← Quay lại trang sách

Chương 41

Người lái chiếc xe tải nhỏ hiệu Bedford màu trắng dừng lại bên ngoài ga tàu điện ngầm Green Park ở Piccadilly. Anh ta để động cơ nổ và nháy đèn pha trước hai lần.

Ba người đàn ông, những người không bao giờ muộn, từ dưới ga tàu đi lên mang theo các dụng cụ làm việc của mình và hối hả bước tới đằng sau chiếc xe tải mà họ biết không bị khóa. Ba người để một lò đốt nhỏ, một can dầu hỏa, một túi dụng cụ, một cái thang, một cuộn dây thừng dày và một hộp diêm Swan Vesta vào sau xe trước khi gia nhập cùng viên sĩ quan chỉ huy của họ.

Nếu có ai nhìn mấy người này đến lần thứ hai, và chẳng ai làm thế vào lúc sáu giờ một ngày Chủ nhật, người ta hẳn cũng cho rằng đó chỉ là những người lao động bình thường, vốn cũng là con người cũ của họ trước khi gia nhập SAS1*. Hạ sĩ Crann từng là thợ mộc, thượng sĩ Roberts là thợ đúc còn đại úy Hartley là một kỹ sư kết cấu.

“Chúc buổi sáng tốt lành, các quý ông,” đại tá Scott-Hopkins nói trong khi ba người lính trèo vào trong chiếc xe tải.

“Chúc buổi sáng tốt lành, thưa đại tá,” ba người kia đồng thanh trả lời khi viên sĩ quan chỉ huy của họ vào số một, và chiếc xe tải hiệu Bedford bắt đầu chuyến đi tới Southampton.

Sebastian đã có mặt trên boong được hai giờ trước khi chiếc Queen Mary hạ cầu ván dành cho hành khách xuống. Chàng trai nằm trong số những hành khách đầu tiên xuống tàu, và nhanh chóng đi qua kiểm tra hải quan. Cậu đưa bản khai hàng hóa cho một nhân viên trẻ, anh này xem nhanh nó trước khi nhìn Sebastian kỹ lưỡng hơn.

“Làm ơn hãy đợi ở kia,” anh ta nói, rồi mất hút vào trong một phòng làm việc đằng sau. Lát sau, một người đàn ông lớn tuổi hơn xuất hiện với ba dải sọc bạc trên các cổ tay áo đồng phục. Ông này yêu cầu được xem hộ chiếu của Sebastian, rồi sau khi đã kiểm tra ảnh, ông ta lập tức ký lệnh thông quan.

“Ông Clifton, đồng nghiệp của tôi sẽ tháp tùng ông tới nơi thùng hàng được bốc dỡ xuống.”

Sebastian và người nhân viên hải quan trẻ đi bộ ra khỏi khu nhà hải quan và thấy một chiếc cần cẩu đang hạ móc của nó xuống khoang hàng trên tàu Queen Mary. Hai mươi phút sau, kiện hàng đầu tiên xuất hiện là một cái thùng bằng gỗ đồ sộ mà Sebastian chưa bao giờ thấy qua trước đây. Kiện hàng được từ từ hạ xuống cầu tàu, và yên vị ở bãi dỡ hàng số sáu.

Một nhóm công nhân bến tàu gỡ móc cẩu và các sợi xích chằng ra khỏi kiện hàng để cần cẩu có thể quay lại vận chuyển, trong khi kiện hàng được một xe nâng đang đợi sẵn chuyển tới nhà kho số 40. Toàn bộ quá trình kéo dài bốn mươi ba phút. Người nhân viên trẻ yêu cầu Sebastian quay lại khu văn phòng vì có vài giấy tờ cần hoàn tất.

