta. Cô ta đã luôn có ý đợi tới sau cuộc bầu cử để gây cho anh nhiều phiền toái nhất có thể. Đến giờ anh đã chắc chắn cô ta chịu trách nhiệm trong việc đưa Fisher vào Hội đồng quản trị của Barrington, và thậm chí anh còn tự hỏi liệu có phải chính cô ta đã gieo vào đầu Fisher ý nghĩ là anh ta có thể đánh bại Giles và thay thế anh làm dân biểu tại Nghị viện.
Lúc này cô ta chắc đang ngồi tại nhà ở London để chờ kết quả bầu cử được công bố, cho dù trên thực tế cô ta chỉ quan tâm tới một ghế. Có phải cô ta đang chuẩn bị một cuộc tấn công nữa vào cổ phiếu của công ty như một phần trong kế hoạch dài hạn của cô ta để khiến gia đình Barrington phải quỳ gối? Giles tin rằng cô ta đã gặp đối thủ xứng đáng khi đối đầu với Ross Buchanan và Emma.
Chính Grace là người cuối cùng đã khiến anh thức tỉnh về Virginia, và sau khi làm việc đó, em gái anh không bao giờ nhắc tới chủ đề này nữa. Anh cũng cần cảm ơn Grace vì đã giới thiệu anh với Gwyneth. Cô rất muốn tới Bristol và giúp anh giữ ghế dân biểu của mình, nhưng cô cũng là người đầu tiên thừa nhận rằng nếu cô đi vận động tranh cử cùng anh trên đường phố, người duy nhất hưởng lợi hẳn sẽ là Fisher.
Giles gọi tới Cambridge cho Gwyneth mỗi buổi sáng trước khi đến văn phòng, nhưng khi anh quay về nhà vào buổi tối thì không, mặc dù cô đã bảo anh cứ đánh thức cô, vì anh hiếm khi về tới nhà trước nửa đêm. Nếu tối nay thất cử, anh sẽ lái xe tới Cambridge vào buổi sáng và cởi mở tâm sự cùng cô. Nếu thắng cử, anh sẽ tới gặp cô vào buổi chiều và cùng cô chia sẻ niềm vui thắng cuộc. Dù kết quả ra sao, anh cũng sẽ không để mất cô.
“Chúc may mắn, Sir Giles,” một giọng nói ngang qua đưa anh trở lại thực tại. “Tôi tin chắc ông sẽ thắng cử.” Giles đáp lại bằng nụ cười tự tin của mình, nhưng anh không dám chắc.
Lúc này anh có thể thấy hình dáng đồ sộ của Tòa thị chính hiện lên phía trước mình. Hai con kỳ lân1*mạ vàng vươn cao trên mái ở mỗi đầu tòa nhà mỗi lúc một to dần theo từng bước anh đi.
Những người tình nguyện được chọn để hỗ trợ kiểm phiếu hẳn đã có mặt. Đây được coi là một trách nhiệm lớn lao, và thường được đảm trách bởi các ủy viên hội đồng địa phương và các quan chức cao cấp của đảng. Cô Parish sẽ phụ trách sáu người giám sát kiểm phiếu của Công đảng, như bà đã làm trong bốn cuộc bầu cử trước, và anh biết bà đã mời Harry và Emma gia nhập đội mình.
“Tôi cũng muốn mời cả Sebastian nữa,” bà đã nói với Giles, “nhưng cậu bé chưa đủ tuổi”.
“Nó sẽ thất vọng lắm đấy,” Giles đã trả lời.
“Phải, đúng thế. Nhưng tôi cho cậu bé một giấy ra vào, như thế nó có thể giám sát mọi thứ đang diễn ra từ trên ban công.”
“Cảm ơn bà.”
“Đừng cảm ơn tôi,” cô Parish nói. “Tôi chỉ ước mình có cậu bé trong cả chiến dịch.”
Giles hít một hơi thật sâu khi bước lên các bậc cấp Tòa Thị chính. Cho dù kết quả thế nào, anh cũng không được quên cảm ơn số đông những người đã ủng hộ mình, với họ phần thưởng duy nhất là chiến thắng. Anh nhớ lại những lời của Jack Già sau khi anh ghi một cú một trăm điểm tại Lord’s: bất cứ ai cũng có thể là một người thắng cuộc. Dấu hiệu của một người xuất chúng hơn là cách ta xử trí thất bại.
1*Kỳ lân là một biểu tượng phổ biến ở Britol. Từ thế kỷ 16, hình kỳ lân đã được thêm vào dấu niêm phong chính thức của thành phố. Với công trình Tòa thị chính, thiết kế ban đầu không hề có hai con kỳ lân nhưng kiến trúc sư Vincent E Harris đã tự thêm mà hội đồng thành phố không biết.