← Quay lại trang sách

Chương 32

“Phố Praed, Paddington,” Giles nói khi chui vào một chiếc taxi đậu bên ngoài lối vào dành cho các dân biểu.

“Và tôi đã muộn rồi,” anh thêm, “nên lẹ lên”.

“Ngài không muốn tôi chạy quá giới hạn tốc độ đấy chứ, thưa ngài,” anh chàng lái xe nói lúc phóng xe qua cổng chính rồi chạy vào Quảng trường Nghị viện.

Phải, tôi muốn, Giles những muốn nói thế, song kìm lại được. Sau khi biết bà Tibbet đã rời khỏi Hạ viện, anh gọi cho ông em rể để nói cho bạn mình biết về thông điệp đánh đố của vị khách lạ. Phản ứng đầu tiên của Harry là muốn nhảy lên chuyến tàu kế tiếp lên London, song Giles đã khuyên bạn không làm vậy đề phòng đó là một báo động giả. Dù thế nào đi nữa, anh nói với bạn, hoàn toàn có khả năng Sebastian đang trên đường trở về Bristol.

Giles nhấp nhổm trên rìa ghế, chỉ muốn tất cả đèn tín hiệu giao thông chuyển xanh, và hối thúc anh chàng lái xe chuyển làn bất cứ khi nào anh thấy một cơ hội để nhích lên thêm vài mét. Anh không thể ngừng nghĩ về những gì Harry và Emma đã trải qua trong hai ngày vừa qua. Hai người đã nói cho Jessica biết chưa? Nếu thế, cô bé chắc đang ngồi trên bậc thềm cao nhất ở Manor House bồn chồn đợi Sebastian quay về.

Khi chiếc taxi dừng bánh bên ngoài số nhà 37, anh chàng lái xe không đừng được tự hỏi tại sao một ngài nghị sĩ lại có thể tới thăm một nhà nghỉ ở Paddington. Nhưng đây chẳng phải chuyện của anh ta, nhất là khi quý ông này thưởng cho anh ta một khoản hậu đến thế.

Giles chui ra khỏi chiếc taxi, chạy tới cửa và đập thình thình vài lần với tay nắm gõ cửa. Vài giây sau, một phụ nữ trẻ ra mở cửa và nói, “Thưa ngài, tôi xin lỗi nhưng phòng cuối cùng đã có người thuê rồi”.

“Tôi không tìm phòng,” Giles nói với cô gái. “Tôi hy vọng gặp được...” anh nhìn lần nữa vào tấm thẻ khách thăm, “... bà Tibbet”.

“Và tôi sẽ phải nói là ai muốn gặp bà ấy đây?” “Sir Giles Barrington.”

“Thưa ngài, nếu ngài vui lòng đợi ở đây, tôi sẽ báo cho bà ấy biết,” người phụ nữ nói trước khi đóng cửa.

Giles đứng ngoài vỉa hè, tự hỏi liệu có phải trong suốt thời gian vừa rồi Sebastian chỉ ở cách ga Paddington có trăm mét. Anh chỉ phải đợi vài phút trước khi cửa lại mở ra.

“Sir Giles, tôi rất xin lỗi,” bà Tibbet nói, nghe đầy bối rối. “Janice không biết ngài là ai. Mời ngài vào phòng khách.”

Sau khi Giles đã ngồi xuống một cái ghế tựa lưng cao êm ái, bà Tibbet mời anh một tách trà.

“Không, cảm ơn bà,” anh nói. “Tôi nóng lòng muốn biết liệu bà có tin tức gì về Seb không. Bố mẹ nó đang lo phát điên lên.”

“Tất nhiên là họ lo rồi, rõ tội nghiệp,” bà Tibbet nói. “Tôi đã bảo cậu bé mấy lần là nên liên lạc với mẹ mình, nhưng...”

“Nhưng?” Giles cắt ngang.

“Đó là một câu chuyện dài, Sir Giles, nhưng tôi sẽ kể nhanh hết sức có thể.”

Mười phút sau, bà Tibbet kể với anh lần cuối cùng mình trông thấy Sebastian khi cậu rời đi trên một chiếc taxi để quay về Quảng trường Eaton, và bà không gặp lại cậu từ lúc đó.

“Vậy theo những gì bà biết, thằng bé đang ở nhà cậu bạn Bruno Martinez ở số 44 Quảng trường Eaton?” “Đúng thế, Sir Giles. Nhưng tôi...”

“Tôi nợ bà rất nhiều,” Giles nói, đứng dậy và lấy ví ra.

