← Quay lại trang sách

Chương 1

29 tháng Sáu 2004

Chúng ta ai cũng bị ám ảnh. Không phải bởi những tiếng động bí hiểm hay những bóng đén thoáng hiện thoàng mất, lại càng không phải bởi những kỵ sĩ không đều hay những bà hoàng khóc than ai oán - bước chân của những bóng ma có thật luôn vang vọng trên những bức tường thành của ký ức, mãi mãi thì thầm: Hãy nhớ tới tôi. Tôi bắt đầu hiểu ra điều này khi đang ngồi một mình trong ánh hoàng hôn trên một quả đồi nhìn xuống London. Dưới chân tôi, Hampstead Heath hòa lẫn vào khoảng không gian rộng mênh mông màu xám bạc của thành phố phía dưới. Một chiếc hộp nhỏ bọc giấy lụa vàng có buộc nơ sáng ánh lên mờ mờ nằm trên đầu gối tôi. Trong những tia sáng ban ngày cuối cùng, những họa tiết hình dây nho và lá, hay cũng có thể là hình mặt trăng và các vì sao, nổi lên trên bề mặt giấy.

Tôi áp cả hai lòng bàn tay ôm lấy chiếc hộp nâng lên. “Cái gì đây?” Tôi đã hỏi câu này trước đó trong ngày, giọng nói của tôi vang vọng dãy hành lang thấp ở nhà hát Quả cầu, nơi tôi đang đạo diễn vở Hamlet . “Một lời xin lỗi? Một sự mua chuộc?”.

Rosalind Howard, giáo sư về Shakeapeare của trường Harvard, con người lập dị với vẻ ngoài lòe loẹt - sự pha trộn giữa một chiến binh Amazon, một bà mẹ và một bà hoàng digan - nghiêng người về phía tôi, “Một cuộc phiêu lưu. Và cũng là một bí mật”.

Tôi luồn ngón tay xuống dưới sợi dây buộc, nhưng Roz đã ngăn tôi lại, đôi mắt màu lục của bà chăm chú nhìn vào khuôn mặt tôi. Bà đã ở tuổi ngũ tuần, mái tóc sẫm màu cắt ngắn đến mức trông như của một cậu bé; đôi hoa tai dài lóng lánh đu đưa dưới đôi tai bà. Một tay bà cầm chiếc mũ rộng vành màu trắng gắn những bông mẫu đơn băng lụa đỏ thắm - một món đồ kỳ dị như thể vừa được lôi ra từ những ngày đầy mê hoặc của Audrey Hepburn và Grace Kelly. “Nếu cô mở cái hộp, cô phải đi tới nơi nó dẫn cô”.

Đã có thời bà là người đỡ đầu, đồng thời cùng là thần tượng của tôi, rồi sau đó gần như thành người mẹ thứ hai. Khi bà đóng vai sư phụ, tôi là người đồ đệ ngoan ngoãn - cho tới ngày tôi quyết định rời trường đại học chuyển sang nhà hát ba năm trước. Chúng tôi đã có va chạm từ trước khi tôi quyết định ra đi, nhưng chính quyết định này dã cắt đứt hoàn toàn quan hệ giữa tôi và Roz. Roz nói thẳng rằng bà coi việc tôi chạy trốn khỏi tòa tháp ngà của trường đại học là sự phản bội. “Thoát thân” là cách tôi nghĩ về sự ra đi của mình; “lẩn trốn” là từ mà tôi nghe nói bà ưa dùng. Nhưng dù sao cũng chỉ là nghe nói. Suốt quãng thời gian đó, tôi đã không nhận được một từ thể hiện sự ân hận hay muốn làm lành từ phía bà, cho tới khi bà xuất hiện không hề báo trước vào chiều hôm đó. Tôi miễn cưỡng cho buổi tập tạm nghỉ mười lăm phút. Tôi tự nhủ thế đã là nhiều hơn những gì bà có quyền mong đợi.

“Bà đã đọc quá nhiều truyện cổ tích.” Tôi trả lời lớn tiếng, đẩy chiếc hộp trở lại mặt bàn. “Trừ khi cái hộp liên quan trực tiếp đến buổi tập, tôi không thể chấp nhận.”

“Kate bốc đồng,” bà vừa nói vừa mỉm cười buồn bã. “Không thể hay không muốn?”

Tôi vẫn ướng bướng im lặng.

