Chương 36
Trong chặng thứ hai của cuộc hành trình tới Buenos Aires, Harry đã hoàn tất tập tài liệu về Don Pedro Martinez.
Sau chiến tranh, đối tượng dành thời gian ở Argentina, ngồi trên một núi tiền mặt. Himmler đã tự sát trước khi bị đưa ra xét xử tại Nuremberg, trong khi sáu tay sai trong danh sách của y bị kết án tử hình. Mười tám tên nữa bị tống giam, bao gồm cả thiếu tá Bernhard KrÜger. Không còn ai tới gõ cửa nhà Don Pedro đòi khoản bảo hiểm nhân thọ của bọn họ.
Harry lật trang và thấy phần tiếp theo của tập tài liệu dành cho chủ đề gia đình. Anh nghỉ một lát trước khi tiếp tục.
Martinez có bốn con. Con trai cả của ông ta, Diego, bị đuổi học khỏi Harrow sau khi trói một nam sinh mới vào một cái máy sưởi bỏng rẫy. Anh chàng này trở về quê nhà, không có được chứng chỉ cấp độ O1* mang tên mình, tham gia việc làm ăn của bố, và tốt nghiệp hạng danh dự chuyên ngành tội phạm ba năm sau đó. Cho dù Diego mặc dây đeo quần, áo vét với hai hàng khuy ngực cắt may tại Savile Row, anh chàng này hẳn đã phải trải qua phần lớn cuộc đời trong bộ áo tù nếu bố anh ta không nắm vô khối thẩm phán, sĩ quan cảnh sát và chính khách trong danh sách mua chuộc của mình.
Con trai thứ hai của ông ta, Luis, từ một cậu nhóc thành một tay chơi chỉ trong một kỳ nghỉ hè ở Riviera. Giờ đây anh chàng này dành phần lớn thời gian thức của mình tại các bàn chơi roulette ở Monte Carlo, chơi bạc với các tờ tiền năm bảng của bố với nỗ lực kiếm trở lại dưới dạng một loại tiền khác.
Cứ mỗi khi Luis gặp vận đỏ, lại một luồng tiền franc Monaco tìm đường tới tài khoản của Don Pedro ở Geneva. Nhưng Martinez vẫn bực bội chuyện sòng bài đang kiếm được thu nhập khá hơn ông ta.
Đứa con thứ ba, Bruno, không phải một bản sao từ ông bố, và thể hiện nhiều phẩm chất của bà mẹ hơn. Martinez thích khoe với bạn bè của ông ta ở London là ông ta có một cậu con trai sẽ vào học ở Cambridge vào tháng Chín.
Không có nhiều thông tin về đứa con thứ tư, Maria-Theresa, cô bé này vẫn ở Roedean, và luôn trải qua các kỳ nghỉ với mẹ.
Harry ngừng đọc khi cô Carrick đặt một bàn ăn sáng trước mặt anh, nhưng trong suốt bữa ăn, người đàn ông đáng nguyền rủa vẫn ám ảnh tâm trí anh.
Trong những năm sau chiến tranh, Martinez bắt tay vào tích lũy nguồn lực cho ngân hàng của ông ta. Ngân hàng Hữu nghị Gia đình Nông dân điều hành các tài khoản của những người sở hữu đất đai nhưng không có tiền. Các phương pháp của Martinez rất thô bạo song hiệu quả. Ông ta sẽ cho nông dân vay bất cứ khoản tiền nào họ yêu cầu, với lãi suất cắt cổ, chừng nào khoản vay được đảm bảo bằng đất của chính những người đó.
Nếu khách hàng không thể trả các khoản thanh toán hàng quý, họ sẽ nhận được một thông báo tịch thu tài sản, cho họ chín mươi ngày để thanh toán tất cả nợ nần. Nếu họ không thể làm được, hầu hết tất cả họ đều vậy, ngân hàng sẽ tịch thu giấy tờ đất, và thêm vào diện tích đất khổng lồ mà Martinez đã tích lũy. Bất cứ ai kiện cáo đều được Diego ghé thăm, và anh ta sẽ tạo hình lại khuôn mặt họ; rẻ và hiệu quả hơn nhiều so với thuê luật sư.
Điều duy nhất có thể làm tổn hại hình ảnh một lãnh chúa nuôi gia súc luôn chăm lo cho gia đình mà ông ta đã dày công xây dựng tại London là việc người vợ Consuela của ông ta cuối cùng cũng đi tới kết luận rằng bố của bà đã đúng ngay từ đầu, và yêu cầu ly hôn. Trong khi quá trình ly hôn đang diễn ra tại Buenos Aires, Martinez nói với bất cứ ai tại London hỏi về vợ rằng thật đáng buồn Consuela đã qua đời vì ung thư, nhờ đó mà nguy cơ bị mất mặt xã giao lại chuyển thành sự cảm thông.
