← Quay lại trang sách

Chương 37

Khi Harry thức giấc, điều đầu tiên anh làm là bật cái đèn bên đầu giường và xem đồng hồ đeo tay của mình: 2 giờ 26 phút sáng. Anh bật rủa khi nhận ra mình vẫn chưa cởi đồ.

Thiếu chút nữa anh lộn xuống khỏi giường, bước tới cửa sổ và nhìn chăm chăm một thành phố không ngủ với âm thanh của giao thông và những ánh đèn lấp lánh. Anh kéo rèm lại, cởi đồ ra rồi leo trở lên giường, hy vọng sẽ nhanh chóng thiếp đi. Nhưng giấc ngủ của anh đã bị đánh cắp bởi những suy nghĩ về Martinez, Seb, Sir Alan, Emma, Giles và thậm chí cả Jessica, và anh càng cố để thư giãn và gạt chúng ra khỏi đầu, chúng càng thu hút sự chú ý của anh.

Đến 4 giờ 30 phút sáng, anh bỏ cuộc và quyết định sẽ đi tắm. Đó cũng là lúc anh ngủ thiếp đi. Khi tỉnh dậy, anh nhảy xuống khỏi giường và kéo rèm cửa để nhìn những tia nắng mặt trời ngập tràn thành phố. Đã 7 giờ 10 phút sáng. Anh cảm thấy ngứa ngáy và mỉm cười trước ý nghĩ về một cữ tắm nước nóng thật dài.

Harry bắt tay vào tìm kiếm chiếc áo choàng tắm, nhưng khách sạn chỉ cung cấp một cái khăn tắm mỏng tang và một bánh xà phòng. Anh bước ra ngoài hành lang và hướng tới phòng tắm. Một tấm biển ghi Có người sử dụng được treo trên tay nắm cửa, và anh có thể nghe thấy tiếng một người đang dội nước bên trong. Harry quyết định đứng chờ, để không ai có thể tranh mất chỗ của anh trong hàng. Khi cánh cửa rốt cuộc cũng mở ra sau đó chừng hai mươi phút, Harry đối diện với đúng người anh đã hy vọng không bao giờ phải gặp lại.

“Chúc buổi sáng tốt lành, cơ trưởng,” ông ta nói, đứng chắn đường anh.

“Chúc buổi sáng tốt lành, ông Bolton,” Harry đáp lại, cố lách qua bên cạnh ông ta.

“Đừng vội, anh bạn,” ông ta nói. “Sẽ mất mười lăm phút để bồn tắm cạn hết nước, rồi lại thêm mười lăm phút nữa để làm đầy nó trở lại.” Harry hy vọng nếu anh không nói gì, Bolton sẽ hiểu ngụ ý và rời đi. Ông ta không làm thế. “Bản sao giống hệt anh bạn,” kẻ quấy rầy dai dẳng nói, “viết tiểu thuyết trinh thám. Điều kỳ lạ là tôi có thể nhớ tên nhân vật thám tử, William Warwick, nhưng quỷ bắt tôi đi nếu tôi có thể nhớ được tên tác giả. Nó cứ trôi mất trên đầu lưỡi”.

Khi Harry nghe thấy những giọt nước cuối cùng òng ọc chảy xuống ống thoát, Bolton miễn cưỡng tránh sang bên để anh bước vào phòng tắm.

“Nó cứ trôi đi trên đầu lưỡi,” Bolton nhắc lại khi ông ta bước xuống theo hành lang.

Harry đóng cửa lại và khóa nó luôn, nhưng anh chỉ vừa kịp vặn vòi nước thì đã nghe tiếng gõ cửa.

“Ông sẽ ở trong đó bao lâu vậy?”

Đến lúc có đủ nước để bước vào bồn tắm, anh nghe thấy hai người đang trò chuyện ở bên kia cánh cửa. Hay là ba người?

Bánh xà phòng chỉ đủ dùng xuống tới hai bàn chân anh, và khi anh đã lau khô xong các kẽ ngón chân, cái khăn tắm ướt sũng. Anh mở cửa phòng tắm và thấy một hàng dài các vị khách đang cằn nhằn, cố gắng không nghĩ đến mấy giờ thì người cuối cùng trong số họ xuống ăn sáng. Cô Carrick đã đúng, đáng lẽ anh phải tắm khi tỉnh giấc giữa đêm.