“Ngài không nợ gì tôi hết,” bà Tibbet xua tay nói. “Mọi thứ tôi làm là vì Sebastian, không phải vì ngài. Nhưng nếu tôi được phép dành cho ngài vài lời khuyên...”

“Vâng, tất nhiên,” Giles nói, ngồi xuống trở lại.

“Sebastian lo rằng bố mẹ sẽ giận vì cậu ấy đã tự vứt đi cơ hội vào học ở Cambridge, và...”

“Nhưng nó đâu có mất chỗ ở Cambridge,” Giles cắt ngang. “Đó là tin tốt nhất tôi nghe được trong cả tuần. Tốt hơn ngài nên tìm cháu ngài thật nhanh và cho cậu ấy biết điều đó, vì cậu ấy sẽ không muốn về nhà chừng nào còn nghĩ bố mẹ vẫn giận mình.” “Điểm dừng tiếp theo của tôi sẽ là số 44 Quảng trường Eaton,”

Giles nói khi đứng dậy lần thứ hai.

“Trước khi ngài đi,” bà Tibbet nói, vẫn không nhúc nhích, “ngài cần biết là cậu ấy đã gánh lỗi cho bạn mình, đó là lý do tại sao Bruno Martinez không phải chịu hình phạt tương tự. Vì thế cậu ấy xứng đáng được một cái vỗ khen ngợi lên lưng hơn là một trận quát mắng”.

“Bà đã lãng phí tài năng, bà Tibbet ạ - đáng lẽ bà nên gia nhập đội ngũ ngoại giao.”

“Và ngài quả là một người tán tụng lão luyện, Sir Giles, như phần lớn thành viên Nghị viện. Nói vậy không có nghĩa là tôi từng có dịp gặp qua một người trước đây,” bà thừa nhận. “Nhưng đừng để tôi giữ ngài lâu hơn nữa.”

“Một lần nữa cảm ơn bà. Sau khi tôi tìm được Sebastian và thu xếp ổn thỏa mọi thứ,” Giles nói khi đứng dậy lần thứ ba, “bà sẽ trở lại Hạ viện và cùng dùng trà với hai bác cháu tôi chứ?”.

“Ngài thật chu đáo quá, Sir Giles. Nhưng tôi không thể cho phép mình nghỉ đến hai ngày trong một tuần được.”

“Vậy thì sẽ phải là tuần sau,” Giles nói khi bà chủ nhà mở cửa trước và họ bước ra ngoài vỉa hè. “Tôi sẽ cho một chiếc xe tới đón bà.”

“Ngài thật chu đáo,” bà Tibbet nói, “nhưng...”.

“Không nhưng gì hết. Sebastian đã gặp may, vô cùng may mắn, khi thằng bé dừng chân tại số nhà 37.”

Khi điện thoại đổ chuông, Don Pedro băng qua phòng, song ông ta không vội nhấc máy lên cho tới khi đã kiểm tra chắc chắn là cửa phòng làm việc được đóng chặt.

“Thưa ngài, cuộc gọi quốc tế của ngài từ Buenos Aires đang trên đường dây.”

Ông ta nghe thấy một tiếng cạch, trước khi một giọng nói cất lên, “Con Diego đây”.

“Hãy nghe thật cẩn thận. Mọi thứ đã đâu vào đấy, bao gồm con ngựa thành Troy của chúng ta.”

“Như thế có nghĩa là Sotheby’s đã đồng ý...”

“Bức tượng sẽ được đưa vào danh sách bán cuối tháng này.” “Vậy giờ tất cả những gì chúng ta cần là một người đưa hàng.” “Bố đã có lựa chọn lý tưởng. Một bạn học của Bruno cần việc làm và nói thạo tiếng Tây Ban Nha. Tốt hơn nữa, bác của cậu ta lại là một dân biểu và một trong các ông của cậu ta từng là thượng nghị sĩ, vì thế cậu ta thuộc loại được người Anh coi là mang dòng máu xanh lơ, điều chỉ càng làm mọi thứ thêm trôi chảy.”

“Cậu ta có biết tại sao bố chọn cậu ta không?”

“Không. Đó là bí mật được giữ kín nhất,” Don Pedro nói, “điều sẽ cho phép chúng ta tránh xa khỏi toàn bộ quá trình”.

“Khi nào cậu ta tới Buenos Aires?”

“Cậu ta sẽ đi cùng bố trên tàu tối nay, và sẽ an toàn trở về Anh từ lâu trước khi bất cứ ai tìm ra điều chúng ta muốn làm.”

“Bố có nghĩ cậu ta đã đủ lớn để thực hiện một công việc quan trọng như vậy không?”