Sau khi bố của Consuela không được bầu lại làm thị trưởng - Martinez đã ủng hộ ứng cử viên đối lập - bà này cuối cùng về sống tại một ngôi làng nằm cách Buenos Aires vài dặm. Bà nhận được một khoản trợ cấp hàng tháng, khoản tiền không cho phép bà có nhiều chuyến đi tới thủ đô để mua sắm, và hoàn toàn không thể ra nước ngoài du lịch. Và thật đáng buồn cho Consuela, chỉ có một cậu con trai duy trì việc liên lạc với mẹ, và cậu này hiện lại đang sống ở Anh.
Chỉ có một người không phải là thành viên gia đình Martinez được dành trang riêng trong tập tài liệu của Harry: Karl Ramirez, được Martinez tin dùng làm quản gia kiêm thủ hạ. Mặc dù Ramirez có hộ chiếu Argentina, nhân vật này giống một cách kỳ lạ với Karl Otto Lunsdorf, một thành viên đội tuyển vật của Đức tại Olympic 1936, người sau đó trở thành một trung úy SS chuyên về thẩm vấn.
Công việc bàn giấy của Ramirez cũng ấn tượng hệt như những tờ bạc năm bảng của Martinez, và gần như chắc chắn là đến từ cùng một nguồn.
Cô Carrick dọn khay ăn tối đi rồi mời cơ trưởng May rượu brandy và một điếu xì gà mà anh lịch sự từ chối, sau khi cảm ơn cô này vì lời đề nghị.
“Hóa ra cũng không tồi tệ như cơ trưởng đã nghĩ,” cô tiếp viên nói, trưng ra một nụ cười. “Ông ấy yêu cầu tôi báo để ông biết rằng nếu ông ở tại Milonga, ông có thể đi cùng chúng tôi trên xe buýt của BOAC, như thế ông sẽ tránh được ông Bolton,” - Harry nhướng một bên mày lên - “một người Bristol, tin chắc đã gặp ông trước đây.”
Harry nhận thấy cô Carrick đã nhìn xuống bàn tay trái của anh nhiều hơn một lần, trên đó một vệt da sáng màu cho thấy rõ một chiếc nhẫn cưới mới được tháo ra. Cơ trưởng Peter May đã ly dị cô vợ Angela được hơn hai năm. Họ có hai con: Jim, mười tuổi, đang được kỳ vọng sẽ vào học ở Epsom College, và Sally, tám tuổi, cô bé sở hữu một chú ngựa con của riêng mình. Anh thậm chí còn có một bức ảnh chụp hai đứa trẻ để chứng minh. Harry đã đưa chiếc nhẫn của anh cho Emma giữ trước khi lên đường. Thêm một việc nữa cô không tán thành.
“London đã yêu cầu tôi xếp một cuộc hẹn để gặp một cơ trưởng tên Peter May vào mười giờ sáng mai,” ngài đại sứ nói.
Thư ký của ông ghi chú vào lịch làm việc. “Ngài có yêu cầu tư liệu tham khảo nào về cơ trưởng May không?”
“Không, vì tôi không có bất cứ manh mối nào về chuyện anh ta là ai, hay tại sao Bộ Ngoại giao lại muốn tôi gặp anh ta. Chỉ cần đảm bảo đưa anh ta vào thẳng phòng làm việc của tôi ngay khi anh ta tới.”
Harry đợi đến khi hành khách cuối cùng xuống khỏi máy bay rồi anh mới gia nhập cùng phi hành đoàn. Sau khi đã qua kiểm tra hải quan, anh đi bộ ra khỏi sân bay để tìm tới một chiếc xe buýt nhỏ đang chờ bên lề đường.
Người lái xe để vali của anh vào khoang hành lý khi Harry leo vào trong khoang xe và được một cô Carrick nữa tươi cười chào đón.
“Tôi có thể ngồi cạnh cô chứ?” Anh hỏi.
“Vâng, tất nhiên rồi,” cô này trả lời, dịch người để dành chỗ cho anh.
“Tên tôi là Peter,” anh nói lúc họ bắt tay.
“Annabel. Điều gì đưa anh tới Argentina vậy?” Cô gái hỏi trong khi chiếc xe buýt chuyển bánh chạy vào thành phố.
“Anh trai Dick của tôi làm việc ở đây. Anh em tôi đã không gặp nhau từ quá nhiều năm nay rồi, thế nên tôi nghĩ mình cần nỗ lực một chút vì sắp tới sinh nhật thứ bốn mươi của anh ấy.”
“Anh trai anh?” Annabel hỏi với nụ cười tươi hết cỡ. “Anh ấy làm nghề gì vậy?”