Về đến phòng, Harry khẩn trương cạo râu và mặc đồ, nhớ ra anh đã không ăn gì kể từ lúc xuống máy bay. Anh khóa cửa phòng, đi thang máy xuống tầng trệt và băng qua tiền sảnh tới phòng ăn sáng. Khi anh bước vào, người đầu tiên anh thấy là ông Bolton, ngồi một mình, phết mứt cam lên một lát bánh mì nướng. Harry quay người tháo chạy. Anh nghĩ tới phục vụ phòng, nhưng cũng chỉ trong chốc lát.

Cuộc hẹn của anh với ngài đại sứ phải đến mười giờ mới diễn ra, và từ các ghi chú của mình anh biết chỉ mất mười lăm phút để đi bộ tới sứ quán. Anh hẳn đã ra ngoài đi dạo và tìm một tiệm cà phê nếu không vì một trong những chỉ dẫn mà Sir Alan đã nhắc đi nhắc lại: không phơi mình ra ngoài khi không cần thiết. Dẫu vậy, Harry vẫn quyết định rời khách sạn sớm một chút và đi bộ thong thả. Anh nhẹ nhõm khi không thấy ông Bolton lảng vảng trong hành lang, thang máy hay ngoài tiền sảnh, và anh ra khỏi khách sạn mà không có thêm cuộc chạm trán nào.

Đi qua ba khối nhà về bên phải, rồi rẽ trái đi thêm hai khối nữa sẽ tới Quảng trường Mayo, sách hướng dẫn du lịch cam đoan như vậy. Mười phút sau anh thấy những lá quốc kỳ Anh được kéo cao trên các cột cờ khắp quanh quảng trường.

Anh băng qua đường, không mấy thoải mái ở một thành phố tự hào về việc không có đèn tín hiệu giao thông, và tiếp tục đi xuống Đại lộ Constitutional, dừng lại giây lát để chiêm ngưỡng bức tượng một người nào đó có tên Estrada. Các chỉ dẫn cho biết nếu anh đi thêm gần hai trăm mét nữa, anh sẽ tới một cái cổng sắt uốn hai cánh có gắn gia huy hoàng gia.

Harry đứng bên ngoài sứ quán lúc 9 giờ 33 phút. Thêm một vòng quanh khối nhà nữa. 9 giờ 43 phút. Thêm một vòng nữa, còn thong thả hơn. 9 giờ 56 phút. Cuối cùng, anh bước qua cổng, băng qua một khoảng sân rải sỏi và bước lên một tá bậc cấp, đến đây một cửa lớn hai cánh được mở ra bởi một lính gác đeo những tấm huân chương cho biết hai người họ đã phục vụ ở cùng chiến trường. Trung úy Harry Clifton của đơn vị Biệt kích Texas hẳn nhiên muốn dừng lại trò chuyện với anh này, nhưng không phải hôm nay. Anh đang bước tới bàn tiếp đón, một phụ nữ trẻ bước tới và hỏi, “Ông là cơ trưởng May phải không?”.

“Vâng, tôi đây.”

“Tên tôi là Becky Shaw, thư ký riêng của ngài đại sứ, ông ấy dặn tôi dẫn ông tới thẳng phòng làm việc của ông ấy.”

“Cảm ơn cô,” Harry nói. Cô gái dẫn anh đi xuống một hành lang trải thảm đỏ, đến cuối hành lang cô này dừng lại, gõ nhẹ lên một cái cửa hai cánh đường bệ và bước vào mà không chờ trả lời. Bất cứ lo ngại nào Harry cảm thấy về chuyện ngài đại sứ không đợi gặp anh đang được chứng minh là vô căn cứ.

Anh bước vào một căn phòng rộng trang nhã và thấy ngài đại sứ ngồi sau bàn làm việc của mình, trước một khung cửa sổ rộng hình bán nguyệt.