Roz thở dài. “Mở hay không thì tùy, nhưng tôi muốn cô nhận nó”.

“Không”.

Bà ngẩng đầu lên quan sát tôi. “Tôi đã tìm thấy một thứ, cô bé đáng yêu ạ. Một thứ rất lớn lao”.

“Tôi cũng vậy”.

Bà nhìn quanh nhà hát, những dãy lan can bằng gỗ sồi cao ba tầng uốn cong quanh phần sàn phẳng nhô ra của khu vực sân khấu được dát vàng và lát đá cẩm thạch lộng lẫy nằm ở đầu đối diện của nhà hát. “Được đạo diễn Hamlet ở nhà hát Quả cầu, tất nhiên là không đơn giản rồi. Nhất là với một người Mỹ trẻ tuổi - lại là phụ nữ. Đám đông hợm hĩnh nhất hành tinh, nhà hát Anh quốc. Không thể nghĩ tới một ai khác, tôi thích làm bừng tỉnh thế giới nhỏ bé thiển cận của họ hơn”. Đôi mắt bà quay lại nhìn tôi, liếc nhanh gói quà đang nằm giữa hai chúng tôi. “Những thứ này quan trọng hơn nhiều”.

Tôi nhìn bà nghi ngờ. Có phải bà thực sự muốn tôi rời bỏ Quả cầu để đi theo bà mà chỉ dựa vào vài lời bóng gió lửng lơ và sức hấp dẫn của một chiếc hộp nhỏ bé bọc giấy lụa vàng?

“Đó là cái gì vậy?” tôi hỏi.

Bà lắc đầu. “Nó nằm trong ký ức đã được đóng kín của tôi, và chính cô sẽ giữ chìa khóa của nó”.

Ophelia, tôi than thầm. Từ cô ta, mình đã trông đợi Hamlet, vai diễn chính, và từ sân khấu trung tâm mỗi buổi diễn. “Bà có thể ngừng nói năng khó hiểu như vậy trong hai phút liên tục được không?”

Bà ra hiệu về phía cửa, khẽ hất đầu. “Hãy theo tôi”.

“Tôi đang dở buổi tập”.

“Tin tôi đi.” bà nói, cúi người về phía trước, “Cô sẽ không phải hối tiếc đâu”.

Cơn giận bùng lên, tôi bật dậy đột ngột đến mức làm mấy cuốn sách rơi khỏi bàn.

Vẻ xa cách biến mất khỏi đôi mắt bà. “Tôi cần sự giúp đỡ, Kate”.

“Bà hãy nhờ người nào khác”.

“Tôi cần cô giúp”.

Cần tôi giúp? Tôi cau mày. Roz có vô số bạn bè trong giới nghệ sĩ; bà không cần phải tới gặp tôi để hỏi về Shakespeare trên sân khấu. Chủ đề khác duy nhất mà bà quan tâm đến và tôi biết rõ hơn bà đang nằm giữa chúng tôi như một bãi mìn: bản luận văn của tôi. Tôi đã viết về phần huyền bí của Shakespeare. Nghĩa cũ của từ “bị che khuất”, tôi đã luôn phải vội vàng chú thích thêm. Không đầy vẻ ma lực đen tối như những từ “bị che giấu”, “tối tăm”, “bí mật”. Đặc biệt, tôi đã nghiên cứu về những cuộc truy tìm lại lùng, phần lớn diễn ra từ thế kỉ mười chín, để tìm ra những hiểu biết bí mật được mã hóa trong các tác phẩm của thi sĩ lừng danh này. Giống như tôi, Roz cũng thấy đề tài này thú vị và lôi cuốn - thậm chí bà đã tuyên bố công khai như vậy. Nhưng tôi được kể lại bà đã ngấm ngầm phá hoại nghiên cứu của tôi, cho rằng không đáng được coi là học thuật chân chính. Và bây giờ bà muốn tôi giúp đỡ?

“Tại sao?” tôi hỏi. “Bà đã tìm ra điều gì vậy?”

Bà lắc đầu. “Không phải ở đây.” bà vội hạ giọng ngăn tôi lại. “Khi nào cô xong việc?”

“Khoảng tám giờ”.

Bà ghé lại sát tôi hơn. “Vậy hãy gặp tôi lúc chín giờ, trên đỉnh đồi Parliament”.

