← Quay lại trang sách

Chương 29

Sebastian dụi tắt điếu thuốc lá, đứng dậy lấy vali từ giá hành lý trên đầu cậu xuống và rời khỏi toa tàu mà không nói một lời. Chàng trai khổ sở ý thức được dù ông hiệu trưởng không nói gì, đôi mắt ông không lúc nào rời cậu.

Cậu xách vali đi qua mấy toa tàu nữa, tới tận cuối đoàn tàu, và chen mình vào một toa hạng ba chật ních. Nhìn chằm chằm qua cửa sổ, Seb cố nghĩ xem còn cách nào để thoát khỏi khốn cảnh hiện tại hay không.

Có lẽ cậu nên quay trở lại toa hạng nhất và giải thích với ông hiệu trưởng rằng cậu sắp ở chơi vài ngày trên London với bác mình, dân biểu Sir Giles Barrington? Nhưng tại sao cậu lại làm thế, trong khi đã được yêu cầu trở lại Bristol và đưa tận tay lá thư của tiến sĩ Banks-Williams cho bố cậu? Sự thật là bố mẹ cậu đang ở Los Angeles dự buổi lễ trao bằng kinh doanh cho mẹ cậu, và tới tận cuối tuần họ mới trở về Anh.

Vậy tại sao em không cho tôi biết chuyện này ngay từ đầu, chàng trai có thể nghe thấy ông hiệu trưởng hỏi vậy, như thế thầy phụ trách nhà nội trú đã có thể đưa cho em vé tàu phù hợp? Bởi vì chàng thanh niên dự định sẽ quay về Bristol vào đúng ngày cuối cùng của năm học, như thế khi bố mẹ cậu quay về hôm thứ Bảy, họ sẽ chẳng biết gì. Rất có thể Seb đã thành công với ý đồ của mình, nếu cậu không ngồi hút thuốc trong một toa hạng nhất. Nói gì thì nói, chàng trai đã được cảnh báo về những hậu quả sẽ phải đón nhận nếu vi phạm thêm một quy định nữa của trường trước khi năm học kết thúc. Đến khi năm học kết thúc. Cậu đã vi phạm ba quy định của trường chỉ trong vòng một giờ sau khi rời trường. Nhưng vậy đấy, chàng trai đâu có ngờ sẽ còn gặp lại ông hiệu trưởng trong đời mình.

Cậu muốn nói, bây giờ em là một cựu học sinh rồi, và em có thể làm như em muốn, song biết rõ làm vậy không ổn. Và nếu cậu thực sự quyết định quay lại toa hạng nhất, sẽ còn nguy cơ ông hiệu trưởng phát giác ra cậu học sinh chỉ có vé hạng ba; một trò ranh mãnh Sebastian vẫn luôn thử bất cứ khi nào đến trường hay rời trường vào đầu và cuối năm học.

Cậu sẽ chiếm ghế trong góc toa hạng nhất, đảm bảo mình có tầm nhìn rõ ràng ra hành lang. Ngay khi nhân viên soát vé xuất hiện ở đầu đối diện của toa xe, Sebastian sẽ đứng dậy chui vào phòng vệ sinh gần nhất, không khóa cửa mà để nguyên ký hiệu không có người sử dụng. Khi người soát vé chuyển sang toa kế bên, chàng trai lại trở về khoang hạng nhất trong suốt phần còn lại của chuyến đi. Và vì đây là chuyến tàu chạy thẳng, mánh khóe này chưa lần nào thất bại. À phải, đã có một lần nó suýt lộ tẩy, khi một người soát vé cảnh giác đã lộn trở lại và bắt quả tang cậu thanh niên đang ngồi nhầm toa. Cậu lập tức òa khóc và xin lỗi, giải thích rằng bố mẹ cậu vẫn luôn đi tàu hạng nhất, và cậu thậm chí còn không biết có toa hạng ba. Sebastian đã thoát nạn với trò này, nhưng hồi ấy cậu mới chỉ mười một tuổi. Giờ cậu đã mười bảy, và chắc chắn sẽ không chỉ có người soát vé không tin cậu.

Chàng trai nhận thấy không còn cơ may được ân xá nào, và sau khi chấp nhận việc sẽ không thể tới Cambridge vào tháng Chín, Sebastian bắt đầu ngẫm nghĩ xem cậu nên làm gì khi đoàn tàu tới ga Paddington.