Ngài đại sứ, một người đàn ông nhỏ nhắn cằm vuông đầy năng lượng đứng dậy và hối hả bước tới gặp Harry.

“Rất vui được gặp ông, cơ trưởng May,” ông nói, bắt tay anh thật chặt. “Ông có muốn dùng một tách cà phê, hay có lẽ là vài chiếc bánh quy gừng chăng?”

“Bánh quy gừng,” Harry nhắc lại. “Vâng, nếu được.”

Vị đại sứ gật đầu, và cô thư ký của ông hối hả rời phòng, đóng cửa lại sau khi ra.

“Bây giờ, tôi phải thẳng thắn với ông, ông bạn,” vị đại sứ nói khi dẫn Harry về phía hai chiếc ghế tiện nghi kê quay xuống bãi cỏ được xén tỉa cẩn thận với vài luống hoa hồng của sứ quán. Chẳng khác gì họ đang ở quê hương. “Tôi hoàn toàn không biết cuộc gặp này nhằm mục đích gì, ngoại trừ là nếu thư ký nội các muốn tôi gặp khẩn ông, thì việc này chắc chắn phải quan trọng. Ông ấy không phải là người làm lãng phí thời gian của bất cứ ai.”

Harry lấy chiếc phong bì từ trong túi áo vét của anh ra trao cho ngài đại sứ cùng với tập tài liệu dày anh đã được giao phó.

“Tôi không nhận được nhiều thứ thế này,” ngài đại sứ nói, nhìn vào dấu niêm phong ở đằng sau phong bì.

Cửa mở ra và Becky trở lại mang theo một khay cà phê và bánh quy, đặt nó lên cái bàn giữa hai người. Ngài đại sứ mở lá thư của bộ trưởng ngoại giao ra chậm rãi đọc, nhưng không nói gì cho tới khi Becky đã ra khỏi phòng.

“Tôi đã nghĩ không có gì mới tôi không biết về Don Pedro Martinez, nhưng dường như ông sắp chứng minh tôi đã nhầm. Sao ông không bắt đầu từ đầu đi, cơ trưởng May?”

“Tên tôi là Harry Clifton,” anh bắt đầu, và sau hai tách cà phê và sáu cái bánh quy, anh đã giải thích tại sao mình lại ngụ tại khách sạn Milonga và tại sao anh không thể gọi điện thoại cho con trai để báo rằng cậu cần lập tức quay về Anh.

Câu trả lời của ngài đại sứ khiến Harry bất ngờ. “Ông biết không, ông Clifton, nếu bộ trưởng ngoại giao chỉ thị cho tôi ám sát Martinez, hẳn tôi sẽ vui vẻ thi hành mệnh lệnh. Tôi bắt đầu không hình dung nổi hắn ta đã hủy hoại bao nhiêu cuộc đời rồi.”

“Tôi sợ rằng con trai mình sẽ ở vị trí tiếp theo trong danh sách.” “Không đâu nếu tôi có vai trò nào đó trong chuyện này. Như tôi thấy, ưu tiên hàng đầu của chúng tôi là đảm bảo an toàn cho con trai ông. Ưu tiên thứ hai, và tôi ngờ rằng Sir Alan nghĩ điều này cũng quan trọng tương đương, là tìm ra xem Martinez định dùng cách nào để đưa lén một lượng tiền lớn như vậy qua kiểm tra hải quan. Rõ ràng Sir Alan tin” - ông này liếc nhìn lá thư - “rằng con trai ông là người có thể tìm ra ông ta dự định làm chuyện đó ra sao. Liệu đó có phải là một đánh giá công bằng không?”

“Có, thưa ngài, nhưng con trai tôi không thể làm được việc này trừ khi tôi có thể nói chuyện với nó mà Martinez không biết.”

“Tôi hiểu.” Ngài đại sứ ngả người ra sau, nhắm mắt lại và chống các đầu ngón tay vào nhau như thể đang trầm ngâm cầu nguyện. “Giải pháp,” ông này nói, mắt vẫn nhắm, “sẽ là đề nghị Martinez một thứ mà tiền không mua được”.

