Chương 2
Chạy vội ra tàu điện ngầm, tôi gọi điện cho bất cứ ai chợt nhớ ra, những người có thể biết điều gì đó. Vô ích. Tôi toàn rơi vào hộp thư thoại. Sau đó tôi lao xuống cầu thang dẫn tới đường tàu điện ngầm London, nơi điện thoại di động không có sóng.
Do vội đi gặp Roz sau buổi tập, tôi đã không làm những việc kiểm tra cuối ngày như thường lệ. Liệu tôi có quên tắt chiếc đèn trên bàn làm việc của mình? Có thể tôi đã làm nó bị đổ xuống, làm đống giấy tờ của tôi bị hun nóng âm ỉ rồi đợi đến lúc mọi người đã về mới bùng cháy? Nhà hát đã một lần bị cháy trước đây do sự bất cẩn, vào cuối đời Shakespeare. Nếu tôi nhớ không lầm, lần đó tất cả mọi người đã kịp chạy ra ngoài trừ một đứa trẻ.
Chúa ơi. Liệu tất cả mọi người có kịp ra ngoài không?
Xin đừng là Quả cầu, xin đừng là Quả cầu, tôi thầm cầu nguyện theo nhịp bánh tàu. Khi tôi vôi vã leo hai bậc cầu thang một để ra khỏi ga St Paul, trời đã tối hẳn. Chạy theo đường hẻm, tôi đi tới một đường cắt ngang rộng. Trước mặt tôi cả tòa nhà nhờ đứng sừng sững như tượng nhân sư, che khuất lối ra bờ sông. Quay sang phải, tôi bắt đầu chạy, lướt qua hàng rào sắt bao quanh khuôn viên nhà thờ, những bụi cây bám vào bờ tường. Rẽ trái vòng qua lối vào chính có hàng cột và bức tượng Nữ hoàng Anne quay mặt về hướng tây nhìn xuống Ludbate Hill. Lại rẽ trái lần nữa, vòng qua mặt nam của nhà thờ với một cổng vòm rộng hướng tới một lối đi mới được mở qua đống đổ nát thời trung cổ của London, mở ra một tầm nhìn rộng suốt từ nhà thờ xuống tận bờ sông. Tôi vòng qua góc đường và dừng lại.
Lối đi dẫn xuống phía sông; phía cuối đường là cầu bộ hành Millennium hình cánh cung bắc qua sông Thames tới khu nhà gạch thấp tè như pháo đài của Tate Modern bên bờ nam. Tôi vẫn chưa trông thấy nhà hát Quả cầu nằm bên trái bảo tàng; tôi chỉ nhìn thấy được khu nhà trung tâm của Tate, trông giống trạm điện như chức năng thuở ban đầu hơn là ngôi đền của nghệ thuật hiện đại như vai trò hiện nay. Chiếc ống khói cũ kĩ của khu nhà chĩa thẳng lên trời đêm; phần trên mới xây dựng của khu nhà, với kiến trúc bằng kính màu xanh lá cây và thép sáng lấp lánh như một thủy cung. Tất cả sáng rực lên trên nền của một quầng sáng màu da cam khủng khiếp.
Sau khi đêm xuống, khu vực này của London - khu thành phố theo đúng nghĩa, trung tâm tài chính của nước Anh - đáng lẽ đã hầu như vắng tanh, nhưng xung quanh tôi lúc này từng đoàn người đang ùn ùn đổ tới, hối hả chạy xuống bờ sông. Tôi nhập vào họ, cố lách qua đám đông dày đặc. Những luống hoa và băng ghế vụt trôi qua. Một quán rượu cũ kỹ hiện ra phía bên phải, bên trái là những văn phòng hiện đại. Chạy cắt ngang con đường hẻm là phố Victoria, lúc này đầy nghẹt xe. Luồn giữa những chiếc taxi màu đen và những chiếc xe bus hai tầng sơn đỏ, tôi tiếp tục chạy.
Sau đó vài mét, con phố thu hẹp lại. Một đám đông chật ních đến ngột ngạt đang chen chân lên cầu Milennium để quan sát đám cháy. Tim tôi như ngừng đập; tôi sẽ không bao giờ chen qua được. Tôi ngoái nhìn phía sau. Đám đông đã bao kín quanh tôi; trừ khi mọc cánh, tôi chẳng thể đi đâu được.