Vào giờ đó trời đã nhá nhem, ở một trong những điểm vắng vẻ nhất London. Không phải là thời điểm an toàn nhất để có mặt ở Heath, nhưng là một trong những thời điểm đẹp nhất. Trong lúc tôi do dự, dường như sự sợ hãi thoáng xuất hiện trên khuôn mặt Roz. “Xin cô đấy”.

Thấy tôi không trả lời, bà đưa tay ra, và trong khoảnh khắc tôi nghĩ bà muốn lấy lại chiếc hộp, nhưng thay vì thế bà đưa một ngón tay lên chạm vào tóc tôi. “Cũng với mái tóc đỏ và đôi mắt đen của Boleyn,” bà lẩm bẩm. “Cô có biết cô đặc biệt có dáng vẻ hoàng tộc khi nổi giận không?”

Đó là một câu đùa cũ - rằng tôi có một số nét giống Nữ hoàng. Không phải Nữ hoàng Elizabeth hiện tại, mà là bà hoàng đầu tiên mang tên này. Nữ hoàng vào thời của Shakespeare. Không chỉ mái tóc đỏ nâu và đôi mắt đen của tôi làn nên sự tương đồng đó, mà cả sống mũi hơi khoằm và làn da trắng điểm tàn nhang vì nắng. Đôi lần, bản thân tôi cũng thoáng nhận ra những điều này trong gương - nhưng tôi không bao giờ thích sự so sánh hay những gì dính dáng đến điều ấy. Cha mẹ tôi qua đời khi tôi mười lăm tuổi, và tôi sống với một bà bác. Từ đó trở đi, phần lớn cuộc đời tôi trôi qua bên những người phụ nữ lớn tuổi độc đoán, và tôi luôn thề sẽ không kết thúc giống như họ. Vì thế tôi thích nghĩ rằng tôi chẳng có gì nhiều tương đồng với bà hoàng tàn nhẫn của dòng họ Tudor, ngoài sự thông minh và đam mê với Shakespeare.

“Được,” tôi nghe thấy mình trả lời, “đồi Parliament lúc chín giờ”.

Roz lúng túng hạ tay xuống. Tôi nghĩ bà không hoàn toàn tin tôi lại nhượng bộ dễ dàng như vậy. Chính tôi cũng không tin nổi. Những cơn giận của tôi đã qua đi.

Loa thông báo kêu lạch tạch. “Thưa quý bà, quý ông,” giọng người phụ trách sân khấu vang lên, “vào vị trí tập trong năm phút nữa”.

Các diễn viên bắt đầu tụ tập vào khoảng sáng của sàn diễn. Roz mỉm cười đứng dậy. “Cô phải quay lại với công việc, còn tôi thì cần phải đi thôi”. Ký ức chợt tràn về, tôi như thấy thoáng hiện lên những màn đối đáp sắc sảo dí dỏm giữa chúng tôi trước đây. “Hãy giữ nó an toàn, Kate”, bà nói và nhìn chiếc hộp lần cuối. Sau đó bà quay đi.

Đó là nguyên do tại sao vào lúc cuối ngày tôi tới ngồi trên một băng ghế trên đỉnh đồi Parliament, làm chính việc mà tôi đã từng thề sẽ không bao giờ làm nữa: chờ đợi Roz.

Tôi vươn vai ngắm nhìn phong cảnh trải rộng phía xa. Bất chấp hai ngọn tháp nhọn hoắt của Canary Wharf ở phía đông và một nhóm nữa ở giữa thành phố, London nhìn từ trên ngọn đồi này thật thanh lịch, chính giữa là mái vòm của nhà thờ Thánh Paul, thành phố trông giống như chiếc tổ chim khổng lồ nâng niu một quả trứng tỏa sáng rực rỡ. Suốt một giờ qua, dòng người liên tục qua lại con đường phía dưới. Nhưng không có ai ngẩng đầu nhìn lên phía tôi trong khi rảo bước qua bãi cỏ với dáng đi ngạo mạn của Roz. Bà đang ở đâu?

