Chương 31
“Tôi không dám chắc cậu ấy có nhà hay không,” người đàn ông Sebastian không bao giờ quên được nói.
“Nhưng tôi sẽ kiểm tra thử.”
“Seb!” Một giọng nói vọng xuống hành lang lát cẩm thạch. “Thật quá vui khi thấy cậu, ông bạn. Tớ sợ mình không bao giờ có thể gặp lại cậu nữa, nếu các tin đồn là đúng.”
“Tin đồn nào?”
“Karl, làm ơn hãy yêu cầu Elena mang trà vào phòng khách.” Bruno dẫn Sebastian vào trong nhà. Tại Beechcroft, Sebastian luôn cầm đầu, còn Bruno là phó tướng luôn sẵn sàng theo sau. Giờ đây các vai trò lại đảo ngược khi vị khách đi theo vị chủ nhà xuống một hành lang và vào phòng khách. Sebastian vẫn luôn nghĩ cậu được lớn lên trong một mức độ tiện nghi nhất định, thậm chí là xa xỉ, song những gì chào đón chàng trai khi cậu bước vào phòng khách hẳn có thể khiến những nhân vật hoàng gia cỡ nhỏ phải kinh ngạc. Những bức tranh, đồ nội thất, thậm chí cả những tấm thảm nếu đặt vào một bảo tàng cũng sẽ không hề lạc lõng.
“Tin đồn nào vậy?” Sebastian bồn chồn nhắc lại khi ngồi xuống mép trường kỷ.
“Lát nữa tớ sẽ nói tới việc đó,” Bruno nói. “Nhưng trước hết hãy nói cho tớ biết tại sao cậu lại rời trường đột ngột như vậy? Mới một phút trước cậu còn đang ngồi với Vic và tớ trong phòng tự học, rồi phút tiếp theo cậu đã biến mất.”
“Chẳng lẽ thầy hiệu trưởng không nói gì trong buổi tập trung sáng ngày hôm sau à?”
“Không một từ nào, điều đó chỉ càng làm bí ẩn tăng thêm. Tất nhiên ai cũng đưa ra giả thiết, nhưng vì cả thầy trưởng nhà nội trú lẫn Banks-Williams đều im thin thín như những nấm mồ, chẳng ai biết đâu là sự thật đâu là hư cấu. Tớ đã hỏi bà quản lý, nguồn của mọi hiểu biết, nhưng bà ấy nín thinh mỗi khi tên cậu được nhắc tới. Không hề giống bà ấy. Vic đã sợ điều tệ nhất, nhưng thế đấy, cậu ấy lúc nào chả bi quan. Cậu ấy đoan chắc cậu đã bị đuổi học và bọn tớ sẽ không gặp lại cậu nữa, song tớ đã bảo là tất cả chúng ta sẽ gặp lại nhau ở Cambridge.”
“Tớ sợ là không,” Sebastian nói. “Vic có lý.” Rồi cậu kể cho bạn nghe mọi thứ đã xảy ra từ cuộc nói chuyện với thầy hiệu trưởng hồi đầu tuần, khiến Bruno không còn chút nghi ngờ nào về chuyện cậu đã khổ sở ra sao khi đánh mất chỗ tại Cambridge.
Khi chàng trai kể xong câu chuyện, Bruno nói, “Vậy ra đó là lý do tại sao Hilly-Billy gọi tớ vào phòng làm việc của ông ấy sau buổi tập trung sáng thứ Tư”.
“Cậu đã bị hình phạt nào?”
“Phạt sáu roi, chức lớp trưởng bị thu hồi, thêm vào đó là một lời cảnh cáo rằng chỉ cần thêm bất cứ hành động thiếu chín chắn nào nữa là tớ sẽ bị tạm thôi học.”
“Tớ đã có thể thoát được mà chỉ bị tạm thôi học,” Sebastian nói, “nếu Hilly-Billy không tóm được tớ hút thuốc trên chuyến tàu tới London”.
“Tại sao lại tới London khi cậu có một vé tàu về Bristol?”
“Tớ đã định sẽ lang thang trên này tới thứ Sáu, rồi sau đó về nhà vào ngày cuối cùng của học kỳ. Mẹ và bố tớ mãi ngày mai mới từ Mỹ về, thế nên tớ hình dung là họ sẽ không thể biết được gì. Nếu tớ không chạm mặt Hilly-Billy trên tàu, có lẽ tớ đã xuôi chèo mát mái với dự định đó rồi.”