Một tiếng động trầm rung rung vọng từ bên kia sông sang, từ phía bên trái khói ùn ùn đùn lên bầu trời, kéo theo trận mưa những tia lửa. Như một làn sóng, đám đông ồ lên dồn về phía cầu cuốn theo cả tôi. Một khoảng trống thoáng hé ra ở bên phải, và tôi nhìn thấy những bậc thang thấp dẫn xuống phía dưới. Tôi lách ra rìa đám đông và cuối cùng cũng thoát ra ngoài, nửa lao nửa trượt xuống những bậc tam cấp.
Cuối cùng tôi dừng lại ở đầu cầu thang nằm dưới cây cầu ba mét, nhìn chằm chằm sang bờ đối diện, miệng há hốc. Nhà hát Quả cầu đang bốc cháy. Khói đùn ra như những dòng máu đen sậm chạy dọc các bức tường; khói bốc lên trời dày đặc. Qua làn khói, những quầng lửa đỏ, da cam, vàng đủ hình dạng - lúc cuốn xoắn ốc, lúc chạy thành băng dài, lúc tuôn ra như vòi phun nước không ngừng vào màn đêm.
Điện thoại reo lên trong túi tôi. Đó là Henry Lee, một trong những bậc lão làng của sân khấu Anh, đang tham gia vào vở diễn của tôi trong vai hồn ma người cha của Hamlet. “Kate!” ông kêu lên khi tôi bật máy trả lời. “Cảm ơn Chúa!” Trong máy, tôi nghe thấy tiếng còi cứu hỏa vang lên inh ỏi. Ông ấy đang ở đó.
Sự lo lắng lại trỗi dậy trong tôi. “Mọi người đều thoát ra được chứ?”
“Cô đang ở…?”
“Mọi người đều thoát ra được chứ?”
“Ừ,” ông bực bội đáp. “Tất cả đều ở ngoài. Cô là người cuối cùng được tìm thấy đấy. Cô đang ở xó xỉnh nào thế?”
Tôi bực bội nhận ra những giọt nước mắt trộn lẫn kinh hoàng và nhẹ nhõm đang chảy xuống má. Tôi vội đưa tay lên lau nước mắt. “Ở nhầm phía bờ sông”.
“Chết tiệt. Cứ ở yên đấy”. Ông lấy tay che máy, và tiếng ồn cũng nhỏ dần.
Vừa qua tuổi sáu mươi. Henry đã nổi tiếng trên sân khấu và màn bạc từ hơn ba thập kỉ nay. Hồi còn trẻ, ông đã vào vai Achille, Alexander, và Arthur; đức Phật và đức Chúa; Oedipus, Caesar và Hamlet. Như một nhà thẩm mỹ theo trường phái cổ điển, ông ưa dùng Saville Row, Veuve Cliquot, và những chiếc Bentley có kèm tài xế riêng. Tuy thế quá khứ của ông gian khổ hơn nhiều và thỉnh thoảng ông lại mang nó ra khoe một cách thích thú. Ông là con cháu của những người lái thuyền trên sông Thames; những cánh tay vạm vỡ của tổ tiên ông đã miệt mài làm việc trên sông hàng thế kỉ, chở người và hàng ngược, xuôi và sang ngang. Cứ thử cứa vào người ông, ông thường nói với giọng hơi nặng của cầu tàu đã ăn sâu vào con ngườ ông từ thời trẻ, là sẽ thấy chảy ra dòng nước màu xanh đục của sông Thames. Cho dù uống khá nhiều, Henry vẫn có thể ẩu đả chẳng khác gì một cầu thủ bóng đá
Chúng tôi quen nhau sáu tháng trước, khi tôi vừa giành được cơ hội đạo diễn vở kịch ở một góc khuất nẻo khu West End; vào phút chót, ông đã miễn cưỡng đồng ý vào vai chính trong hai tuần để trả một món nợ nào đó với tác giả vở kịch. Chỉ sau vài ngày, ông bắt đầu gọi tôi là “cô bé người Mỹ xuất sắc đó”, một câu nói mà mỗi khi được dùng làm lời giới thiệu luôn khiến tôi lúng túng và đánh đổ thứ gì đó, thường là cà phê hay rượu vang đỏ, xuống ngay trước mặt mình. Vở kịch thật tồi tệ và kéo dài đúng hai tuần; tuy vậy ba ngày sau tôi nhận được cú điện thoại từ nhà hát Quả cầu. Tôi ngờ rằng đây không phải là trùng hợp ngẫu nhiên, nhưng Henry không bao giờ thừa nhận có can dự vào.
Ông lại hét tướng lên vào điện thoại: “Vớ vẩn, tôi đã nói với ông rồi, cô ấy sẽ ở đó… Xin lỗi nhé.” Ong nói với tôi, giọng dịu hẳn lại. “Tôi vừa được báo cho hay tất cả các cây cầu đều vô dụng rồi. Cô có thể thử đi xuống con đường đi bộ ven bờ sông không?”
