Chương 40
Tôi nhận được bản báo cáo này sáng hôm qua từ Philip Matthews, đại sứ của chúng ta tại Argentina,” vị thư ký nội các nói khi phân phát các bản sao cho tất cả mọi người ngồi quanh bàn. ”Làm ơn hãy đọc nó thật kỹ.”
Sau khi Sir Alan nhận được bản báo cáo dài mười sáu trang từ Buenos Aires qua máy ghi điện tín của mình, ông đã dành phần còn lại của buổi sáng để đọc thật kỹ từng đoạn. Ông biết thứ mình tìm kiếm sẽ được chuyển tải một cách bí mật giữa vô vàn chi tiết vặt vãnh về những gì Công chúa Margaret đã làm trong chuyến thăm chính thức thành phố của bà.
Ông thấy khó hiểu tại sao ngài đại sứ lại mời Martinez tới bữa tiệc vườn hoàng gia, thậm chí còn ngạc nhiên hơn khi biết người này đã được giới thiệu với công chúa. Ông đoán Matthews hẳn phải có một lý do chính đáng để bỏ qua quy tắc như vậy, và hy vọng không có bức ảnh nào bị cắt ra lưu giữ trong một thư viện lưu trữ các bài lấy từ báo ra để nhắc nhở tất cả mọi người về dịp này một lúc nào đó trong tương lai.
Đến gần trưa thì Sir Alan bắt gặp đoạn báo cáo ông tìm kiếm. Ông yêu cầu thư ký hủy cuộc hẹn ăn trưa của mình.
Công chúa đã vui lòng cập nhật cho tôi biết kết quả trận đấu quốc tế đầu tiên tại Lord's, ngài đại sứ viết. Thật là một nỗ lực tuyệt vời của thủ quân1* Peter May, và thật tiếc là anh ta phải rời sân một cách không cần thiết vào phút cuối cùng.
Sir Alan ngước lên và mỉm cười với Harry Clifton, người cũng đang chăm chú đọc bản báo cáo.
Tôi rất vui mừng được biết Arthur Barrington sẽ trở lại trong trận đấu quốc tế thứ hai ở Southampton vào ngày Chủ nhật 23 tháng Sáu, vì với kết quả trung bình vừa trên 8, điều này có thể tạo ra tất cả sự khác biệt cho đội Anh.
Sir Alan gạch chân các từ Arthur, Chủ nhật, Southampton, và số 8, trước khi tiếp tục đọc.
Tuy nhiên, tôi thật bối rối khi công chúa nói rằng Tate sẽ là một phiên bản được hoan nghênh ở số 5, nhưng công chúa cam đoan là không phải ai khác mà chính John Rothenstein, phụ trách đội cricket, đã nói với bà, điều này khiến tôi suy nghĩ.
Ông thư ký nội các gạch chân Tate, số 5, phiên bản2* và Rothenstein, trước khi lại tiếp tục đọc.
Tôi sẽ quay về London vào Auguste3*, vừa kịp để dự khán trận đấu quốc tế cuối cùng tại Millbank, vì thế hãy hy vọng đến lúc đó chúng ta đã thắng chuỗi chín trận. Và, nhân tiện, sân đấu tại đó sẽ cần một chiếc xe lu hai tấn.
Lần này Sir Alan gạch chân Auguste, Millbank, chín và hai tấn. Ông ước gì mình đã quan tâm nhiều hơn tới môn cricket khi còn ở Shrewbury, nhưng khi đó ông lại là một thành viên của đội đua thuyền. Tuy nhiên, vì Sir Giles, người đang ngồi ở cuối bàn, từng được vinh dự khoác chiếc áo xanh lơ của đội cricket trường Oxford, ông tự tin rằng những lời ám chỉ khó hiểu liên quan tới môn cricket này sắp sửa được giải thích cho mình.
Sir Alan vui mừng khi thấy tất cả hình như đều đã đọc xong bản báo cáo, mặc dù bà Clifton vẫn đang viết ra các ghi chú.
“Tôi nghĩ mình đã hiểu ra phần lớn những gì người của ta tại Buenos Aires đang cố gắng thông báo, nhưng vẫn còn một vài điểm nho nhỏ tôi chưa nắm bắt được. Chẳng hạn, tôi cần giúp đỡ về Arthur Barrington, vì đến cả tôi cũng biết tay đập xuất chúng trong giải quốc tế có tên là Ken.”