Chiếc xe cảnh sát bật còi hụ, vượt lên trên chiếc xe tải của Sotheby's trên tuyến đường từ London tới Southampton và ra hiệu cho lái xe là anh ta cần đánh xe vào chỗ dừng gần nhất. Sau khi chiếc xe tải đã dừng lại, hai nhân viên cảnh sát ra khỏi xe tuần cảnh. Người thứ nhất lại đằng trước xe, trong khi người đồng nghiệp tiến lại phía sau chiếc xe tải. Người cảnh sát thứ hai lấy một con dao gấp quân dụng Thụy Sĩ từ trong túi áo ra, mở dao rồi đâm thẳng lưỡi dao vào lốp sau bên trái của chiếc xe. Sau khi đã nghe thấy tiếng xì, anh ta quay lại chiếc xe tuần cảnh.

Người lái xe tải hạ kính xe xuống và nhìn viên cảnh sát với vẻ giễu cợt. “Ngài cảnh sát, tôi không nghĩ mình vi phạm giới hạn tốc độ.”

“Ông không vi phạm, thưa ông. Nhưng tôi nghĩ ông cần biết là lốp sau bên trái xe của ông bị thủng.”

Người lái xe ra khỏi buồng lái, đi về phía sau xe tải và nhìn chằm chằm kinh ngạc vào cái lốp xẹp lép.

“Ngài cảnh sát, ngài biết đấy, tôi chẳng cảm thấy gì cả.” “Những vết thủng xì hơi chậm vẫn luôn thế,” viên cảnh sát nói, trong khi một chiếc xe tải hiệu Bedford chạy ngang qua họ. Anh ta chào rồi nói, “Rất vui đã giúp được, thưa ông,” đoạn quay về chiếc xe tuần cảnh cùng người đồng nghiệp và lái xe rời đi.

Nếu người lái xe của Sotheby's có hỏi thẻ công vụ của viên cảnh sát, anh ta hẳn đã biết người này thuộc biên chế cảnh sát London ở Rochester Row, nghĩa là nằm ngoài phạm vi thẩm quyền của mình tới ba dặm. Nhưng vậy đấy, như Sir Alan đã phát hiện ra, hiện tại không có nhiều sĩ quan từng phục vụ dưới quyền ông trong SAS làm việc trong lực lượng cảnh sát Hampshire và có thể sẵn sàng huy động gấp vào một buổi sáng Chủ nhật.

Don Pedro và Diego được đưa tới cảng hàng không quốc tế Ministro Pistarini. Sáu chiếc vali lớn của họ qua hải quan mà không bị kiểm tra, và sau đó họ lên máy bay của BOAC bay tới London.

“Tôi luôn thích bay trên một chiếc máy bay Anh hơn,” Don Pedro nói với tiếp viên trưởng khi hai bố con họ được dẫn tới chỗ ngồi ở khoang hạng nhất.

Chiếc Stratocruiser của Boeing cất cánh lúc 5 giờ 43 phút chiều, chậm hơn dự kiến chỉ vài phút.

Người lái chiếc xe tải Bedford màu trắng rẽ vào bến tàu và chạy thẳng tới nhà kho số 40 ở cuối bến. Không ai trong xe ngạc nhiên chuyện đại tá Scott-Hopkins biết chính xác nơi ông đang tới. Nói cho cùng, ông đã thực hiện một cuộc trinh sát trước đó bốn mươi tám giờ. Ông đại tá là người tỉ mỉ, không bao giờ phó mặc chuyện gì cho may rủi.

Khi chiếc xe tải dừng lại, ông đưa một chiếc chìa khóa cho đại úy Hartley. Cấp phó của ông liền ra khỏi xe và mở khóa cái cổng hai cánh của nhà kho. Ông đại tá lái chiếc xe tải vào trong khu nhà kho rộng mênh mông. Phía trước họ, ở giữa sàn kho, sừng sững một kiện hàng lớn đóng trong thùng gỗ.

Trong khi người kỹ sư khóa cửa lại, ba người kia ra phía sau chiếc xe tải để lấy đồ nghề của họ xuống.