Và bà hi vọng vào điều gì? Không ai đầu óc bình thường có thể tưởng tượng tôi sẽ từ bỏ công việc đạo diễn vở Hamlet tại nhà hát Quả cầu. Chưa đến ba mươi tuổi, người Mỹ, và trước nhất lại được đào tạo để làm một học giả, tôi có thể hình dung mình chính là hiện thân của sự đối lập với những gì mà những bậc lão làng của sân khấu Anh quốc có thể coi là lý tưởng cho một đạo diễn sân khấu. Lời đề nghị tiếp nhận Hamlet - viên ngọc quý giá nhất gắn trên vương miện của nền sân khấu Anh - có vẻ như một món quà từ trên trời rơi xuống. Đến mức tôi đã ghi lại lời nhắn qua điện thoại của ông giám đốc nghệ thuật nhà hát Quả cầu, đánh vần nhẩm lại từng từ. Đến tận bây giờ mỗi buổi sáng tôi vẫn bật lại giọng nói giật cục cấm cẳn của ông ta chỉ để tự thuyết phục mình. Với tâm trạng lâng lâng như thế, tôi chẳng quan tâm nhiều đến chiếc hộp cho dù nó có chứa bản đồ của Anlantis hay đầu mối dẫn tới chiếc rương Thánh tích. Hiển nhiên ngay cả khi tự tin vào mình nhất Roz cũng không thể trông đợi tôi đánh đổi chức danh “chỉ đạo diễn xuất” của mình lấy bất cứ bí mật nào, dù lớn hay nhỏ, mà nà đã trao cho tôi giữ.

Vở diễn sẽ bắt đầu ra mắt công chúng trong ba tuần nữa. Là đạo diễn, tôi phải tách mình ra khỏi mối quan hệ đồng nghiệp giữa các diễn viên và nhân viên, và đứng bên ngoài, nhường vở diễn lại cho các diễn viên. Trừ khi tôi dự định điều gì khác cho mình.

Chiếc hộp lóe sáng trên đầu gối tôi.

Được thôi, nhưng chưa phải bây giờ, tôi sẽ nói với Roz. Tôi sẽ mở món quà chết tiệt của bà khi tôi đã xong việc với Hamlet. Đó là trong trường hợp bà chịu xuất hiện để trả lời.

Dưới chân đồi, đèn lác đác bật sáng trong khi màn đêm lan ra trên thành phố như một đợt thủy triều đen. Buổi chiều trời rất nóng, nhưng trong màn đêm không khí bắt đầu se lạnh, và thật may tôi đã mang theo một chiếc áo khoác. Tôi đang mặc áo khoác vào thì nghe thấy tiếng cành cây gãy sau lưng mình, đâu đó phía trên đồi; cùng lúc, cảm giác có những cặp mắt đang quan sát mình khiến tôi ớn lạnh dọc sống lưng. Tôi đứng dậy quay lại nhìn, nhưng màn đêm đã buông xuống phủ dày lên rặng cây viền quanh đỉnh đồi. Không có gì chuyển động, có lẽ trừ gió thôi qua các hàng cây, “Roz?”

Không ai trả lời.

Tôi quay lai, nhìn quanh phía dưới đồi. Không có ai ở đó, nhưng dần dần tôi cảm nhận được những chuyển động trước đó tôi không phát hiện ra. Ở dưới ngọn đồi phía xa, phía sau nhà thờ Thánh Paul, một cuộn khói trắng đang chậm chạp bốc lên trời. Hơi thở của tôi nghẹn lại trong cổ họng. Phía sau nhà thờ Thánh Paul, nằm bên bờ nam sông Thames chính là nhà hát Quả cầu vừa được xây lại, tường trát vữa trắng với những tấm gỗ sồi đặt bắt chéo, mái lợp rạ rất dễ bắt lửa. Trên thực tế chính vì vậy đây là mái nhà lợp rạ đầu tiên được cho phép tồn tại ở London kể từ trận hỏa hoạn lớn đã bùng phát gần ba thế kỉ rưỡi trước, để lại thành phố trong tro tàn và những đống đổ nát bốc khói.

Tất nhiên khoảng cách rất dễ gây nhầm lẫn. Đám khói có thể bốc lên cách nhà hát năm dặm về phía nam hay một dặm về phía đông.

Cột khói ngày càng dày hơn, bốc lên cuồn cuộn, màu chuyển xám rồi đen kịt. Một cơn gió đang thổi bùng đám cháy lên; ở giữa cuộn khói nhấp nhoáng những lưỡi lửa đỏ chói. Nhét món quà của Roz vào áo khoác, tôi sải bước xuống đồi. Khi xuống tới con đường bước chân của tôi đã chuyển sang nhịp chạy.