“Cậu nhóc này chín chắn hơn tuổi, và quan trọng không kém, cậu ta ít nhiều ưa mạo hiểm.”

“Nghe lý tưởng đấy. Bố có cho Bruno biết chuyện không?” “Không. Nó biết càng ít càng tốt.”

“Đồng ý,” Diego nói. “Còn điều gì bố muốn con làm trước khi bố tới nơi không?”

“Chỉ cần đảm bảo hàng sẵn sàng để đưa lên tàu và được đăng ký vận chuyển trên tàu Queen Mary trong chuyến hải hành về Anh.”

“Còn tiền?”

Dòng suy nghĩ của Don Pedro bị gián đoạn bởi một tiếng gõ cửa khẽ. Ông ta quay lại và thấy Sebastian bước vào phòng.

“Thưa ngài, cháu hy vọng là không làm phiền ngài.”

“Không, không,” Don Pedro nói, gác ống nghe và mỉm cười với chàng trai đã trở thành miếng ghép cuối cùng của bộ ghép hình.

Giles đã nghĩ tới chuyện dừng ở buồng điện thoại gần nhất để gọi cho Harry và báo bạn biết anh đã tìm ra tung tích Sebastian cũng như đang trên đường đi đón cậu nhóc, nhưng anh muốn nhìn tận mặt cậu cháu trai trước khi gọi cuộc điện thoại đó.

Dòng xe cộ trên Park Lane đông nghịt, và anh chàng lái taxi không tỏ ra hào hứng với việc lách vào các khoảng trống, chứ chưa nói tới vượt đèn vàng. Anh hít thật sâu. Vài phút có thể đem đến khác biệt nào chứ, anh thầm nghĩ khi họ chạy vòng qua Hyde Park Corner.

Chiếc taxi cuối cùng dừng lại bên ngoài số nhà 44 Quảng trường Eaton, và Giles trả đúng số tiền trên đồng hồ trước khi bước lên các bậc thềm và gõ cửa. Một người đàn ông khổng lồ ra mở cửa, mỉm cười với Giles gần như thể anh ta đã chờ đợi anh.

“Thưa ngài, tôi có thể giúp gì cho ngài?”

“Tôi đang tìm cháu tôi, Sebastian Clifton, người theo tôi hiểu đang ở đây với người bạn Bruno Martinez của nó.”

“Thưa ngài, cậu ấy đã ở đây,” quản gia lịch sự nói. “Nhưng họ đã tới sân bay London chừng hai mươi phút trước.”

“Ông có biết họ sẽ bay chuyến nào không?” Anh hỏi. “Tôi không biết, Sir Giles.”

“Hay họ sẽ đi đâu?” “Tôi không hỏi.”

“Cảm ơn anh,” Giles nói, người sau nhiều năm chơi vị trí của tay gậy đánh cú mở màn đã lập tức nhận ra một bức tường đá khi anh gặp phải nó. Anh quay lại tìm một chiếc taxi khác khi cánh cửa đóng lại sau lưng mình. Anh thấy một tấm biển hiệu taxi vàng đang sáng đèn và vẫy nó, chiếc xe lập tức quay đầu để đón anh.

“Sân bay London,” anh nói, hối hả chui vào sau xe. “Và tôi sẽ trả anh gấp đôi số trên đồng hồ nếu anh đưa tôi tới đó trong bốn mươi phút.” Họ vừa chuyển bánh thì cửa số nhà 44 bật mở và một cậu thanh niên hối hả chạy xuống các bậc thềm, cuống quýt vẫy anh.

“Dừng!” Giles hét lên. Chiếc taxi phanh kít lại. “Quyết định đi, thưa ngài.”

Giles hạ cửa kính xe xuống trong khi cậu thanh niên chạy lại chỗ anh.

“Tên cháu là Bruno Martinez,” cậu ta nói. “Họ không ra sân bay. Họ đang trên đường tới Southampton để lên tàu SS South America.”

“Con tàu ra khơi lúc nào?” Giles hỏi.

“Họ sẽ ra khơi vào đợt triều cuối khoảng chín giờ tối nay.” “Cảm ơn,” Giles nói. “Tôi sẽ nói để Sebastian biết...”

“Không, làm ơn đừng nói, thưa ngài,” Bruno nói. “Và cho dù ngài làm gì, đừng nói cho bố tôi biết tôi đã nói chuyện với ngài.”

Không ai trong hai người để ý thấy có một người đang chăm chú nhìn ra từ cửa sổ số nhà 44.

Sebastian khoan khoái ngồi ở băng ghế sau chiếc Rolls-Royce, nhưng ngạc nhiên khi thấy họ dừng lại ở Battersea.