“Nhưng nếu hôm nay cậu đi tàu về Bristol, bố mẹ cậu vẫn sẽ chẳng biết gì hết.”
“Không đời nào,” Sebastian nói. “Chớ quên những gì Hilly- Billy đã nói. ’Các quy định của trường vẫn sẽ áp dụng với em tới tận ngày cuối cùng của học kỳ,’” chàng thanh niên nhại lại, tay cầm lấy ve áo vét của mình. “’Nếu em vi phạm cho dù chỉ một trong các quy định đó, tôi sẽ không do dự cân nhắc lại quan điểm của mình về vị trí của em tại Cambridge. Hiểu chứ?’ Chưa đầy một giờ sau khi bị đá đít khỏi văn phòng của ông ấy, tớ đã vi phạm ba quy định, ngay trước mũi ông ấy!”
Một cô hầu gái bước vào phòng mang theo chiếc khay bạc lớn nặng trĩu để đầy những món ăn mà cả hai chàng thanh niên chưa từng được nếm thử tại Beechcroft.
Bruno phết bơ lên một chiếc bánh nướng xốp nóng. “Ngay sau khi bọn mình dùng trà xong, sao cậu không quay lại chỗ nhà trọ lấy hành lý nhỉ. Cậu có thể ở lại đây tối nay, và chúng ta sẽ cố nghĩ xem tiếp theo cậu nên làm gì.”
“Nhưng bố cậu sẽ cảm thấy sao về chuyện đó?”
“Trên đường từ trường về đây, tớ đã kể với bố là tớ không thể tới Cambridge vào tháng Chín nếu không nhờ cậu đứng ra chịu phạt. Ông đã nói tớ thật may mắn khi có được một người bạn như thế, và bố tớ sẽ vui nếu có cơ hội đích thân cảm ơn cậu.”
“Nếu Banks-Williams phát hiện cậu trước, Bruno, hẳn cậu cũng sẽ làm tương tự.”
“Vấn đề không phải thế, Seb. Ông ấy phát hiện cậu trước tiên, vì thế tớ thoát nạn chỉ với một trận đòn còn Vic thì tai qua nạn khỏi ngoạn mục, và cũng chỉ vừa kịp lúc, vì Vic cũng đã hy vọng được biết Ruby một cách thân mật hơn.”
“Ruby,” Sebastian nhắc lại. “Cậu có tìm hiểu được chuyện gì xảy đến với cô ấy không?”
“Cô ấy đã biến mất cùng ngày với cậu. Ông bếp trưởng cho hay là bọn mình sẽ không gặp lại cô ấy nữa.”
“Và cậu vẫn nghĩ tớ còn cơ hội để tới Cambridge?” Cả hai chàng trai cùng im lặng.
“Elena,” Bruno nói khi cô hầu gái quay trở lại, mang theo một cái bánh quả to, “bạn tôi sẽ quay lại Paddington để lấy hành lý. Cô có thể bảo lái xe đưa cậu ấy đi, và chuẩn bị một phòng cho khách sẵn sàng khi cậu ấy trở lại không?”.
“Tôi sợ là lái xe vừa đi đón bố cậu ở văn phòng. Tôi không nghĩ họ sẽ quay lại trước giờ ăn tối.”
“Vậy thì cậu sẽ phải đi taxi,” Bruno nói. “Nhưng chỉ sau khi đã nếm thử món bánh quả của ông bếp trưởng.”
“Tớ thậm chí còn chẳng có đủ tiền đi xe buýt chứ đừng nói tới taxi,” Sebastian thì thầm.
“Tớ sẽ đặt cho cậu một chiếc taxi và thanh toán bằng tài khoản của bố tớ,” Bruno nói trong khi cầm dao cắt bánh lên.
“Đó quả là tin tuyệt vời,” bà Tibbet nói sau khi Sebastian thuật lại cho bà hay mọi việc diễn ra chiều đó. “Nhưng tôi vẫn nghĩ cậu nên gọi điện cho bố mẹ cậu và cho họ biết cậu đang ở đâu. Nói cho cùng, cậu vẫn không thể đoan chắc mình đã để mất chỗ tại Cambridge.”