Ông đứng bật dậy, bước tới cửa sổ và nhìn chằm chằm ra ngoài bãi cỏ, nơi vài nhân viên đang bận rộn chuẩn bị cho một bữa tiệc ngoài vườn.

“Ông nói rằng Martinez và con trai ông phải mai mới tới Buenos Aires phải không?”

“Tàu SS South America sẽ cập bến vào khoảng sáu giờ sáng mai, thưa ngài.”

“Và hẳn ông cũng biết Công chúa Margaret sắp tới trong một chuyến thăm chính thức chứ?”

“Vậy ra vì thế mà có nhiều cờ Anh tại Quảng trường Mayo.” Ngài đại sứ mỉm cười. “Công chúa sẽ chỉ ghé thăm chúng ta trong bốn mươi tám giờ. Điểm nhấn trong chuyến thăm sẽ là một bữa tiệc ngoài vườn được tổ chức để chào mừng công chúa tại sứ quán vào chiều thứ Hai, và các thành phần có danh vọng tiếng tăm của Buenos Aires đều đã được mời. Vì những lý do hiển nhiên, Martinez không có mặt trong số này, bất chấp việc hắn đã ngỏ lời rất rõ ràng với tôi không chỉ một lần là hắn rất thích được có mặt. Nhưng nếu muốn kế hoạch của tôi thành công, chúng ta cần hành động, và phải thật nhanh.”

Ngài đại sứ quay ngoắt lại và bấm một cái nút dưới bàn mình. Chỉ chốc lát sau cô Shaw lại xuất hiện, cầm sổ ghi chép và bút chì trên tay.

“Tôi muốn cô gửi một giấy mời Don Pedro Martinez dự bữa tiệc vườn hoàng gia vào thứ Hai.” Nếu cô thư ký ngạc nhiên, cô cũng không để lộ ra. “Và tôi cũng đồng thời muốn gửi cho ông ấy một lá thư.”

Ngài đại sứ nhắm mắt lại, hiển nhiên là đang định hình nội dung lá thư trong đầu.

“Don Pedro thân mến, tôi rất vui mừng, không, đặc biệt vui mừng, khi được kèm vào một giấy mời tới dự bữa tiệc vườn tại sứ quán, tại đó chúng tôi sẽ đặc biệt, không, không, tôi đã dùng ‘đặc biệt’ rồi, vô cùng hân hạnh có sự hiện diện của Công chúa Margaret. Sang đoạn mới. Như ngài sẽ thấy, giấy mời dành cho ngài cùng một vị khách. Tôi tất nhiên không hề có ý đưa ra lời khuyên với ngài, song nếu có một người Anh nào đó trong đội ngũ của ngài có thể tới dự, tôi nghĩ Công chúa sẽ coi đó là điều thích hợp. Tôi trông đợi được tiếp đón ngài. Nghe đã đủ trang trọng chưa nhỉ?”

“Rồi,” cô Shaw nói kèm một cái gật đầu. Harry giữ im lặng. “Và cô Shaw này, tôi sẽ ký lá thư ngay khi cô đánh máy xong, sau đó tôi muốn cô thu xếp để chuyển lá thư này cùng giấy mời ngay lập tức tới văn phòng của ông ta, để nó có mặt trên bàn làm việc khi ông ta đến nơi vào sáng mai.”

“Tôi cần để ngày nào trên thư, thưa ngài?”

“Nghĩ chu đáo lắm,” ngài đại sứ nói khi nhìn lịch trên bàn làm việc. “Con trai ông rời Anh hôm nào nhỉ, cơ trưởng May?”

“Thứ hai ngày 10 tháng Sáu, thưa ngài.”

Ngài đại sứ nhìn vào lịch thêm lần nữa. “Hãy ghi ngày 7. Chúng ta luôn có thể đổ lỗi việc chuyển thư muộn cho bưu vụ. Ai cũng làm thế cả.” Ông không nói thêm gì nữa cho tới khi cô thư ký đã ra khỏi phòng.

“Giờ thì, ông Clifton,” ông nói, quay người lại trên ghế. “Cho phép tôi nói với ông những gì tôi đang nghĩ trong đầu.”