Ông hiệu trưởng thậm chí chẳng buồn ngó ngàng đến bài phát biểu của mình trong khi đoàn tàu lao vùn vụt qua vùng đồng quê về phía thủ đô.

Ông có nên đi tìm cậu ta và yêu cầu một lời giải thích không? Ông biết thầy phụ trách nhà nội trú của Clifton đã đưa cho cậu ta một vé hạng ba một chiều đi Bristol, vậy thì cậu ta đang làm gì trong toa hạng nhất của một đoàn tàu lên London? Chẳng lẽ cậu ta lại lên nhầm tàu vì lý do nào đó sao? Không thể nào, anh chàng này luôn biết mình đang đi về hướng nào. Chỉ đơn giản cậu ta không trông đợi sẽ bị bắt gặp. Dù thế nào đi nữa, cậu ta cũng đã hút thuốc, bất chấp việc đã được căn dặn rõ ràng là các quy định của trường sẽ vẫn được áp dụng cho tới tận ngày cuối cùng của học kỳ. Cậu nhóc thậm chí còn chẳng buồn đợi lấy một giờ để bắt đầu thách thức ông. Không hề có tình tiết giảm nhẹ nào. Clifton đã không cho ông có lựa chọn nào khác.

Ông sẽ thông báo tại cuộc họp sáng hôm sau rằng Clifton đã bị đuổi học. Sau đó ông sẽ gọi điện cho người phụ trách gọi sinh viên nhập học tại Peterhouse, tiếp đó là bố cậu thanh niên, giải thích vì sao con trai ông ta sẽ không thể tới Cambridge vào dịp Giáng sinh sắp tới. Nói cho cùng, tiến sĩ Banks-Williams cần phải cân nhắc tới danh tiếng của trường, điều ông đã cần mẫn duy trì và bảo vệ suốt mười lăm năm qua.

Ông lật qua vài trang bài phát biểu của mình trước khi tìm thấy phần có liên quan. Ông đọc qua những từ đã viết về thành tích của Clifton, do dự giây lát, rồi gạch một đường qua chúng.

Sebastian đang cân nhắc xem liệu cậu nên là người đầu tiên hay người cuối cùng xuống tàu khi đoàn tàu vào ga Paddington. Điều đó cũng chẳng quan trọng, miễn là cậu tránh mặt được thầy hiệu trưởng.

Cậu quyết định sẽ là người đầu tiên, và nhấp nhổm trên mép ghế trong suốt hai mươi phút cuối của chuyến đi. Cậu kiểm tra lại các túi quần áo và thấy mình có một bảng, mười hai shilling và sáu penny, nhiều hơn bình thường, nhưng cũng phải thôi vì thầy trưởng nhà nội trú đã trả lại cho cậu tất cả tiền tiêu vặt chưa dùng.

Lúc đầu cậu đã định sẽ trải qua vài ngày tại London trước khi quay về Bristol vào ngày cuối cùng của học kỳ, thời điểm cậu hoàn toàn không có ý định đưa lá thư của thầy hiệu trưởng cho bố mình. Cậu lấy phong bì từ trong túi ra. Lá thư được đề “Gửi ông H.A. Clifton: Riêng tư”. Sebastian đưa mắt nhìn quanh toa để đoan chắc không ai đang nhìn mình trước khi cậu xé mở phong bì. Cậu đọc qua những dòng thầy hiệu trưởng viết thật chậm rãi, rồi đọc lại chúng. Lá thư được viết chừng mực, công bằng, và thật ngạc nhiên là không đả động gì tới Ruby. Giá như cậu bắt chuyến tàu tới Bristol, trở về nhà và đưa lại lá thư cho bố sau khi bố cậu từ Mỹ trở về, mọi thứ rất có thể đã khác. Chết tiệt. Mà thầy hiệu trưởng đang làm gì trên toa hạng nhất của đoàn tàu mới được chứ?

Sebastian cho lá thư vào trong túi áo và cố tập trung vào những gì cậu định sẽ làm ở London, vì chắc chắn cậu không thể trở về Bristol cho tới khi tất cả những chuyện này lắng xuống, và có lẽ sẽ phải mất một thời gian. Nhưng cậu có thể hy vọng sống sót được bao lâu với một bảng, mười hai shilling và sáu penny đây? Cậu sắp sửa khám phá ra.