“Ruby đã bị đuổi việc, thầy phụ trách nhà nội trú của cháu từ chối bàn đến chủ đề đó, và thậm chí cả bà quản lý, người chẳng bao giờ thiếu chuyện, cũng không nói nửa lời. Cháu có thể đảm bảo với bà, thưa bà Tibbet, là cháu sẽ không tới Cambridge. Dù thế nào đi nữa, mãi đến mai bố mẹ cháu mới từ Mỹ trở về, vậy nên dù cháu có muốn chăng nữa cũng không thể liên lạc với họ được.”
Bà Tibbet vẫn giữ lời khuyên của mình. “Được, nếu cậu rời đi,” bà nói, “tốt hơn cậu hãy đi dọn dẹp đồ của mình vì tôi có thể dùng căn phòng. Tôi đã phải từ chối ba người khách rồi đấy”.
“Cháu sẽ nhanh hết sức có thể.” Sebastian rời khỏi bếp và chạy ngược lên cầu thang tới phòng mình. Sau khi đã gói ghém hành lý và dọn dẹp phòng ngăn nắp, cậu quay lại và thấy bà Tibbet cùng Janice đang đứng ngoài sảnh đợi.
“Thật là một tuần đáng nhớ, rất đáng nhớ,” bà Tibbet nói trong khi mở cửa trước, “và là một tuần mà Janice cũng như tôi khó lòng quên được”.
“Khi cháu viết hồi ký của mình, Tibby, bà sẽ có hẳn một chương,” Sebastian nói khi họ cùng nhau bước ra ngoài vỉa hè.
“Đến lúc đó thì cậu đã quên cả hai chúng tôi từ lâu rồi,” bà chủ nhà buồn bã nói.
“Không đời nào. Nơi này sẽ trở thành ngôi nhà thứ hai của cháu, rồi bà sẽ thấy.” Sebastian hôn lên má Janice, trước khi dành cho Tibby một cái ôm thật lâu. “Bà sẽ không rũ bỏ được cháu dễ dàng thế đâu,” chàng trai nói thêm khi cậu chui vào trong chiếc taxi đang đợi.
Bà Tibbet và Janice vẫy tay lúc chiếc xe bắt đầu chuyến hành trình trở lại Quảng trường Eaton. Tibby đã muốn nói với cậu thanh niên thêm lần nữa, vì Chúa hãy gọi điện cho mẹ cậu ngay khi bà ấy từ Mỹ trở về, song bà biết như thế chỉ vô ích.
“Janice, hãy đi thay ga trong phòng số bảy,” bà nói khi chiếc taxi rẽ phải ở cuối phố và khuất khỏi tầm nhìn. Bà Tibbet hối hả quay vào trong nhà. Nếu Seb không liên lạc với mẹ cậu, bà sẽ làm.
Tối đó, bố Bruno đưa hai chàng trai tới nhà hàng Ritz ăn tối; thêm nhiều sâm panh, và lần đầu tiên Sebastian được thưởng thức món hàu. Don Pedro, như ông ta nhất quyết đề nghị Sebastian gọi mình, cảm ơn cậu hết lần này tới lần khác vì đã gánh lấy hình phạt và giúp Bruno vẫn có thể tới Cambridge. “Thật Anh,” ông ta không ngớt nhắc đi nhắc lại.
Bruno ngồi im lặng ăn nhỏ nhẻ, hiếm khi tham gia cuộc trò chuyện. Tất cả sự tự tin lúc chiều của cậu ta dường như đã tan biến trước sự hiện diện của ông bố. Nhưng ngạc nhiên lớn nhất của buổi tối là khi Don Pedro cho hay Bruno có hai người anh trai, Diego và Luis, một điều cậu ta chưa bao giờ nhắc đến trước đây, và hai người này chắc chắn chưa bao giờ tới thăm em trai tại Beechcroft Abbey. Sebastian muốn hỏi tại sao, nhưng vì bạn cậu tiếp tục cúi gằm mặt, chàng trai quyết định sẽ đợi cho tới khi chỉ có hai người với nhau.
“Chúng làm việc với tôi trong hoạt động kinh doanh của gia đình,” Don Pedro nói.
“Và hoạt động kinh doanh của gia đình ngài là gì ạ?” Sebastian vô tư hỏi.
“Nhập khẩu và xuất khẩu,” Don Pedro nói mà không đi vào chi tiết.