Harry không tận mắt chứng kiến Sebastian cùng với Martinez bước xuống cầu rút bắc lên bờ từ tàu SS South America, nhưng cô thư ký của ngài đại sứ thì có. Cô này sau đó đã chuyển lời nhắn tới khách sạn của Harry, xác nhận hai người kia đã tới nơi và yêu cầu anh có mặt tại lối vào phụ của sứ quán mở ra phố Bác sĩ Luis Agote vào lúc hai giờ chiều hôm sau, đúng một giờ trước khi người khách đầu tiên dự kiến sẽ có mặt tại bữa tiệc vườn.

Harry ngồi ở cuối giường băn khoăn tự hỏi liệu ngài đại sứ rốt cuộc có đúng không khi nói là Martinez sẽ trồi lên đớp mồi còn nhanh hơn cả một con cá hồi trên sông Tweed. Lần duy nhất anh từng đi câu cá, con cá hồi đã tảng lờ anh.

“Giấy mời được gửi tới khi nào vậy?” Martinez lớn tiếng, giơ cao tờ giấy mời có rìa thếp vàng.

“Nó được một nhân viên sứ quán đích thân chuyển tận tay sáng hôm qua,” thư ký của ông ta nói.

“Gửi giấy mời muộn thế thật chẳng giống người Anh chút nào,” Martinez nghi ngờ nói.

“Thư ký riêng của ông đại sứ đã gọi điện xin lỗi. Cô ấy nói với tôi họ không nhận được hồi đáp cho một số lời mời gửi theo đường bưu điện và đoán rằng chúng đã bị thất lạc. Kỳ thực cô ấy nói nếu ông nhận được thêm một giấy mời nữa hãy vui lòng bỏ qua.”

“Bưu vụ chết tiệt,” Martinez nói. Ông ta đưa giấy mời cho con trai, rồi bắt đầu đọc thư của ông đại sứ.

“Như con cũng thấy trên giấy mời,” Martinez nói, “bố có thể đi cùng một vị khách nữa. Con có thích đi cùng bố không?”.

“Chắc bố đang đùa,” Diego nói, “con thà quỳ gối trong lễ cầu kinh tại giáo đường còn hơn bị thấy phải cúi đầu và lúng túng trong một bữa tiệc vườn kiểu Anh”.

“Vậy có lẽ bố sẽ dẫn thằng nhóc Sebastian đi cùng. Nói gì thì nói, nó là cháu của một nhà quý tộc, thế nên cũng chẳng hại gì khi tạo ấn tượng là bố có quan hệ tốt với giới thượng lưu Anh.”

“Thằng nhóc đang ở đâu rồi?”

“Bố đã đặt phòng cho nó ở khách sạn Royal trong vài ngày.” “Bố đã viện lý do gì để đưa nó tới đây vậy?”

“Bố bảo là nó có thể trải qua vài ngày vui chơi ở Buenos Aires trước khi quay về Anh với một món hàng mà bố cần chuyển cho Sotheby's, và nó sẽ được trả công hậu hĩnh cho việc này.”

“Bố sẽ nói cho nó biết có gì trong thùng hàng chứ?” “Chắc chắn là không. Nó biết càng ít càng tốt.”

“Có lẽ con cần phải đi cùng nó, để đảm bảo không có gì sơ xuất xảy ra.”

“Không, làm thế sẽ hỏng hết mục đích của việc bố trí này. Thằng nhóc sẽ quay về Anh trên tàu Queen Mary, trong khi chúng ta bay về London sau đó vài ngày. Như thế thằng nhóc lọt lưới trong khi hải quan Anh dồn cả chú ý vào chúng ta. Và chúng ta vẫn sẽ có mặt tại London kịp thời gian cho cuộc bán đấu giá.”

“Bố vẫn muốn con thay mặt bố tham gia đấu giá sao?”

“Phải. Bố không thể mạo hiểm để ai đó bên ngoài gia đình dính dáng vào.”

“Nhưng chẳng phải có khả năng ai đó sẽ nhận ra con sao?”

“Không đâu nếu con đấu giá qua điện thoại.”