“Cậu đã bao giờ bay trên một chiếc trực thăng trước đây chưa?” Don Pedro hỏi.

“Chưa, thưa ngài. Cháu chưa bao giờ ở trên một chiếc máy bay trước đây.”

“Nó sẽ giúp chúng ta rút ngắn được hai giờ đi đường. Nếu cậu làm việc cho tôi, cậu sẽ nhanh chóng hiểu thời gian là tiền.”

Chiếc trực thăng rồ máy bay lên trời, nghiêng sang phải và hướng về phía nam tới Southampton. Sebastian nhìn xuống dòng xe cộ đang di chuyển như sên bò vào đầu buổi tối ra khỏi London.

“Tôi không thể tới Southampton trong bốn mươi phút được, thưa ngài,” người lái taxi nói.

“Cũng phải lẽ thôi,” Giles nói, “nhưng nếu anh có thể đưa tôi tới cầu tàu trước khi chiếc SS South America rời bến, tôi vẫn trả anh gấp đôi”.

Anh chàng lái taxi cho xe vọt đi như một con ngựa nòi lao khỏi ngăn lồng xuất phát, và trổ hết tài để vượt qua ách tắc giao thông vào giờ cao điểm, lùi lại, chạy vào những con phố ngách mà Giles không hề biết chúng tồn tại, chạy ngang ngoặt vào làn ngược chiều trước khi ngoặt lại để vượt qua những đèn tín hiệu đã chuyển đỏ. Nhưng vẫn phải mất hơn một giờ trước khi anh ta ra được tới đường Winchester, chỉ để thấy những đoạn đường đang sửa chữa giới hạn họ vào một làn duy nhất và tốc độ của tay lái chậm chạp nhất trên đó. Giles nhìn qua cửa sổ xe và không thấy việc sửa đường tiến triển nhiều.

Anh liên tục xem đồng hồ, nhưng cái kim giây là thứ duy nhất giữ tốc độ đều đặn, và cơ hội để họ tới được cầu tàu trước chín giờ ngày càng trở nên mong manh hơn theo từng phút. Anh cầu nguyện mong chiếc tàu chậm lại chỉ vài phút thôi, cho dù anh biết thuyền trưởng không thể để lỡ đợt triều.

Giles ngồi ngả lưng ra sau và nghĩ về những lời Bruno nói. Và cho dù ngài làm gì, đừng nói cho bố tôi biết tôi đã nói chuyện với ngài. Sebastian không thể đòi hỏi nhiều hơn từ một người bạn.

Anh lại nhìn đồng hồ: 7 giờ 30 phút tối. Làm sao quản gia có thể nhầm lẫn giản đơn như thế khi nói họ đang trên đường tới sân bay London? 7 giờ 45. Rõ ràng đây không phải là một nhầm lẫn, vì người đàn ông đã gọi anh là “Sir Giles”, cho dù anh ta không thể nào biết là anh sắp sửa xuất hiện trước ngưỡng cửa nhà mình. Trừ khi... 8 giờ. Và khi anh ta nói “họ đã đi tới sân bay London,” thì người còn lại anh ta muốn nói đến là ai? Bố Bruno chăng? 8 giờ 15. Giles không thể đi tới một câu trả lời hài lòng cho bất cứ câu hỏi nào trong số này khi người lái xe rẽ khỏi đường Winchester và hướng tới cầu tàu. 8 giờ 30. Giles gạt sang bên tất cả lo âu của mình và bắt đầu nghĩ về những gì cần làm nếu họ kịp tới cầu tàu trước khi con tàu nhổ neo. 8 giờ 45.

“Nhanh hơn!” Anh yêu cầu, cho dù anh dám ngờ anh chàng lái xe đã dận chân ga đến lút sàn rồi. Cuối cùng, anh trông thấy con tàu chở khách đồ sộ, và trong khi nó lớn dần lên theo từng phút, anh bắt đầu tin họ có thể sẽ tới vừa kịp. Nhưng rồi anh nghe thấy một âm thanh mà anh đã lo sợ nãy giờ: ba tiếng còi hơi thật lớn, kéo dài.

“Thời gian và thủy triều chẳng đợi ai cả,” người lái xe nói. Một lời nhận xét mà Giles không cần đến vào khoảnh khắc đó.

Chiếc taxi dừng lại bên cạnh tàu South America, nhưng cầu lên xuống cho hành khách đã được nâng lên và những sợi cáp neo tàu được thả ra để con tàu đồ sộ chậm rãi rời khỏi cầu tàu ra biển.

