← Quay lại trang sách

Chương 30

Tôi gặp rắc rối với bàn ba,” cô hầu bàn nói trong khi lao qua cửa vào bếp.

“Rắc rối gì vậy, Janice?” Bà Tibbet bình tĩnh hỏi trong khi đập hai quả trứng vào một cái chảo rán to.

“Tôi chẳng hiểu họ nói gì cả.” “À phải, ông bà Ferrer. Tôi nghĩ họ là người Pháp. Tất cả những gì cô cần biết là un, deux1* và oeuf2*.” Janice trông hơi nghi ngại. “Chỉ là hãy nói chậm thôi,” bà Tibbet nói, “và đừng có lên giọng. Không phải lỗi của họ khi không nói được tiếng Anh”.

“Bà có muốn cháu nói vài câu với họ không?” Sebastian nói trong lúc đặt dao và nĩa xuống.

“Cậu nói được tiếng Pháp à?” Bà Tibbet hỏi, để chảo lên bếp. “Vâng, cháu nói được.”

“Vậy cứ tự nhiên.”

Sebastian đứng dậy khỏi bàn bếp và đi theo Janice trở lại phòng ăn tối cho khách. Cả chín bàn đều có khách, và Janice bước thẳng tới chỗ một đôi vợ chồng trung niên đang ngồi tại góc phòng xa nhất.

“Bonjour, monsieur,” Sebastian nói. “Comment puis-je vous aider?”

Vị khách sững sờ nhìn Sebastian bối rối. “Somos español.” “Buenas dias, señor. Cómo puedo ayudarle?” Sebastian nói.

Janice đợi trong khi ông bà Ferrer đã nói xong với cậu thanh niên.

“Volveré en uno momento,” Sebastian nói, và quay trở vào bếp. “Vậy mấy người bạn Pháp của chúng ta muốn gì?” Bà Tibbet hỏi trong khi đập thêm hai quả trứng nữa.

“Họ là người Tây Ban Nha, không phải người Pháp,” Sebastian nói, “và họ muốn vài lát bánh mì đen nướng vừa phải, hai quả trứng luộc sôi trong ba phút và hai tách cà phê đen”.

“Còn gì nữa không?”

“Có, đường đi tới Sứ quán Tây Ban Nha.”

“Janice, cô phục vụ cà phê với bánh mì nướng cho họ còn tôi lo món trứng.”

“Và cháu có thể làm gì?” Sebastian hỏi.

“Có một cuốn danh bạ điện thoại trên bàn ngoài sảnh. Hãy tìm Sứ quán Tây Ban Nha, rồi tìm một tấm bản đồ và chỉ cho họ đường tới đó.”

“Nhân thể,” Sebastian nói, để một đồng sáu penny lên bàn, “họ đưa cháu cái này”.

Bà Tibbet mỉm cười. “Khoản tiền boa đầu tiên của cậu đấy.”

“Món tiền đầu tiên cháu kiếm được,” Sebastian nói, đẩy đồng xu qua mặt bàn. “Vậy là giờ cháu chỉ còn nợ bà ba shilling và sáu penny nữa.” Cậu rời khỏi bếp mà không nói thêm lời nào và tới cầm cuốn danh bạ điện thoại trên bàn ngoài sảnh lên. Cậu tìm Sứ quán Tây Ban Nha và, sau khi tìm ra nơi này trên bản đồ, hướng dẫn ông bà Ferrer cách đi tới Chesham Place. Một lát sau, cậu quay lại bếp cầm theo một đồng sáu penny nữa.

“Hãy giữ nó,” bà Tibbet nói, “và tôi sẽ phải để cậu làm người cộng tác làm ăn”.

Sebastian cởi áo vét ra, xắn hai ống tay áo sơ mi lên rồi đi tới chỗ chậu rửa.

“Giờ thì cậu nghĩ mình đang làm gì vậy?”

“Cháu sẽ rửa bát đĩa,” chàng trai trả lời trong khi mở vòi nước nóng ra. “Chẳng phải đó là điều các khách hàng vẫn làm trong phim khi họ không thể thanh toán hóa đơn hay sao?”

“Tôi dám cược đây lại là một thứ đầu tiên nữa của cậu,” bà Tibbet nói, đặt hai miếng thịt muối cạnh hai quả trứng rán. “Bàn một, Janice, ông bà Ramsbottom từ Yorkshire. Tôi cũng không hiểu nổi một từ họ nói. Nào, Sebastian, hãy nói cho tôi biết,” bà nói khi Janice ra khỏi bếp, “cậu có thể nói được thứ tiếng nào nữa không?”.