Người thợ mộc dựa cái thang vào kiện hàng, leo lên và bắt đầu nhổ những cái đinh giữ cố định nắp kiện hàng bằng một cái búa vuốt. Trong khi anh ta thực hiện việc này, ông đại tá bước tới góc đằng xa của nhà kho và leo lên buồng lái của một cái xe cẩu nhỏ đã được để đó qua đêm, rồi lái nó tới chỗ kiện hàng.

Người kỹ sư lấy cuộn thừng nặng trịch từ phía sau chiếc xe tải, buộc một đầu thành nút thòng lọng rồi vắt cuộn thừng qua vai. Anh ta lui lại và đợi thực hiện vai trò kẻ thi hành án treo cổ của mình. Anh chàng thợ mộc mất tám phút để nhổ hết đinh khỏi cái nắp dày phía trên thùng đóng hàng, khi đã xong việc anh này leo xuống thang và để cái nắp xuống sàn. Đến lượt mình, anh chàng kỹ sư leo lên thang, cuộn thừng vẫn vắt trên vai trái. Khi lên tới nấc thang trên cùng, anh ta cúi thấp người vào trong lòng thùng và buộc chắc chắn dây thừng qua bên dưới hai cánh tay của Người suy tư. Anh này những muốn dùng xích sắt hơn, nhưng ông đại tá đã nhấn mạnh trong mọi tình huống không được làm hư hại bức tượng.

Sau khi đoan chắc dây thừng được siết chặt, anh chàng kỹ sư buộc một nút thắt kép và giơ phần thòng lọng lên để báo hiệu mình đã sẵn sàng. Ông đại tá hạ dây xích của cần cẩu xuống cho tới khi móc cẩu chỉ còn cách phía đầu trên đã mở của thùng đóng hàng vài xăng ti mét. Anh chàng kỹ sư với lấy móc cẩu, móc nút thòng lọng vào rồi giơ ngón cái lên ra hiệu đã ổn.

Ông đại tá nhấc phần dây thừng chùng xuống lên trước khi bắt đầu nâng bức tượng lên từng chút một. Trước tiên, cái đầu cúi gằm xuống xuất hiện, cằm tựa trên một mu bàn tay, rồi tiếp đến là phần thân, theo sau là đôi chân cơ bắp, và cuối cùng là cái khối lớn bằng đồng thau mà Người suy tư ngồi trên đó. Thứ cuối cùng hiện ra là phần bệ bằng gỗ mà bức tượng được gắn lên. Sau khi bức tượng đã được nhấc hẳn ra khỏi phía trên thùng đựng, ông đại tá từ từ hạ nó xuống cho tới khi chỉ còn lơ lửng cách mặt sàn chừng sáu mươi xăng ti mét.

Người thợ đúc nằm ngửa ra, luồn vào bên dưới bức tượng và xem xét bốn con ốc tai hồng. Sau đó anh ta lấy một cái kìm từ trong túi dụng cụ ra.

“Hãy giữ cái thứ chết tiệt này yên một chỗ,” anh ta nói.

Anh chàng kỹ sư tóm lấy hai đầu gối của Người suy tư còn người thợ mộc giữ lấy lưng bức tượng để cố làm nó ở yên một chỗ. Anh chàng thợ đúc phải gồng hết sức mạnh cơ bắp cho tới khi cảm thấy cái ốc đầu tiên xoay được nửa vòng, rồi nửa vòng nữa, cho đến khi rời ra hoàn toàn. Anh ta lặp lại nỗ lực này thêm ba lần nữa, và rồi một cách đột ngột không báo trước, cái bệ gỗ rơi bịch xuống người anh ta.

Nhưng đó không phải là điều thu hút sự chú ý của ba vị chiến hữu, vì chỉ một phần nghìn giây sau, hàng triệu bảng dưới dạng những tờ bạc năm bảng mới cứng tuôn xuống khỏi bức tượng và trùm kín anh ta.