Don Pedro mời vị khách trẻ tuổi điếu xì gà Cuba đầu tiên của cậu, rồi hỏi chàng trai dự định làm gì khi giờ đây cậu sẽ không tới Cambridge nữa. Sebastian mỉm cười giữa những lần ho, “Cháu nghĩ cháu sẽ phải tìm một việc làm”.
“Cậu có muốn kiếm một trăm bảng tiền mặt không? Có một việc cậu có thể làm cho tôi tại Buenos Aires, và cậu sẽ trở lại Anh vào cuối tháng.”
“Cảm ơn ngài, thưa ngài, như thế thật hào phóng. Nhưng cháu phải làm gì để được trả một khoản tiền lớn như vậy?”
“Tới Buenos Aires cùng tôi vào thứ Hai tới, ở lại vài ngày làm khách của tôi, sau đó mang một kiện hàng trở lại Southampton trên tàu Queen Mary.”
“Nhưng sao lại là cháu? Hiển nhiên một trong các nhân viên của ngài có thể thực hiện nhiệm vụ đơn giản như thế chứ?”
“Bởi kiện hàng đựng một vật gia truyền của gia đình,” Don Pedro nói, không có chút lúng túng nào, “và tôi cần một người nói được cả tiếng Tây Ban Nha lẫn tiếng Anh, đồng thời có thể tin tưởng. Cách xử sự của cậu khi Bruno gặp rắc rối thuyết phục tôi rằng cậu là người thích hợp...” ông ta nhìn Bruno rồi nói thêm, “và có lẽ đây là cách để tôi cảm ơn cậu”.
“Ngài thật tử tế, thưa ngài,” Sebastian nói, không dám tin vào vận may của mình.
“Để tôi ứng trước cho cậu mười bảng,” Don Pedro nói, lấy chiếc ví từ trong túi quần ra. “Cậu sẽ nhận được chín mươi bảng còn lại vào ngày cậu lên tàu quay về Anh.” Ông ta lấy từ trong ví ra hai tờ năm bảng và đẩy chúng qua bàn. Chừng đó còn nhiều hơn số tiền Sebastian từng nhận được trong đời cậu. “Sao cậu và Bruno không tận hưởng dịp cuối tuần này nhỉ? Nói cho cùng, cả hai xứng đáng được thế.”
Bruno không nói gì.
Ngay khi vị khách cuối cùng đã được phục vụ, bà Tibbet ra lệnh cho Janice dọn phòng ăn và bày biện chuẩn bị cho bữa sáng hôm sau, nhưng chỉ sau khi cô này đã rửa xong bát đĩa, cứ như thể cô gái chưa bao giờ nhận được lệnh trước đó. Rồi bà Tibbet lên lầu mất dạng. Janice đoán bà tới phòng làm việc của mình để lên danh sách đi chợ cho buổi sáng, nhưng thay vì thế bà chỉ ngồi tại bàn làm việc và nhìn chằm chằm vào cái điện thoại. Bà rót cho mình một ly whisky, một điều bà hiếm khi làm trước khi vị khách trọ cuối cùng đã lên giường đi ngủ, nhấp một ngụm rồi nhấc ống nghe lên.
“Yêu cầu nối máy,” bà nói, và đợi một giọng nói khác vang lên trên đường dây.
“Tên là gì?” Giọng nói hỏi. “Ông Harry Clifton,” bà đáp. “Ở thành phố nào?”
“Bristol.”
“Và địa chỉ?”
“Tôi không có, nhưng ông ấy là một tác giả nổi tiếng,” bà Tibbet nói, cố làm ra vẻ như biết người gọi. Bà đợi một lúc và bắt đầu tự hỏi liệu có phải mình đã bị ngắt khỏi đường dây cho tới khi giọng nói vang lên, “Số máy của thuê bao đó không nằm trong danh bạ, vì vậy tôi e là không thể nối máy cho bà được”.
“Nhưng đây là chuyện khẩn.”
“Tôi xin lỗi, thưa bà, nhưng tôi không thể nối máy cho bà, dù bà có là Nữ hoàng Anh đi nữa.”
Bà Tibbet đặt ống nghe xuống. Bà ngồi một lát ngẫm nghĩ xem liệu có cách nào khác để liên lạc với bà Clifton hay không. Thế rồi bà nghĩ tới Janice và quay xuống bếp.
“Cô mua mấy cuốn sách bìa mềm mà cô vẫn luôn chúi mũi vào đọc đó ở đâu vậy?” Bà hỏi Janice.