“Đức, Italia, Pháp và Hebrew.” “Hebrew? Cậu là người Do Thái à?”

“Không, nhưng một bạn học ở trường của cháu là người Do Thái, và cậu ấy dạy cháu thứ tiếng này trong các giờ hóa học.”

Bà Tibbet bật cười. “Tôi nghĩ cậu nên tới Cambridge càng nhanh càng tốt, bởi đơn giản là cậu không thích hợp làm một người rửa bát đĩa.”

“Cháu sẽ không tới Cambridge đâu, bà Tibbet,” Sebastian nhắc nhở bà, “và cháu chẳng thể trách ai ngoài chính mình. Tuy nhiên, cháu có dự định tới thăm Quảng trường Eaton và cố tìm hiểu xem cậu bạn Bruno Martinez của cháu sống ở đâu. Chắc đến chiều thứ Sáu là cậu ấy trở về nhà rồi”.

“Ý tưởng hay đấy,” bà Tibbet nói. “Cậu ta chắc chắn biết liệu cậu đã bị đuổi học hay chỉ... từ còn lại là gì nhỉ?”

“Tạm cho thôi học,” Sebastian nói khi Janice hối hả lao vào bếp mang theo hai cái đĩa trống trơn; lời khen chân thành nhất một người nấu bếp có thể nhận được. Cô này đưa mấy cái đĩa cho Sebastian trước khi cầm lên thêm hai quả trứng rán nữa.

“Bàn năm,” bà Tibbet nhắc nhở cô ta.

“Và bàn chín muốn thêm bánh ngô,” Janice nói.

“Vậy thì hãy lấy một gói mới trong tủ thức ăn ấy, đồ ngốc ngủ mơ.”

Sebastian rửa bát đĩa không ngơi tay cho tới tận sau mười giờ. “Tiếp theo là gì?” Cậu hỏi.

“Janice hút bụi phòng ăn rồi sắp bàn cho bữa sáng ngày mai, còn tôi lau dọn bếp. Trả phòng lúc mười hai giờ, và sau khi khách đã rời đi, chúng ta thay ga, dọn giường và tưới nước cho các chậu cây ở cửa sổ.”

“Vậy bà muốn cháu làm gì?” Sebastian hỏi, gỡ hai ống tay áo sơ mi của cậu xuống.

“Bắt xe buýt tới Quảng trường Eaton và tìm hiểu xem bạn cậu có quay về vào thứ Sáu hay không.” Sebastian mặc áo vét vào. “Nhưng chỉ sau khi cậu đã dọn giường của mình và đoan chắc phòng của cậu đã gọn gàng ngăn nắp.”

Chàng trai bật cười. “Bà bắt đầu nghe giống mẹ cháu rồi đấy.” “Tôi sẽ coi đó là một lời khen. Hãy đảm bảo là cậu trở lại trước một giờ, vì tôi đang đợi vài người Đức, và có thể cậu sẽ có ích.”

Sebastian hướng ra cửa. “Cậu sẽ cần cái này,” bà nói thêm, đưa lại hai đồng sáu penny. “Nghĩa là, trừ khi cậu định đi bộ tới Quảng trường Eaton rồi trở lại.”

“Cảm ơn bà, bà Tibbet.”

“Tibby. Vì giờ cậu đã trở thành một người quen.”

Sebastian cho tiền vào túi và hôn lên cả hai má bà chủ nhà, làm bà Tibbet im lặng lần đầu tiên.

Chàng trai rời khỏi bếp trước khi bà chủ nhà kịp trấn tĩnh, lao vùn vụt lên cầu thang, dọn giường và xếp gọn gàng phòng mình trước khi quay ra sảnh, xem bản đồ tại đó. Cậu ngạc nhiên thấy Quảng trường Eaton được phát âm khác với tên ngôi trường đã từ chối cho bác Giles nhập học vì thái độ không đúng đắn mà không ai trong gia đình từng nhắc tới.

Trước khi chàng trai ra khỏi nhà, Janice bảo cậu bắt xe buýt số 36, xuống xe tại Quảng trường Sloane rồi đi bộ từ đó.

Điều đầu tiên Sebastian nhận thấy khi đóng cửa ra vào căn nhà trọ sau lưng mình là số lượng người đang hối hả đi lại theo mọi hướng với nhịp độ rất khác so với cư dân Bristol. Cậu nhập vào một dãy người đứng xếp hàng tại điểm dừng xe buýt và quan sát vài chiếc xe sơn đỏ hai tầng tới rồi đi trước khi chiếc xe số 36 xuất hiện. Cậu lên xe, leo lên tầng trên và ngồi xuống một ghế ở phía trước vì muốn nhìn rõ mọi thứ diễn ra bên dưới.