“Tên lót của Sebastian là Arthur,” Harry nói. “Vì thế tôi nghĩ chúng ta có thể phỏng đoán rằng con trai tôi sẽ về tới Southampton vào Chủ nhật ngày 23 tháng Sáu, vì các trận đấu quốc tế không bao giờ diễn ra vào một ngày Chủ nhật, và thậm chí ở Southampton còn chẳng có sân thi đấu quốc tế nào.”
Ông thư ký nội các gật đầu.
“Và tám hẳn là số triệu bảng ngài đại sứ nghĩ có liên quan tới vụ này,” Giles đề xuất từ đầu bàn đối diện, “vì số điểm trung bình của Ken Barrington trong một trận quốc tế là trên năm mươi”.
“Rất tốt,” Sir Alan nói, viết lại một ghi chú. “Nhưng tôi không thể giải thích được vì sao Matthews lại viết nhầm ‘bổ sung4*’ thành ‘phiên bản5*’, và ‘tháng Tám6*’ thành ‘Auguste’.”
“Và Tate nữa,” Giles nói. “Vì Maurice Tate hay đánh bóng cho đội Anh ở số chín, chắc chắn không phải số năm.”
“Điều đó cũng làm tôi lúng túng,” Sir Alan nói, thú vị trước trò chơi chữ nho nhỏ của chính mình. “Nhưng có ai có thể giải thích hai chỗ viết sai chính tả này không?”
“Tôi nghĩ tôi có thể,” Emma nói. “Con gái Jessica của tôi là một họa sĩ, và tôi nhớ nó có nói là nhiều nhà điêu khắc đúc chín phiên bản các tác phẩm của họ, tất cả sau đó được đóng dấu và đánh số. Và cách viết từ Auguste ám chỉ danh tính nghệ sĩ.”
“Tôi vẫn chẳng thấy sáng tỏ gì hơn,” Sir Alan nói, và từ vẻ mặt những người còn lại ngồi quanh bàn, rõ ràng ông không phải là người duy nhất.
“Hẳn là Renoir hay Rodin,” Emma nói. “Và bởi vì không thể cất giấu tám triệu bảng trong một bức tranh sơn dầu, tôi e các ngài sẽ phát hiện ra số tiền đó được giấu trong một bức tượng nặng hai tấn của Auguste Rodin.”
“Và có phải ngài đại sứ đang ngụ ý với tôi rằng Sir John Rothenstein, giám đốc Phòng trưng bày Tate tại Millbank sẽ có thể nói cho tôi biết đó là bức tượng nào hay không vậy?”
“Ông ấy đã nói với chúng ta rồi,” Emma đắc thắng nói. “Đó là một trong những từ ngài đã bỏ sót không gạch dưới, Sir Alan.” Emma không kìm được một nụ cười ngạo nghễ. “Người mẹ quá cố của tôi hẳn đã nhận ra từ lâu trước khi tôi hiểu được, thậm chí ngay cả khi bà sắp qua đời.”
Cả Harry và Giles cùng mỉm cười. “Và tôi đã bỏ sót không gạch dưới từ nào vậy, thưa bà Clifton?” Emma vừa đưa ra câu trả lời thì ngài thư ký nội các lập tức nhấc ống nghe điện thoại bên cạnh mình và nói, “Gọi cho John Rothenstein ở Tate, và đặt lịch hẹn cho tôi gặp ông ấy tối nay sau khi phòng trưng bày đóng cửa”.
Sir Alan đặt ống nghe xuống và mỉm cười với Emma. “Tôi vẫn luôn là một người cổ súy cho việc nên có nhiều phụ nữ hơn tham gia vào hệ thống công quyền.”
“Sir Alan, tôi thực sự hy vọng ngài sẽ gạch dưới các từ ‘nhiều’, ‘hơn’ và ‘phụ nữ’,“ Emma nói.
Sebastian đứng ở boong trên của tàu Queen Mary và tựa người vào lan can, Buenos Aires lùi xa dần cho tới khi chỉ còn như một nét phác thảo trên tấm toan vẽ của họa sĩ.
Đã có quá nhiều điều diễn ra trong quãng thời gian ngắn ngủi kể từ khi cậu bị đuổi học tạm thời khỏi Beechcroft, dù chàng trai vẫn còn băn khoăn tự hỏi lý do mà bố cậu đã vượt cả quãng đường dài đến đây. Nếu chỉ để báo cho cậu biết là cậu không mất chỗ tại Cambridge thì chẳng phải ông gọi điện cho ông đại sứ, người biết Don Pedro, sẽ đơn giản hơn nhiều hay sao? Và tại sao ông đại sứ lại đích thân đưa cho cậu quyển hộ chiếu, trong khi Becky có thể làm việc đó ngay tại bàn tiếp đón? Và còn lạ hơn nữa, tại sao ông đại sứ lại muốn biết tên lót của cậu? Chàng trai vẫn chưa có câu trả lời cho bất cứ câu hỏi nào khi Buenos Aires đã khuất dạng khỏi tầm nhìn. Có lẽ bố cậu sẽ cung cấp những câu trả lời này.