“Anh tôi là kỹ sư cơ khí. Anh ấy đã làm việc trong dự án Đập Paraná trong năm năm vừa qua.” “Chưa từng nghe tới nó.”
“Chắc rồi. Nó nằm ở một nơi hoang vu.”
“À, anh ấy sẽ có chút sốc văn hóa khi tới Buenos Aires đấy, vì đây là một trong những thành phố đa dạng nhất trên thế giới, và chắc chắn là điểm dừng chân ưa thích của tôi.”
“Lần này cô sẽ ở lại đây bao lâu?” Harry hỏi, muốn thay đổi chủ đề trước khi anh cạn kiệt các chi tiết về gia đình mới tiếp nhận của mình.
“Bốn mươi tám giờ. Anh có biết Buenos Aires không? Nếu không, anh đang bước vào một cuộc khám phá thực sự thú vị.”
“Không, với tôi đây là lần đầu tiên,” Harry nói, hoàn hảo từng từ cho tới lúc này. Không được để mất sự tập trung, Sir Alan đã cảnh báo anh, vì đó là lúc anh hớ hênh.
“Vậy anh thường bay tuyến nào?”
“Tôi bay tuyến vượt Đại Tây Dương - New York, Boston và Washington.” Nhân vật vô danh của Bộ Ngoại giao đã chọn lộ trình đó vì nó bao gồm ba thành phố Harry đã tới thăm trong chuyến quảng bá sách của anh.
“Nghe có vẻ vui nhỉ. Nhưng hãy đảm bảo là anh trải nghiệm cuộc sống về đêm khi ở đây. Người Argentina khiến mấy vị khách Mỹ trông có vẻ thật bảo thủ.”
“Có nơi nào đặc biệt mà tôi cần dẫn ông anh tôi tới không?” “Lizard là nơi có những vũ công tango xuất sắc nhất, nhưng tôi được cho hay tiệm Majestic nấu ăn ngon nhất, dù tôi chưa thử qua đồ ăn ở đó bao giờ. Phi hành đoàn thường tới Câu lạc bộ Matador trên Đại lộ Độc lập. Vì thế nếu anh và anh trai có thời gian, rất hoan nghênh hai người tới gia nhập cùng chúng tôi.”
“Cảm ơn cô,” Harry nói khi xe buýt dừng lại bên ngoài khách sạn. “Có lẽ tôi sẽ nhận lời cô.”
Anh mang rương hành lý của Annabel vào khách sạn.
“Chỗ này rẻ và vui vẻ,” cô gái nói khi họ làm thủ tục nhận phòng, “vậy nên nếu anh muốn tắm nhưng không muốn chờ nước nóng lên, tốt nhất hãy làm việc đó cuối cùng vào buổi tối hay đầu tiên vào buổi sáng,” cô nói thêm khi họ bước vào thang máy.
Khi họ lên tới lầu bốn, Harry chia tay Annabel và bước ra một hành lang chiếu sáng lờ mờ trước khi tìm tới phòng 469. Sau khi vào trong, anh nhận ra căn phòng không khá hơn là bao so với hành lang. Một cái giường đôi lớn hõm xuống ở giữa, một cái vòi ri rỉ ra thứ nước màu nâu, một giá treo khăn có một cái khăn mặt, và một ghi chú cho anh biết phòng tắm ở cuối hành lang. Anh nhớ lại ghi chú của Sir Alan, Chúng tôi đã đặt phòng cho ông tại một khách sạn nơi Martinez và đám thủ hạ của y sẽ không bao giờ nghĩ tới chuyện tìm đến. Anh đã nhận ra tại sao. Nơi này cần một giám đốc như mẹ anh, và tốt hơn là từ hôm qua.
Harry bỏ chiếc mũ kê pi xuống và ngồi xuống cuối giường. Anh muốn gọi cho Emma và nói cho cô biết anh nhớ cô biết chừng nào, nhưng Sir Alan đã nhắc nhở không thể rõ hơn: không gọi điện thoại, không tới hộp đêm, không ngắm cảnh, không mua sắm, thậm chí không ra khỏi khách sạn cho đến lúc đi gặp ngài đại sứ. Anh đặt hai bàn chân lên giường và ngả đầu xuống gối. Anh nghĩ về Sebastian, Emma, Sir Alan, Martinez, Câu lạc bộ Matador... Cơ trưởng May ngủ thiếp đi.
1*Cấp độ O là một bằng cấp được trao cho một phần của Chứng chỉ giáo dục chung. Nó được thay cho Giấy chứng nhận của trường vào năm 1951 như là một phần của cải cách giáo dục bên cạnh trình độ A chuyên sâu và nghiêm khắc hơn về mặt học thuật ở Anh, xứ Wales và Bắc Ireland.