“Đi đâu hả thanh niên?” Người bán vé xe buýt hỏi.

“Quảng trường Sloane,” Sebastian nói. “Và ông có thể làm ơn cho tôi biết khi chúng ta tới đó được không?”

“Hai penny.”

Sebastian mê mải ngắm nhìn phong cảnh khi xe di chuyển ngang qua Marble Arch, dọc xuống Park Lane và vòng qua Hyde Park Corner, rồi cậu cố tập trung vào điều mình sẽ làm khi tới nơi.

Tất cả những gì cậu biết là Bruno sống ở Quảng trường Eaton, nhưng cậu không biết số nhà. Cậu chỉ hy vọng đó là một quảng trường nhỏ. “Quảng trường Sloane!” Người bán vé lớn tiếng thông báo khi chiếc xe buýt dừng lại bên ngoài W.H. Smith.

Sebastian nhanh nhẹn bước xuống các bậc lên xuống. Sau khi đã đứng trên vỉa hè, chàng trai nhìn quanh tìm một điểm mốc. Đôi mắt cậu nhắm vào nhà hát Royal Court, nơi Joan Plowright đang biểu diễn vở Những chiếc ghế. Cậu kiểm tra bản đồ, đi quá nhà hát rồi rẽ phải, ước tính rằng Quảng trường Eaton chỉ còn cách đó chừng hai trăm mét.

Tới nơi, chàng trai chậm bước lại với hy vọng trông thấy chiếc Rolls-Royce màu đỏ của Don Pedro, nhưng không thấy bóng dáng chiếc xe đâu. Cậu hiểu ra rằng trừ khi gặp may, cậu sẽ phải mất hàng giờ để tìm ra nơi Bruno sống.

Trong khi đi dọc theo vỉa hè, chàng trai nhận ra chừng một nửa các ngôi nhà đã được chuyển đổi thành các khối căn hộ, với danh sách tên cư dân đề cạnh chuông cửa. Nửa còn lại là những ngôi nhà không cung cấp bất cứ manh mối nào về người sống ở đó, chỉ có một tay nắm gõ cửa bằng đồng thau hay một cái chuông ghi “Dành cho người giao hàng”. Sebastian cảm thấy chắc chắn rằng cha của Bruno không phải loại người chịu chia sẻ cửa trước nhà với ai khác.

Cậu bước lên bậc cấp trên cùng của nhà số 1 và bấm chuông dành cho người giao hàng. Vài giây sau, một quản gia xuất hiện, mặc áo vét đen dài và đeo nơ trắng, khiến chàng trai nhớ tới Marsden ở Barrington Hall.

“Tôi tìm ông Martinez,” Sebastian lịch sự nói.

“Không quý ông nào mang họ này sống tại đây,” người đó nói, rồi đóng cửa lại trước khi Sebastian có cơ hội hỏi liệu ông ta có biết ông Martinez sống ở đâu hay không.

Trong một giờ tiếp theo, Sebastian trải nghiệm mọi cung bậc từ “Ông ấy không sống ở đây” cho tới việc cánh cửa đóng sầm lại trước mặt cậu. Đến gần cuối giờ thứ hai, lúc này chàng trai đã tới phía bên kia của quảng trường, một cô hầu gái hỏi, “Có phải ông ấy là quý ông ngoại quốc đi chiếc Rolls-Royce màu đỏ không?”.

“Phải, đúng ông ấy rồi,” Sebastian nói với cảm giác nhẹ nhõm. “Tôi nghĩ ông ấy sống ở số nhà bốn mươi tư, dưới đây hai số nhà,” cô hầu gái nói, chỉ tay về phía bên phải mình.

“Cảm ơn cô rất nhiều,” Sebastian nói. Cậu hối hả rảo bước tới số nhà 44, bước lên các bậc cấp, hít một hơi thật sâu rồi gõ cửa hai lần bằng tay nắm gõ cửa đồng thau.

Phải mất một lúc cánh cửa mới mở ra, và Sebastian được chào đón bởi một người đàn ông thân hình vạm vỡ, phải cao trên mét tám và giống một võ sĩ quyền Anh hơn là một quản gia.

“Cậu muốn gì?” Người đàn ông hỏi với khẩu âm mà Sebastian không luận ra được.

“Liệu có phải Bruno Martinez sống tại đây hay không?” “Ai muốn biết nhỉ?”

“Tên tôi là Sebastian Clifton.”

Giọng đàn ông đột ngột thay đổi. “Phải, tôi đã nghe ông ấy nhắc về cậu, nhưng ông ấy đang không ở đây.”