“Như thế có phải là cuối cùng tôi cũng kiếm được món trợ cấp chiến tranh của mình rồi không?” Anh chàng thợ mộc hỏi trong khi kinh ngạc nhìn chằm chặp vào núi tiền mặt.

Ông đại tá nở một nụ cười giễu khi anh chàng thợ đúc cằn nhằn chui ra từ dưới núi tiền.

“E là không, Crann. Lệnh tôi nhận được không thể rõ ràng hơn,” ông này nói khi leo xuống khỏi xe cẩu. “Số tiền này cần được tiêu hủy đến tờ cuối cùng.” Nếu có lúc nào đó một sĩ quan SAS bị cám dỗ không tuân lệnh, hiển nhiên chính là lúc này.

Anh chàng kỹ sư mở nắp can xăng rồi miễn cưỡng tưới vài giọt lên chỗ than trong lò. Anh ta quẹt một que diêm, rồi lui lại khi ngọn lửa bùng lên nhảy nhót trong không khí. Ông đại tá ra tay đầu tiên và ném 50.000 bảng vào lửa. Một lát sau, ba người còn lại miễn cưỡng nhập cuộc với ông, ném hết hàng nghìn bảng này tới hàng nghìn bảng khác vào ngọn lửa không biết thỏa mãn.

Khi tờ bạc cuối cùng đã cháy thành than, bốn người đàn ông im lặng một hồi và nhìn chằm chằm vào đống tro, cố không nghĩ về việc họ vừa làm.

Anh chàng thợ mộc lên tiếng phá vỡ im lặng. “Chuyện này đem đến một nghĩa mới cho cách diễn đạt ‘đốt tiền’.”

Tất cả họ đều phá lên cười trừ ông đại tá, người nghiêm giọng nói, “Hãy làm cho xong việc nào”.

Anh chàng thợ đúc lại nằm ra sàn và trườn vào bên dưới bức tượng. Như một lực sĩ cử tạ, anh ta nhấc cái bệ gỗ và nâng lên cao, trong khi anh chàng kỹ sư và anh chàng thợ mộc luồn bốn chốt thép nhỏ trở lại qua bốn cái lỗ ở dưới đáy tượng.

“Giữ chắc!” Anh chàng thợ đúc hô lớn, trong khi anh chàng kỹ sư và anh chàng thợ mộc giữ lấy hai bên bệ tượng để anh ta bắt bốn cái ốc tai hồng vào chỗ cũ, đầu tiên vặn bằng tay, rồi sau đó bằng kìm cho đến khi tất cả chúng đều được vặn chặt vào chỗ. Sau khi đã hài lòng rằng mấy cái ốc không thể siết chặt hơn được nữa, anh ta trườn ra ngoài từ dưới bức tượng và giơ ngón tay cái lên ra hiệu lần nữa cho ông đại tá.

Ông đại tá kéo cần điều khiển trong buồng lái xe cẩu của mình và từ từ nâng Người suy tư lên cao, cho tới khi nó lơ lửng phía trên thùng chứa đang mở chừng vài xăng ti mét. Anh chàng kỹ sư lại trèo lên thang trong lúc ông đại tá bắt đầu từ tốn hạ bức tượng xuống, còn đại úy Hartley chỉnh cho nó an toàn vào lại trong thùng. Sau khi dây thừng dưới hai cánh tay của Người suy tư đã được gỡ khỏi, anh chàng thợ mộc thế chỗ cho anh chàng kỹ sư ở trên đỉnh thang và đóng đinh cái nắp thùng nặng trịch vào chỗ cũ.

“Được rồi, các quý ông, chúng ta hãy bắt đầu dọn dẹp trong khi hạ sĩ lo phần của cậu ấy, như thế chúng ta sẽ không lãng phí thời gian.”

Ba người họ bắt tay vào dập lửa, quét dọn sàn nhà và cất tất cả các món đồ đã hoàn thành phận sự của chúng trở lại chiếc xe tải.