“Ở nhà ga, trên đường tôi đi làm,” Janice trả lời trong khi tiếp tục rửa bát đĩa. Bà Tibbet lau bếp AGA1* và suy nghĩ về câu trả lời của Janice. Sau khi đã hoàn tất việc lau chùi một cách hài lòng, bà tháo tạp dề, gấp lại gọn gàng, cầm giỏ đi chợ của mình lên và nói, “Tôi đi mua đồ đây”.
Sau khi rời nhà trọ, bà không rẽ phải như thường lệ, khi bà đi tới hàng thịt để tìm mua những lát thịt muối Đan Mạch ngon nhất, tới hàng rau quả để mua các loại quả tươi nhất, và tới hàng bánh mì để mua những ổ bánh còn nóng nhất vừa được đưa ra khỏi lò, và ngay cả lúc đó bà cũng sẽ chỉ mua nếu giá cả hợp lý. Nhưng không phải hôm nay. Hôm nay bà rẽ trái và đi bộ về phía nhà ga Paddington.
Bà giữ chắc ví của mình, vì bà vẫn nghe các vị khách vỡ mộng cho hay họ đã bị móc túi chẳng bao lâu sau khi đặt chân tới London - Sebastian chính là ví dụ mới nhất. Cậu nhóc thật chín chắn so với tuổi của mình, nhưng dẫu vậy vẫn thật ngây thơ.
Bà Tibbet cảm thấy hồi hộp khác thường khi sang đường hòa vào đám đông những người đi tàu hàng ngày đang vào nhà ga. Có lẽ là vì bà chưa bao giờ vào một nhà sách trước đây. Bà không có mấy thời gian để đọc kể từ khi chồng và đứa con trai bé bỏng của bà bị giết mười lăm năm về trước trong một cuộc ném bom xuống khu East End. Nếu đứa con ấy còn sống, thằng bé chắc cũng trạc tuổi Sebastian.
Không có lấy một mái nhà để trú thân, Tibby đã đi về phía tây, như một con chim tìm nơi kiếm ăn mới. Bà làm tạp vụ tại nhà trọ Safe Haven. Ba năm sau bà trở thành nhân viên phục vụ bàn, rồi khi người chủ nhà trọ qua đời, bà đã đảm nhận nó thì đúng hơn là thừa kế, bởi ngân hàng lúc ấy đang tìm một người, bất cứ ai, để trả khoản thế chấp.
Thiếu chút nữa bà đã phá sản, nhưng vào năm 1951, Festival nước Anh đã cứu bà. Sự kiện đó thu hút thêm một triệu vị khách tới thăm London, giúp nhà trọ lần đầu tiên có lãi. Món lãi đó tăng dần mỗi năm, dù chỉ ở mức khiêm tốn, và lúc này khoản thế chấp đã được trả hết, công việc kinh doanh đã thuộc về bà. Bà trông cậy vào những khách quen để giúp mình qua được mùa đông, vì bà sớm học được rằng những ai chỉ trông mong vào khách vãng lai sẽ sớm phải đóng cửa.
Bà Tibbet rũ bỏ giấc mơ giữa ban ngày của mình và nhìn quanh nhà ga cho tới khi đôi mắt bà dừng lại ở một biển hiệu W.H. Smith. Bà quan sát những người khách đi tàu thường xuyên hối hả ra vào. Phần lớn họ chỉ mua một tờ báo buổi sáng giá nửa penny, nhưng có những người đi vào tận sâu phía trong cửa hàng để tìm kiếm giữa các kệ bày sách.
Bà đánh bạo bước vào nhưng rồi lại đứng ngẩn ra giữa cửa hàng, chắn đường các khách khác. Khi để ý thấy một phụ nữ ở phía sau đang xếp sách từ cái xe đẩy bằng gỗ lên các kệ, bà liền tới chỗ người này, nhưng không làm gián đoạn công việc của cô.
Cô nhân viên ngước nhìn lên. “Thưa bà, tôi có thể giúp gì cho bà?” Cô này lịch sự hỏi.