Cậu thanh niên đã đứng sẵn cạnh cửa toa từ lâu trước khi đoàn tàu vào ga Paddington, và mở cửa thậm chí từ trước khi tàu dừng hẳn. Cậu xuống tàu, lao tới cửa ra nhanh hết mức chiếc vali nặng trịch của cậu cho phép, đưa vé cho người soát vé trước khi biến mất vào đám đông.

Trước đây Sebastian mới tới thăm London một lần, và dịp đó cậu đã đi cùng bố mẹ, lúc ấy có một chiếc xe đợi sẵn để đón họ, đưa họ tới nhà của bác cậu ở Quảng trường Smith. Bác Giles đã đưa cậu tới Tháp London để xem các Báu vật Hoàng gia1*, rồi tới bảo tàng của bà Tussaud để chiêm ngưỡng những bức tượng sáp của Edmund Hillary, Betty Grable và Don Bradman trước khi tới dùng trà với bánh quế tại khách sạn Regent Palace. Ngày kế tiếp, bác đã đưa họ đi tham quan một chuyến tại Hạ viện, và họ được thấy Winston Churchill quắc mắt nhìn từ băng ghế hàng đầu. Sebastian đã rất ngạc nhiên khi thấy ông bé nhỏ đến vậy.

Khi đến lúc phải về nhà, Sebastian đã nói với bác mình là cậu nóng lòng muốn được trở lại London. Và bây giờ khi cậu quay trở lại, không có chiếc xe nào chờ sẵn đón cậu, và người cuối cùng cậu dám liều tới thăm chính là bác mình. Cậu không biết sẽ ngủ qua đêm nay ở đâu nữa.

Trong lúc cậu lách qua đám đông, ai đó va mạnh vào cậu, thiếu chút nữa làm cậu ngã nhào. Sebastian quay lại và thấy một thanh niên đang hối hả chạy đi - anh ta thậm chí còn chẳng thèm xin lỗi.

Sebastian bước ra khỏi nhà ga, đi vào một con phố với những ngôi nhà kiểu thời Victoria có hàng hiên phía trước nằm kề sát nhau, vài ngôi nhà trưng ra trên cửa sổ tấm biển cung cấp bữa sáng và chỗ nghỉ trọ. Cậu chọn một ngôi nhà có cái vòng gõ cửa sáng bóng nhất và những bậu cửa sổ nom ngăn nắp nhất. Một phụ nữ dễ mến mặc áo bằng vải nilon in hoa ra mở cửa, và dành cho vị khách trọ tiềm năng một nụ cười chào đón. Nếu người phụ nữ ngạc nhiên khi thấy một chàng trai trẻ mặc đồng phục học sinh đứng trên bậc cấp nhà mình, bà cũng không để lộ ra.

“Mời vào,” người phụ nữ nói. “Ông đang tìm chỗ nghỉ phải không, thưa ông?”

“Vâng,” Sebastian đáp, ngạc nhiên khi được gọi là “ông”. “Tôi cần một phòng để nghỉ qua đêm, và không rõ bà sẽ tính giá bao nhiêu?”

“Bốn shilling một đêm, kèm bữa sáng, hoặc một bảng cho một tuần.”

“Tôi chỉ cần phòng cho một đêm thôi,” Sebastian nói, lúc này đã ý thức được cậu sẽ phải tìm chỗ tá túc rẻ hơn vào sáng mai nếu định ở lại London một thời gian.

“Tất nhiên rồi,” người phụ nữ nói trong lúc cầm lấy va li của cậu và đi vào hành lang.

Sebastian chưa bao giờ thấy một phụ nữ mang vác va li trước đây, song bà chủ nhà đã lên tới nửa cầu thang trước khi cậu có thể làm gì đó.

“Tôi là bà Tibbet,” người phụ nữ nói, “nhưng các khách quen vẫn gọi tôi là Tibby”. Khi lên tới chiếu nghỉ tầng một, bà nói thêm, “Tôi sẽ để ông ở phòng số bảy. Nó nằm ở phía sau nhà, vì thế ông sẽ ít bị tiếng xe cộ qua lại buổi sáng đánh thức hơn”.

Sebastian không biết người phụ nữ đang nói về cái gì, vì cậu chưa bao giờ bị đánh thức bởi tiếng xe cộ qua lại trong đời mình.