Giles cảm thấy bất lực khi quan sát hai chiếc tàu kéo dẫn chiếc tàu chở khách ra ngoài cửa sông, như hai con kiến dẫn một con voi tới chỗ đất an toàn hơn.

“Tới văn phòng của giám đốc cảng!” Anh hét lên, dù chẳng biết nơi đó ở đâu. Anh chàng lái xe đã phải dừng lại hai lần để hỏi đường trước khi dừng lại bên ngoài tòa nhà văn phòng duy nhất vẫn còn sáng đèn.

Giles lao ra khỏi xe và lao vào văn phòng giám đốc cảng mà chẳng buồn gõ cửa. Bên trong, anh đối mặt với ba người đàn ông đang sững sờ.

“Ông là ai?” Một người đàn ông mặc đồng phục quản lý cảng với nhiều cầu vai vàng hơn các sĩ quan đồng nghiệp lên tiếng hỏi.

“Sir Giles Barrington. Cháu tôi đang ở trên con tàu đó,” anh nói, chỉ tay ra ngoài cửa sổ. “Liệu có cách nào đưa nó xuống khỏi tàu không?”

“Tôi không nghĩ vậy, thưa ngài, trừ khi thuyền trưởng sẵn lòng dừng tàu và cho phép cậu ấy được đưa xuống một trong những tàu lai dắt của chúng tôi, điều tôi nghĩ khó lòng xảy ra. Nhưng tôi sẽ thử xem. Tên hành khách là gì nhỉ?”

“Sebastian Clifton. Cậu ta vẫn còn vị thành niên, và tôi có ủy quyền của bố mẹ để đưa cậu ấy rời khỏi con tàu đó.”

Ông giám đốc cảng nhắc một cái micro lên và bắt đầu vặn vài nút trên bảng điều khiển trong khi cố liên lạc với vị thuyền trưởng.

“Tôi không muốn ông nuôi quá nhiều hy vọng,” ông ta nói, “song thuyền trưởng và tôi đã cùng nhau phục vụ trong Hải quân Hoàng gia, nên...”.

“Đây là thuyền trưởng của SS South America,” một giọng đậm chất Anh nói.

“Đây là Bob Walters, giám đốc cảng. Chúng tôi có một vấn đề, và tôi sẽ rất biết ơn bất cứ sự trợ giúp nào ông có thể,” ông giám đốc cảng nói trước khi chuyển yêu cầu của Sir Giles.

“Trong hoàn cảnh bình thường tôi sẽ rất vui lòng làm theo, Bob,” ông thuyền trưởng nói, “nhưng chủ sở hữu tàu đang ở trên đài chỉ huy, vì thế tôi sẽ phải hỏi sự cho phép của ông ấy”.

“Cảm ơn ông,” Giles và vị giám đốc cảng đồng thanh nói, trước khi đường liên lạc im lặng.

“Liệu có hoàn cảnh nào trong đó ông có quyền chỉ huy một thuyền trưởng hay không?” Giles hỏi lúc họ chờ đợi.

“Chỉ khi tàu của ông ta còn ở trong cửa sông. Một khi con tàu đã đi quá cây hải đăng phía bắc, nó được coi là đã ở ngoài Eo biển Anh và ở ngoài phạm vi quyền hạn của tôi.”

“Như vậy ông có thể ra lệnh cho một thuyền trưởng chừng nào tàu của ông ta vẫn ở trong cửa sông?”

“Vâng, thưa ngài, nhưng hãy nhớ, đây là một tàu ngoại quốc, và chúng ta không muốn một rắc rối ngoại giao, vì thế tôi sẽ không sẵn sàng ra lệnh cho thuyền trưởng trừ khi tôi được thuyết phục đang có một hành vi tội ác diễn ra.”

“Điều gì khiến họ lâu như vậy chứ?” Giles hỏi khi từng phút trôi qua. Đột nhiên một giọng nói lạo xạo vang lên qua hệ thống liên lạc.

“Xin lỗi, Bob. Chủ tàu từ chối làm theo yêu cầu của ông vì chúng tôi đang tới gần đê chắn sóng của vịnh và sẽ sớm ra Eo biển.”

Giles giật lấy micro từ ông giám đốc cảng. “Đây là Sir Giles Barrington. Làm ơn hãy mời ông chủ tàu tới. Tôi muốn đích thân nói chuyện với ông ấy.”

“Tôi xin lỗi, Sir Giles,” ông thuyền trưởng nói, “nhưng ông Martinez đã rời đài chỉ huy và quay về cabin của mình, và ông ấy để lại chỉ thị nghiêm ngặt là không được phép quấy rầy mình”.