“Cô từng nghe nói đến một tác giả tên là Harry Clifton chưa?” “Ồ, có chứ,” cô nhân viên trả lời. “Ông ấy là một trong những tác giả được ưa thích nhất của chúng tôi. Bà có tìm một tên sách cụ thể nào không?” Bà Tibbet lắc đầu. “Vậy chúng ta hãy tới xem chúng tôi có gì trong cửa hàng nào.” Cô nhân viên bước tới phía đối diện cửa hàng, bà Tibbet theo sát đằng sau, rồi dừng bước khi tới khu bày sách có tấm biển TỘI PHẠM. Bộ Những bí ẩn của William Warwick được xếp thành một hàng ngay ngắn, với nhiều chỗ trống cho thấy tác giả này được ưa thích tới mức nào. “Và tất nhiên,” cô nhân viên nói tiếp, “còn có tập Nhật ký một tù nhân, và quyển hồi ký của Lord Preston mang tên Nguyên tắc Thừa kế, thuật lại vụ tranh tụng giành quyền thừa kế Clifton - Barrington đầy kịch tính. Chắc bà vẫn còn nhớ vụ kiện đó chứ? Nó đã chiếm chỗ các hàng tít báo suốt hàng tuần liền.”
“Cô khuyên tôi nên chọn quyển nào trong số các tiểu thuyết của ông Clifton?”
“Mỗi khi nhận được câu hỏi này về bất cứ tác giả nào,” cô nhân viên trả lời, “tôi luôn đề xuất, hãy bắt đầu bằng tập đầu tiên”. Cô này lấy từ trên giá ra một quyển William Warwick và vụ án nhân chứng mù.
“Liệu quyển sách kia, quyển về thừa kế ấy, có cho tôi biết nhiều hơn về gia đình Clifton không?”
“Có, và bà sẽ thấy nó cũng hấp dẫn như bất cứ quyển tiểu thuyết nào,” cô nhân viên nói trong khi đi tới khu bày sách hồi ký. “Hai quyển này tất cả là ba shilling, thưa bà,” cô đưa cho bà cả hai quyển sách.
Khi bà Tibbet quay lại nhà trọ trước giờ bữa trưa, Janice ngạc nhiên thấy giỏ đi chợ của bà vẫn trống không, và còn ngạc nhiên hơn khi bà vào phòng làm việc và khóa trái cửa lại, chỉ ra ngoài khi có tiếng gõ vang lên ngoài cửa trước thông báo sự có mặt của một khách hàng triển vọng.
Bà mất hai ngày và hai đêm để đọc Nguyên tắc Thừa kế của Reg Preston, đến lúc đó bà Tibbet hiểu ra mình sẽ phải tới thăm một nơi nữa chưa từng đặt chân đến, và nơi này khiến bà căng thẳng thần kinh hơn nhiều so với một hiệu sách.
Sebastian xuống nhà sớm vào sáng thứ Hai để ăn sáng, vì cậu muốn nói vài lời với bố Bruno trước khi ông này rời nhà đi làm. “Chúc buổi sáng tốt lành, thưa ngài,” cậu nói khi ngồi vào bàn. “Chúc buổi sáng tốt lành, Sebastian,” Don Pedro nói, đặt tờ báo của ông ta xuống. “Vậy cậu đã quyết định việc có tới Buenos Aires cùng tôi hay chưa?”
“Vâng, cháu đã quyết định rồi, thưa ngài. Cháu rất thích đi, nếu quyết định của cháu vẫn chưa quá trễ.”
“Đó sẽ không phải là vấn đề,” Don Pedro nói. “Chỉ cần đảm bảo cậu đã sẵn sàng khi tôi quay trở về.”
“Chúng ta sẽ lên đường khi nào vậy, thưa ngài?” “Khoảng năm giờ.”
“Cháu sẽ sẵn sàng và đợi ngài,” Sebastian nói đúng lúc Bruno bước vào phòng.
“Con hẳn sẽ rất vui được biết Sebastian sẽ đi Buenos Aires cùng với bố,” Don Pedro nói lúc cậu con trai ngồi xuống. “Cậu ấy sẽ quay lại London vào cuối tháng. Hãy đảm bảo là con chăm sóc chu đáo cho bạn khi cậu ấy trở về.”
Bruno sắp sửa lên tiếng bình luận khi Elena bước vào và để một giá bánh mì nướng lên giữa bàn.
“Cậu thích dùng gì cho bữa sáng, thưa cậu?” Cô này hỏi Bruno. “Cho tôi hai quả trứng luộc.”
“Tôi cũng thế,” Sebastian.