Bà Tibbet mở khóa cửa phòng số bảy và đứng sang bên để vị khách bước vào. Căn phòng còn hẹp hơn phòng học của cậu tại Beechcroft, song cũng giống như vị chủ nhà, nó sạch sẽ và ngăn nắp. Có một chiếc giường đơn, kèm theo chăn ga sạch, và một chậu rửa trong góc phòng.

“Ông sẽ tìm thấy phòng tắm ở cuối hành lang,” bà Tibbet nói trước khi cậu kịp hỏi.

“Tôi đã đổi ý, bà Tibbet,” cậu nói, “tôi sẽ thuê phòng này trong một tuần”.

Bà chủ nhà lấy một chiếc chìa khóa từ trong áo ra, nhưng trước khi đưa nó cho khách, bà nói, “Vậy sẽ là một bảng, đưa trước”.

“Vâng, tất nhiên,” Sebastian nói. Cậu thò tay vào túi quần, phát hiện ra nó rỗng không. Cậu thử lục một túi khác, rồi một túi khác nữa, song chẳng thấy tiền của mình đâu. Cuối cùng, cậu quỳ gối, mở vali ra và bắt đầu cuống cuồng tìm bới trong đống quần áo.

Bà Tibbet chống hai tay lên hông, nụ cười tắt biến. Sebastian vô vọng lục tìm trong đống quần áo của cậu cho tới khi đành bỏ cuộc, ngồi phịch xuống giường và cầu nguyện rằng Tibby sẽ biết cảm thông hơn thầy hiệu trưởng.

Ông hiệu trưởng nhận phòng của mình tại Câu lạc bộ Reform và tắm nhanh trước khi thay sang bộ đồ dạ tiệc. Ông kiểm tra cái nơ bướm trong tấm gương treo trên chậu rửa, rồi xuống nhà tham gia cùng vị chủ nhà.

Nick Judd, chủ tịch Hội Cựu học sinh, đang đợi dưới chân cầu thang, và dẫn vị khách danh dự vào phòng tiếp đón, nơi họ gia nhập cùng các thành viên khác của ủy ban tại quầy bar.

“Ngài muốn dùng gì, thưa ngài hiệu trưởng?” Vị chủ tịch hỏi. “Chỉ chút sherry ngọt thôi.”

Những lời tiếp theo của Judd khiến ông bối rối. “Cho phép tôi được là người đầu tiên chúc mừng ngài,” ông này nói sau khi đã gọi đồ uống, “về việc trường giành được học bổng cao nhất tại Peterhouse. Một thành công xứng đáng để tô điểm cho năm cuối cùng của ngài”.

Ông hiệu trưởng không nói gì, nhưng nhận ra ba dòng ông đã gạch khỏi bài phát biểu sẽ cần phải được đưa trở lại. Tin Clifton bị đuổi học có thể đợi sau. Nói cho cùng, cậu nhóc đã giành được học bổng, và điều đó sẽ không thay đổi cho tới sau khi ông nói chuyện với người phụ trách gọi sinh viên nhập học ở Cambridge vào sáng hôm sau.

Thật không may, ông chủ tịch chẳng phải là người duy nhất nhắc tới thành tích của Clifton. Đến thời điểm đứng lên đọc bài phát biểu thường niên của mình, ông hiệu trưởng không thấy có bất cứ lý do nào để cử tọa đang có mặt biết điều ông dự định làm vào hôm sau. Ông ngạc nhiên khi thấy thông báo về học bổng cao nhất nhận được tràng vỗ tay dài đến thế.

Bài phát biểu được đón nhận rất tích cực, và khi tiến sĩ Banks- Williams ngồi xuống, nhiều cựu học sinh tới chỗ bàn trên để chúc ông nghỉ hưu vui vẻ tới mức ông thiếu chút nữa đã lỡ chuyến tàu cuối cùng trở lại Beechcroft. Vừa ngồi xuống chỗ của mình ở khoang hạng nhất, dòng suy nghĩ của ông lại quay trở lại Sebastian Clifton. Ông bắt đầu viết ra vài từ trong bài phát biểu sẽ dành cho cử tọa vào buổi sáng: “các chuẩn mực”, “khuôn phép”, “danh dự”, “kỷ luật” và “tôn trọng” hiện lên trong đầu, và đến khi đoàn tàu vào ga Beechcroft, ông đã hoàn tất bản nháp đầu tiên.

Khi đưa vé cho người soát vé, ông nhẹ nhõm thấy vợ mình đang ngồi trong xe đợi sẵn, dù giờ giấc đã muộn.