Chiếc thang, chiếc búa và ba cái đinh còn thừa là những thứ cuối cùng được cất vào xe. Ông đại tá lái chiếc xe cẩu về đúng nơi ban đầu, trong khi anh chàng thợ mộc và anh chàng thợ đúc leo vào trong xe tải. Anh chàng kỹ sư mở cửa nhà kho rồi đứng tránh sang một bên để ông đại tá lái xe ra ngoài. Ông này để nổ máy chờ người cấp phó khóa cửa lại rồi lên ngồi vào buồng lái bên cạnh ông.

Ông đại tá lái xe chạy thong thả dọc theo bến tàu cho tới khi đến khu văn phòng hải quan. Ông xuống xe, đi bộ vào trong và trao lại chìa khóa nhà kho cho người nhân viên có ba sọc bạc trên ống tay áo.

“Cảm ơn ông, Gareth,” ông đại tá nói. “Tôi biết Sir Alan sẽ hết sức biết ơn, và chắc hẳn sẽ đích thân cảm ơn ông khi tất cả chúng ta gặp nhau trong bữa tiệc hàng năm vào tháng Mười.” Người nhân viên hải quan cúi chào trong khi đại tá Scott-Hopkins bước ra khỏi phòng làm việc của ông này, leo lên ngồi lại sau vô lăng chiếc xe tải Bedford màu trắng, xoay chìa khóa điện rồi nổ máy lên đường trở về London.

Sau khi được thay lốp mới, chiếc xe tải của Sotheby's chạy tới bến tàu muộn hơn dự kiến chừng bốn mươi phút.

Khi người lái đưa chiếc xe tải nhỏ dừng lại bên ngoài nhà kho số 40, anh ta ngạc nhiên thấy một tá nhân viên hải quan đang đứng quanh kiện hàng anh ta tới để lấy.

Anh ta quay sang người đồng hành với mình và nói, “Có chuyện rồi, Bert”.

Trong khi hai người họ xuống khỏi xe, một chiếc xe nâng hàng nâng kiện hàng đồ sộ lên, và với sự hỗ trợ của một số nhân viên hải quan, quá đông theo quan điểm của Bert, chuyển kiện hàng lên thùng sau chiếc xe tải. Một quá trình bàn giao vốn bình thường phải mất vài giờ được hoàn tất trong hai mươi phút, kể cả thủ tục giấy tờ.

“Trong cái thùng đó có thể là thứ gì nhỉ?” Bert hỏi khi họ lái xe đi.

“Sao tôi biết được,” người lái xe nói. “Nhưng đừng phàn nàn, vì bây giờ chúng ta sẽ trở về đúng giờ để nghe Henry Hall's Guest Night trên Home Service.” Sebastian cũng ngạc nhiên trước sự chóng vánh và hiệu quả của toàn bộ quá trình. Cậu chỉ có thể phỏng đoán rằng hoặc bức tượng phải rất giá trị, hoặc Don Pedro có sức ảnh hưởng tại Southampton cũng mạnh mẽ như tại Buenos Aires.

Sau khi cảm ơn người nhân viên hải quan có ba sọc bạc trên ống tay áo, Sebastian quay trở lại cửa ra bến tàu, tại đây cậu gia nhập cùng vài hành khách còn sót lại đang đợi tại điểm kiểm soát hộ chiếu. Một con dấu đóng lên quyển hộ chiếu đầu tiên khiến cậu mỉm cười, nhưng nụ cười đó biến thành nước mắt khi cậu bước vào sảnh đón và được bố mẹ tới chào đón. Chàng trai bày tỏ nỗi ân hận của mình, và chỉ sau giây lát mọi thứ giống như thể cậu chưa bao giờ đi xa. Không lời răn dạy hay lên lớp nào, điều chỉ khiến cậu thấy thêm phần có lỗi.