Chàng trai chuyển dòng suy nghĩ sang tương lai. Bổn phận đầu tiên của cậu, và cậu đã được trả công hào phóng cho việc này, là đảm bảo để bức tượng của Don Pedro qua được kiểm tra hải quan một cách trôi chảy, và cậu không định rời khỏi bến tàu cho tới khi người của Sotheby's đã nhận bức tượng.
Nhưng từ giờ cho tới lúc đó, cậu quyết định sẽ thư giãn và tận hưởng chuyến hải hành. Cậu dự định đọc nốt vài trang cuối của Các sĩ quan và các quý ông, và hy vọng có thể tìm được tập một trong thư viện trên tàu.
Giờ đây, khi đang trên đường về nhà, chàng trai cảm thấy cần suy nghĩ một chút về những gì mình có thể đạt được trong năm đầu tiên tại Cambridge để gây ấn tượng với mẹ. Đó là điều tối thiểu cậu có thể làm sau bấy nhiêu phiền phức đã gây ra.
“Người suy tư,” Sir John Rothenstein, giám đốc Phòng trưng bày Tate, nói, “được phần lớn các nhà phê bình coi là một trong những tác phẩm mang tính biểu tượng nhất của Rodin. Ban đầu, tác phẩm được tạo tác như một phần của Những cánh cổng địa ngục, và ban đầu được mang tên Thi sĩ, vì tác giả muốn bày tỏ sự ngưỡng mộ tới thần tượng của mình, Dante. Và mối liên hệ giữa nhà điêu khắc với tác phẩm chặt chẽ tới mức nghệ sĩ bậc thầy được an táng tại Meudon dưới một bản đúc đồng thau của chính tác phẩm này”.
Sir Alan tiếp tục đi vòng quanh bức tượng đồ sộ. “Hãy đính chính cho tôi nếu tôi nhầm lẫn, Sir John, nhưng đây là bản thứ năm trong chín phiên bản của mẻ đúc nguyên bản đúng không?”
“Đúng thế, Sir Alan. Những tác phẩm của Rodin được tìm kiếm nhiều nhất chính là những bản được Alexis Rudier đúc tại xưởng của ông này ở Paris khi nhà điêu khắc còn sống. Từ khi Rodin qua đời, thật không may theo quan điểm của tôi, chính quyền Pháp đã cho phép các phiên bản giới hạn được sao chép lại tại các xưởng đúc khác, nhưng các bản này không được các nhà sưu tầm nghiêm túc coi là ở cùng mức như những bản đúc lúc sinh thời của tác giả.”
“Có phải vị trí hiện tại của chín bản đúc gốc đều được biết rõ hay không?”
“Ồ có chứ,” ông giám đốc nói. “Ngoài bản này, có ba bản đang ở Paris - tại Louvre, bảo tàng Rodin và ở Meudon. Cũng có một bản tại bảo tàng Metropolitan ở New York, một bản nữa tại bảo tàng Hermitage tại Leningrad, và ba bản trong tay các nhà sưu tầm tư nhân.”
“Ông có biết rõ chủ sở hữu của chúng không?”
“Một bản trong bộ sưu tập của nam tước Rothschild, và một bản nữa thuộc sở hữu của Paul Mellon. Nơi chốn của bản thứ ba từ lâu đã chìm sau tấm màn bí ẩn. Tất cả những gì chúng tôi biết chắc là một bản đúc hồi sinh thời của tác giả đã được phòng trưng bày Marlborough bán cho một nhà sưu tầm tư nhân chừng mười năm trước. Tuy nhiên, tấm màn đó có thể sẽ được vén lên vào tuần tới.”
“Tôi không dám chắc mình hiểu ý ông, Sir John.”
“Một bản đúc năm 1902 của Người suy tư sẽ được Sotheby's mang ra đấu giá vào tối thứ Hai.”
“Và ai sở hữu bản đó vậy?” Sir Alan hỏi với vẻ lơ đãng.
“Tôi không biết,” Rothenstein thừa nhận. “Trong cuốn ca-ta-lô của Sotheby's, bức tượng chỉ được ghi là thuộc quyền sở hữu của một quý ông.”