“Cuộc gặp thế nào?” Bà vợ hỏi, trước khi ông hiệu trưởng kịp đóng cửa xe.

“Anh nghĩ bài phát biểu của mình đã được đón nhận rất tích cực, nếu xét tới các hoàn cảnh.”

“Các hoàn cảnh ư?”

Khi hai vợ chồng về tới ngôi nhà của hiệu trưởng, ông đã kể hết cho vợ nghe về cuộc gặp gỡ không may với Clifton xảy ra trên chuyến tàu tới London.

“Anh định sẽ xử lý chuyện này thế nào?” Bà vợ hỏi khi ông mở khóa cửa trước.

“Cậu ta không cho anh lựa chọn. Anh sẽ thông báo vào buổi tập trung sáng mai rằng Clifton đã bị đuổi học, vì thế thật đáng buồn cậu ta sẽ không thể giành được chỗ tại Cambridge vào tháng Chín.”

“Như thế chẳng phải hơi khắc nghiệt quá sao?” Bà Banks- Williams góp ý. “Nói cho cùng, biết đâu cậu ta lại có lý do hợp lý cho việc có mặt trên chuyến tàu tới London.”

“Nếu thế tại sao cậu ta lại rời khỏi toa ngay khi trông thấy anh chứ?”

“Có thể cậu ta không muốn dành cả chuyến đi bên cạnh anh, anh yêu quý. Nói cho cùng, anh có thể khá đáng sợ đấy.”

“Nhưng em đừng quên anh còn bắt gặp cậu ta hút thuốc,” ông chồng đáp, tảng lờ bình phẩm của bà vợ.

“Sao cậu ta lại không thể chứ? Cậu ta đã ra khỏi khuôn viên của trường, và không còn ở vị thế một học sinh nội trú nữa.”

“Anh đã nói rất rõ ràng rằng các quy định của trường vẫn áp dụng với cậu ta cho tới hết học kỳ, nếu không cậu ta sẽ phải đối diện với các hậu quả.”

“Anh có cần mũ trùm không, anh yêu?”

“Không, cảm ơn em. Anh phải cố để có một đêm ngủ ngon. Ngày mai sẽ không dễ dàng đâu.”

“Cho anh, hay cho Clifton?” Bà vợ hỏi trước khi tắt đèn.

Sebastian ngồi ở cuối giường và kể cho bà Tibbet mọi chuyện đã xảy ra ngày hôm ấy. Cậu không bỏ sót điều gì, thậm chí còn cho bà chủ nhà xem lá thư ông hiệu trưởng viết.

“Cậu không nghĩ quay về nhà sẽ khôn ngoan hơn sao? Nói cho cùng, bố mẹ cậu sẽ lo lắng khủng khiếp nếu cậu không có ở nhà lúc họ trở về. Và dù thế nào đi nữa, cậu cũng không thể đoan chắc ông hiệu trưởng sẽ đuổi học cậu.”

“Hãy tin cháu, bà Tibbet, ông hiệu trưởng hẳn đã quyết định rồi, và ông ấy sẽ thông báo điều đó vào buổi tập trung sáng mai.”

“Dù thế cậu vẫn nên về nhà.”

“Cháu không thể, sau khi đã làm bố mẹ thất vọng. Điều bố mẹ cháu luôn mong muốn là cháu vào học tại Cambridge. Họ sẽ không bao giờ tha thứ cho cháu.”

“Tôi không chắc chuyện đó đâu,” bà Tibbet nói. “Bố tôi từng luôn nói rằng, nếu con gặp một rắc rối nào đó, cứ để nó đó mà ngủ đi đã trước khi con đưa ra một quyết định mà rất có thể sau đó sẽ khiến con hối tiếc. Mọi thứ đều có vẻ tươi sáng hơn vào buổi sáng.”

“Nhưng cháu thậm chí còn chẳng có chỗ để ngủ nữa.”

“Đừng ngốc,” bà Tibbet nói, đưa một tay khoác lên vai cậu. “Cậu có thể nghỉ qua đêm ở đây. Nhưng không phải với một cái bụng rỗng, vì thế sau khi đã dỡ vali ra xong, hãy xuống gặp tôi dưới bếp.”

1* 142 đồ vật nghi lễ hoàng gia được lưu giữ trong Tháp London, bao gồm các biểu chương và lễ phục mặc trong lễ đăng quang của các vị vua và hoàng hậu Anh.