“Ông có biết khi nào cậu ấy quay về không?”

“Tôi nghe ông Martinez nói ông ấy sẽ quay về nhà vào chiều thứ Sáu.” Sebastian quyết định không hỏi thêm câu nào nữa và chỉ nói, “Cảm ơn”. Người đàn ông khổng lồ gật đầu cộc lốc, và đóng sầm cửa lại. Hay ông ta chỉ đóng cửa mà thôi?

Sebastian bắt đầu chạy về phía Quảng trường Sloane vì cậu quyết tâm quay về kịp lúc để giúp bà Tibbet tiếp đón mấy người khách Đức. Chàng thanh niên lên chuyến buýt đầu tiên chạy về hướng Paddington. Khi về tới số 37 phố Praed, cậu tham gia cùng bà Tibbet và Janice trong bếp.

“Cậu có gặp may không, Seb?” Bà hỏi trước cả khi cậu kịp ngồi xuống.

“Cháu đã tìm ra được nơi Bruno sống,” Sebastian đắc thắng nói, “và...”.

“Số bốn mươi tư Quảng trường Eaton,” bà Tibbet nói khi để một đĩa xúc xích và khoai tây nghiền trước mặt chàng thanh niên.

“Làm thế nào bà biết được?”

“Có một Martinez trong danh bạ điện thoại, nhưng khi tôi nghĩ tới điều đó thì cậu đã đi rồi. Cậu có tìm hiểu được xem khi nào cậu ta về nhà không?”

“Có, lúc nào đó vào chiều thứ Sáu.”

“Vậy thì tôi còn mắc kẹt với cậu thêm đôi ngày nữa.” Sebastian trông có vẻ bối rối cho tới khi bà nói thêm, “Điều này hóa ra lại khá tốt, bởi mấy người Đức định ở lại tới chiều thứ Sáu, thế nên cậu...”. Một tiếng gõ dứt khoát ngoài cửa cắt ngang lời của bà. “Nếu tôi không nhầm thì đó là ông Kroll và các bạn ông ta. Đi với tôi nào, Seb, và chúng ta hãy tìm hiểu xem cậu có thể hiểu nổi lời nào họ nói hay không.”

Sebastian miễn cưỡng rời khỏi món xúc xích và khoai tây nghiền, rồi đi theo bà Tibbet. Cậu bắt kịp khi bà mở cửa trước ra.

Cậu chỉ tranh thủ chợp mắt được vài khoảnh khắc trong bốn mươi tám giờ sau đó, giữa những lần mang vác hành lý lên xuống cầu thang, vẫy taxi, phục vụ đồ uống và, quan trọng hơn cả, dịch vô vàn câu hỏi, từ “London Palladium3* ở đâu?” tới “Cậu có biết nhà hàng Đức nào ngon không?”, phần lớn số này bà Tibbet có thể trả lời được mà không phải viện đến bản đồ hay sách hướng dẫn. Vào tối thứ Năm, tối cuối cùng họ nghỉ lại, Sebastian đỏ bừng mặt khi được hỏi một câu mà cậu không biết trả lời. Bà Tibbet ra tay cứu nguy cho chàng trai.

“Hãy nói với họ là họ sẽ tìm thấy tất cả những cô nàng họ cần ở Nhà hát Cối xay gió tại Soho.”

Mấy người Đức cúi chào thật thấp.

Khi họ rời đi vào chiều thứ Sáu, Herr Kroll đưa cho Sebastian một bảng và nồng nhiệt bắt tay cậu. Sebastian đưa tiền cho bà Tibbet, song bà từ chối, nói rằng, “Nó là của cậu. Cậu còn hơn cả xứng đáng có nó”.

“Nhưng cháu vẫn chưa trả tiền ăn và tiền chỗ nghỉ. Và nếu cháu không trả, bà nội cháu, người từng là giám đốc khách sạn Grand ở Bristol, sẽ chẳng bao giờ để cháu yên đâu.”

Bà Tibbet ôm lấy cậu trong vòng tay. “Chúc may mắn, Seb,” bà nói. Khi cuối cùng cũng buông cậu ra, bà đứng lui lại và nói thêm, “Hãy cởi quần của cậu ra đi”.

Sebastian trông còn bối rối hơn cả khi Herr Kroll hỏi chuyện ông ta có thể tìm một câu lạc bộ thoát y ở đâu.

“Tôi cần là nó, nếu cậu không muốn mình trông như vừa từ chỗ làm về.”

1* Một, hai (tiếng Pháp).

2* Trứng (tiếng Pháp).

3* Nhà hát có sức chứa hơn hai ngàn chỗ ngồi trong khu vực nổi tiếng của Soho.