Ngài thư ký nội các cười thầm trước ý tưởng này, nhưng chỉ hài lòng với câu hỏi, “Và như thế có nghĩa là gì?”.
“Thế có nghĩa là người bán muốn giữ kín danh tính. Thường đó có thể là một nhà quý tộc không muốn thừa nhận mình đang rơi vào hoàn cảnh khó khăn và buộc phải chia tay với một trong các di sản thừa kế của gia đình.”
“Ông trông đợi bức tượng sẽ được bán với giá bao nhiêu?” “Rất khó ước lượng, vì một tác phẩm quan trọng thế này của Rodin đã vài năm rồi không xuất hiện trên sàn đấu giá. Nhưng tôi sẽ ngạc nhiên nếu nó được bán với giá dưới một trăm nghìn bảng.” “Liệu một người bình thường có thể phân biệt được bức tượng này,” Sir Alan nói trong khi ngưỡng mộ ngắm tác phẩm bằng đồng trước mặt mình, “và bức tượng sắp được mang ra bán đấu giá tại Sotheby's hay không?”.
“Không có khác biệt nào cả,” ông giám đốc nói, “ngoài số của bản đúc ra thì chúng hoàn toàn giống hệt nhau”.
Ngài thư ký nội các đi vòng quanh Người suy tư thêm vài lần nữa trước khi vỗ lên cái bệ đồ sộ mà người đàn ông ngồi trên đó. Giờ đây ông không còn chút nghi ngờ nào về việc Martinez đã giấu tám triệu bảng ở đâu. Ông lùi lại một bước và nhìn chăm chú hơn vào phần bệ gỗ của bức tượng đồng thau. “Có phải cả chín bản đúc đều được gắn trên cùng một loại bệ không?”
“Không hẳn là tương tự, nhưng gần giống nhau, tôi cho là vậy. Mỗi phòng trưng bày hay nhà sưu tầm có quan điểm riêng về cách trưng bày tác phẩm. Chúng tôi chọn một cái bệ gỗ sồi đơn giản mà chúng tôi cảm thấy sẽ hài hòa với bối cảnh xung quanh.”
“Và phần bệ được gắn vào bức tượng như thế nào?”
“Với một bức tượng đồng thau có kích thước thế này, sẽ có bốn mấu nhỏ bằng thép được gắn vào bên trong đáy tượng. Mỗi mấu được khoan một lỗ để qua đó một then ngang và một cái chốt đầu côn có thể được lồng xuống. Khi đó chúng ta chỉ việc khoan bốn cái lỗ vào phần bệ và gắn bệ vào tượng nhờ bốn cái ốc tai hồng. Bất cứ thợ mộc lành nghề nào cũng có thể làm được việc này.”
“Vậy nếu muốn tháo bệ ra, ông chỉ việc tháo những cái ốc tai hồng là bệ sẽ được tách rời khỏi tượng?”
“Vâng, tôi cho là vậy,” Sir John nói. “Nhưng tại sao lại có người muốn làm việc đó chứ?”
“Quả vậy, tại sao chứ,” ngài thư ký nội các nói, thoáng mỉm cười. Giờ ông không chỉ biết Martinez đã giấu tiền ở đâu, mà cả cách ông ta định đưa lén số tiền vào Anh. Và, quan trọng hơn cả, cách ông ta định tái ngộ với tám triệu bảng tiền giả mệnh giá năm bảng của mình mà không ai phát giác ra dự định đó.
“Một người thông minh,” ông nói khi gõ một lần cuối cùng lên bức tượng đồng thau rỗng ruột.
“Một thiên tài,” ông giám đốc nói.
“À, tôi không đi xa đến thế đâu,” Sir Alan nói. Nhưng một cách công bằng, họ đang nói về hai người khác nhau.
1* Nguyên bản tiếng Anh là “captain” từ này cũng có nghĩa là cơ trưởng, tác giả chơi chữ (ND)
2* Nguyên bản tiếng Anh “edition” có thể coi trong bối cảnh này là viết nhầm chính tả của “addition” (bổ sung), xem thêm nội dung truyện để hiểu rõ hơn (ND).
3* Tiếng Anh “August” là tháng Tám, còn “Auguste” là tên của Auguste Rodin, tác giả bức Người suy tư, nhưng trong bối cảnh bức thư có thể coi như từ “August” (tháng Tám) vô tình bị viết sai chính tả (ND).
4* Addition (ND).
5*Edition (ND).
6* August (ND).