Trên đường trở lại Bristol, cậu có quá nhiều điều để kể với bố mẹ: Tibby, Janice, Bruno, ông Martinez, công chúa Margaret, ngài đại sứ và người nhân viên hải quan đều xuất hiện, chàng trai quyết định không đả động gì tới Gabriella - cậu sẽ dành cô nàng này cho Bruno.

Khi xe chở họ chạy qua cổng Manor House, điều đầu tiên Sebastian thấy là Jessica đang chạy tới chỗ họ.

“Anh chưa bao giờ nghĩ mình sẽ nhớ em,” cậu nói trong lúc bước ra khỏi xe và ôm chầm lấy cô bé.

Chiếc xe tải của Sotheby's rẽ vào phố Bond ngay sau bảy giờ. Người lái xe không ngạc nhiên khi thấy sáu người khuân vác đang chờ sẵn trên vỉa hè. Cho dù tất cả đều đang làm thêm giờ, họ vẫn nóng lòng muốn được về nhà.

Ông Dickens, phụ trách Ban Chủ nghĩa Ấn tượng, giám sát quá trình vận chuyển kiện hàng từ ngoài đường vào kho trong nhà đấu giá. Ông ta kiên nhẫn chờ khi những tấm ván gỗ được phá ra và đống phoi bào được dọn đi, để ông ta có thể kiểm tra số trong tập ca-ta-lô khớp với số trên bức tượng. Ông ta cúi xuống để nhìn số “6” khắc lên mặt đồng thau bên dưới chữ ký của Auguste Rodin. Mỉm cười, ông ta đánh dấu lên tờ biên bản.

“Cảm ơn rất nhiều, các chàng trai,” ông ta nói. “Giờ tất cả các anh có thể về nhà. Tôi sẽ xử lý các giấy tờ vào buổi sáng.”

Là người cuối cùng rời khỏi tòa nhà vào tối hôm ấy, ông Dickens khóa cửa trước rồi đi bộ về hướng nhà ga Green Park. Ông ta không để ý thấy một người đàn ông đang đứng trên lối vào hiệu đồ cổ ở bên kia đường.

Khi ông Dickens đã đi khuất khỏi tầm mắt, người đàn ông nhô ra khỏi bóng tối và đi bộ tới bốt điện thoại gần nhất trên phố Curzon. Ông đã có sẵn bốn penny, như thế đấy, ông không để chuyện gì cho may rủi. Ông quay một số điện thoại đã thuộc lòng. Khi nghe thấy một giọng nói vang lên ở đầu dây bên kia, ông bấm nút A và nói, “Một Người suy tư trống rỗng trải qua buổi đêm ở phố Bond, thưa ngài”.

“Cảm ơn ông, đại tá,” Sir Alan nói, “và có một vấn đề khác tôi cần ông xử lý. Tôi sẽ liên lạc”. Đường dây im bặt.

Sau khi chuyến bay số 714 của BOAC từ Buenos Aires hạ cánh xuống Cảng hàng không London vào sáng hôm sau, Don Pedro không hề thấy ngạc nhiên khi tất cả vali của ông ta và của Diego đều bị mở ra, bị mấy nhân viên hải quan nhiệt tình thái quá kiểm tra đi kiểm tra lại. Khi cuối cùng họ đánh một dấu chữ thập bằng phấn vào bên thành kiện hành lý cuối cùng, Martinez cảm nhận sự thất vọng trong hàng ngũ nhân viên hải quan khi ông ta và con trai đi ra khỏi cảng hàng không.

Khi hai bố con đã ngồi lên băng ghế sau của chiếc Rolls-Royce và đang trên đường tới Quảng trường Eaton, Don Pedro quay sang Diego và nói, “Tất cả những gì con cần nhớ về người Anh là họ thiếu trí tưởng tượng”.

1* Special Air Service (SAS) là một đơn vị lực lượng đặc biệt của quân đội Anh. Đơn vị này đảm nhận một số vai trò bao gồm trinh sát bí mật, chống khủng bố, hành động trực tiếp và giải cứu con tin.