“Bố phải đi đây,” Don Pedro nói khi đứng dậy khỏi chỗ ngồi ở đầu bàn. “Bố có một cuộc hẹn ở phố Bond.” Ông ta quay sang Sebastian và nói thêm, “Hãy đảm bảo cậu đã đóng gói hành lý xong xuôi và sẵn sàng lên đường lúc năm giờ. Chúng ta không thể lỡ thủy triều”.
“Cháu nóng lòng lên đường lắm rồi, thưa ngài,” Sebastian nói, nghe có vẻ thực sự hào hứng.
“Chúc bố một ngày tốt lành,” Bruno nói khi bố cậu ta rời khỏi phòng. Cậu ta không nói gì cho tới khi nghe thấy tiếng cửa trước đóng lại, rồi nhìn qua bên kia bàn và nói với bạn mình, “Cậu có chắc là đã đưa ra quyết định đúng không vậy?”.
Bà Tibbet không ngừng run rẩy. Bà không tin mình có thể làm được chuyện đó. Khi khách khứa ngồi bên bàn ăn sáng vào buổi sáng hôm ấy, họ được phục vụ trứng luộc kỹ đến cứng đơ, bánh mì nướng cháy xém và trà nguội ngắt, và cuối cùng Janice là người phải chịu những lời trách móc. Nhưng cũng phải thừa nhận bà Tibbet đã chẳng chợ búa gì trong hai ngày vừa qua, bởi thế bánh mì đã ỉu, quả thì chín quá, còn thịt muối thì hết sạch. Janice được giải thoát khi vị khách cằn nhằn cuối cùng rời khỏi phòng ăn sáng. Thậm chí một người còn từ chối thanh toán tiền.
Cô ta đi xuống bếp để xem liệu có phải bà Tibbet thấy không khỏe, song chẳng thấy bóng dáng bà đâu. Janice tự hỏi liệu bà có thể đi đâu.
Lúc này, bà Tibbet đang ở trên chiếc xe buýt số 148 hướng tới Whitehall. Bà vẫn không biết liệu mình có thể thực hiện chuyện đó hay không. Cho dù anh ta đồng ý gặp bà, bà sẽ nói gì với anh ta đây? Nói cho cùng, đó đâu phải việc của bà? Bà bận rộn nghĩ ngợi tới mức chiếc xe buýt đã chạy qua cầu Westminster trước khi bà kịp xuống. Bà dành thời gian đi bộ trở lại băng qua sông Thames, và không phải vì bà đang chiêm ngưỡng phong cảnh hai bên sông như các du khách.
Bà đổi ý vài lần trước khi tới Quảng trường Nghị viện, tại đây nhịp bước của bà chậm dần, chậm dần tới khi cuối cùng dừng hẳn lại bên ngoài lối vào Hạ viện, nơi bà đứng sững lại như biến thành tượng muối giống người vợ của Lot.
Người phụ trách bảo vệ cửa vào, quá quen thuộc trong việc xử sự với những người bị choáng ngợp bởi lần đầu tới thăm Điện Westminster, mỉm cười với bức tượng cứng đờ và hỏi, “Thưa bà, tôi có thể giúp gì?”.
“Có phải đến đây thì tôi sẽ gặp một dân biểu đúng không?”
“Bà có hẹn trước không?”
“Không, tôi không có,” bà Tibbet nói, hy vọng mình sẽ bị mời ra về.
“Đừng lo, chẳng mấy người hẹn trước đâu. Bà chỉ cần hy vọng ông ấy hiện có mặt ở Viện, và rảnh để gặp bà. Nếu bà vui lòng ra xếp hàng, một trong các đồng nghiệp của tôi sẽ giúp bà.”
Bà Tibbet bước lên các bậc cấp, đi qua Sảnh Westminster, rồi gia nhập một hàng dài những người im lặng. Đến khi lên tới đầu hàng một giờ sau đó, bà chợt nhớ ra đã không nói cho Janice biết mình đi đâu.
Bà được tháp tùng tới hành lang trung tâm, nơi một nhân viên đưa bà tới bàn tiếp đón.
“Chúc bà buổi chiều tốt lành,” nhân viên trực nói. “Bà muốn gặp vị dân biểu nào vậy?”
“Sir Giles Barrington.”
“Bà có phải là một cử tri của ông ấy không?”
Thêm một cơ hội rút lui nữa là ý nghĩ đầu tiên của bà. “Không. Tôi cần nói chuyện với ông ấy về một vấn đề cá nhân.”
“Tôi hiểu,” nhân viên tiếp đón nói, như thể chẳng điều gì có thể khiến anh ta ngạc nhiên. “Nếu bà vui lòng cho biết tên, tôi sẽ điền vào một thẻ khách thăm.”
“Bà Florence Tibbet.”
“Và địa chỉ của bà?”
“Số 37 phố Praed, Paddington.”
“Và bà muốn trao đổi với Sir Giles về chuyện gì?” “Chuyện về cháu ông ấy, Sebastian Clifton.”
Nhân viên điền xong tấm thẻ và đưa cho một người đưa tin có đeo thẻ công vụ.
“Tôi sẽ phải đợi bao lâu?” Bà hỏi.
“Các dân biểu thường trả lời khá nhanh nếu họ có mặt tại Viện. Nhưng có lẽ bà sẽ muốn ngồi đợi,” anh này nói, chỉ về phía những băng ghế màu xanh lá cây kê vòng quanh sát các bức tường hành lang trung tâm.
Người đưa tin đeo thẻ công vụ đi dọc theo hành lang dài về phía Hạ viện. Khi bước vào phòng chờ dành cho các dân biểu, anh ta đưa tấm thẻ cho một đồng nghiệp của mình, người này lại cầm nó vào trong phòng họp của Viện. Viện đang đông nghịt các dân biểu tới để nghe Peter Thorneycroft, Bộ trưởng Tài chính, thông báo việc phân phối xăng dầu theo hạn mức sẽ được gỡ bỏ sau khi kết thúc cuộc khủng hoảng kênh đào Suez.
Người đưa tin nhìn thấy Sir Giles Barrington ngồi ở chỗ quen thuộc của anh và đưa tấm thẻ cho một dân biểu ở cuối hàng ghế thứ ba, từ đây nó bắt đầu cuộc hành trình chậm chạp, từng dân biểu xem tên trên tấm thẻ rồi sau đó chuyển tới đầu kia của hàng ghế, cho tới khi cuối cùng nó đến tay Sir Giles.
Vị dân biểu đại diện cho khu bến tàu Bristol nhét tấm thẻ vào túi áo khi đứng dậy, đúng vào khoảnh khắc bộ trưởng ngoại giao đã trả lời xong câu hỏi trước, với hy vọng thu hút được sự chú ý của chủ tọa.
“Sir Giles Barrington,” vị chủ tọa mời.
“Liệu ngài bộ trưởng ngoại giao có thể cho Viện biết thông báo của tổng thống Mỹ sẽ tác động thế nào tới nền công nghiệp Anh, nhất là những công dân của chúng ta làm việc trong lĩnh vực quốc phòng?”
Ông Selwyn Lloyd một lần nữa đứng dậy, hai bàn tay bám chắc lấy hộp phát ngôn, và nói, “Tôi có thể nói với quý ông đáng kính và lịch lãm đây rằng tôi liên tục giữ liên lạc với đại sứ của chúng ta tại Washington, và ông ấy cam đoan với tôi...”.
Đến lúc ông Lloyd trả lời xong câu hỏi cuối cùng sau đó bốn mươi phút, Giles đã gần như quên khuấy tấm thẻ của vị khách tới gặp anh.
Phải một giờ sau, khi đang ngồi trong phòng uống trà với một số đồng nghiệp, Giles mới lấy ví của mình ra và tấm thẻ rơi xuống sàn. Anh nhặt nó lên và xem qua cái tên, nhưng không nhớ nổi bà Tibbet nào. Anh lật mặt kia tấm thẻ đọc lời nhắn, đứng phắt dậy khỏi ghế của mình, lao như tên bắn ra khỏi phòng uống trà và chạy một mạch tới hành lang trung tâm, vừa chạy vừa cầu nguyện rằng bà ta chưa bỏ về. Khi anh dừng lại trước bàn của nhân viên tiếp đón, anh bảo anh ta tìm bà Tibbet.
“Tôi xin lỗi, thưa Sir Giles, nhưng bà ấy đã ra về được một lúc rồi. Bà ấy nói phải quay về làm việc.”
“Chết tiệt,” Giles bật ra khi lật lại tấm thẻ và xem địa chỉ.
1*Bếp AGA là bếp và giữ nhiệt.