“Nếu đó là nơi chiếc cầu thang ở dưới cầu Mellennium dẫn tới, thì chính là lựa chọn duy nhất của tôi”.
“Ở dưới…? Nhưng tuyệt quá! Xuống dưới chân cầu thang đi, cô bé yêu quý, và đi về phía đông. Tới chỗ hổng đầu tiên trên bức tường dẫn ra một bến tàu cũ. Cleopatra sẽ đón cô ở đó trong năm phút nữa”.
“Cleopatra?”
“Chiếc du thuyền mới của tôi”.
Con đường đi bộ ven sông vắng vẻ lạ thường. Ánh trăng đổ những bóng dài xuống phía trước mặt tôi; phía sau, tiếng la hét của đám đông ở bên trên có vẻ như đã xa và không còn rõ. Tôi rảo bước về hướng đông, bức tường lớn ven sông nằm sát bên vai phải, bên trái tôi là những chiếc xuồng đáy bằng đã hỏng nằm chất đống. Ánh sáng nhẹ nhàng tỏa ra từ những ngọn đèn gắn trên tường. Ngay gần, ở phía dưới, một bức tường đá mỏng hơn nhô ra khỏi khối tường bê tông dày. Có cầu thang đi lên rồi đi xuống qua bức tường xinh xắn này, dẫn vào một khu vườn đầy hoa mọc lộn xộn. Trên bức tường ở phía đối diện, một khoảng trống mở toang vào màn đêm. Vượt qua cảm giác sợ hãi vừa chợt xuất hiện, tôi đi tới rìa khoảng trống.
Không khí ẩm ướt mặn mùi muối xộc lên. Tôi rùng mình lùi lại. Nếu đúng là chỗ này thì Henry sẽ có mặt bất cứ lúc nào. Tôi trấn an mình, bước lại phía rìa lần nữa. Một chiếc thang dốc bằng gỗ, trơn nhẫy và đen xỉn lại vì rong tảo bám vào, bắc xuống phía dưới tối đen. Không có tay vịn. Đưa tay ra bám lấy đầu tường hai bên, tôi đặt một chân lên bậc thang trên cùng. Bậc thang gỗ kêu răng rắc, nhưng vẫn chịu được sức nặng của cơ thể tôi. Tôi nhìn xuống dưới. Chiếc thang có vẻ như được gắn vào tường bằng những chiếc đinh cũ kỹ đến mức có khi được nhặt nhạnh từ những chiếc thập giá thời Roma. Chẳng có bến tàu nào cả; sau khi đi xuống chừng bốn mét rưỡi, chiếc thang chìm thẳng xuống nước.
Tôi cố nhìn qua sông sang phía bờ nam. Ngay phía dưới nhà hát Quả cầu, có cái gì đó đang di chuyển trên mặt sông tối đen. Chiếc Cleopatra chăng? Chắc chắn đó là một chiếc thuyền. Đúng rồi - nó đi thẳng tới chỗ tôi. Chắc chắn đúng rồi.
Lần từng bước một, tôi chậm chạp dò dẫm xuống thang cho tới khi chỉ còn cách mặt nước chừng một mét, mặt sông lúc này phẳng lặng như làm bằng thủy tinh sẫm màu. Thỉnh thoảng, vài vật gì đó không rõ bốc mùi khó chịu bập bềnh trôi từ phía trái sang phía phải, có nghĩa là thủy triều đang lên. Chống lại cảm giác chóng mặt, tôi đứng im đưa mắt nhìn qua sông. Ở giữa sông, mặt nước phản chiếu ánh sáng cả từ thành phố và đám cháy. Sau đó tôi nhận thấy một chuyển động khác. Chiếc thuyền của Henry đang chạy ngang qua sông. Nhưng khi tôi bắt đầu cảm thấy nhẹ nhõm thì chiếc thuyền lượn một vòng rộng, để lộ ra bên mạn phù hiệu trắng-đen của thuyền cảnh sát. Vậy là không phải Cleopatra. Chiếc thuyền cảnh sát lao vụt đi, biến mất dưới cầu Millennium.
Khi làn sóng do chiếc thuyền tạo ra đã lan tới tận bậc thang dưới cùng, làm mặt nước khẽ nhấp nhô thành đợt thì tôi nghe thấy một âm thanh nhỏ từ hướng khác vọng lại. Một tiếng động rất khẽ, có thể là tiếng bước chân, từ phía trên cầu thang. Một lần nữa, cảm giác có cặp mắt đang theo dõi khiến tôi nổi da gà. Có thể Henry đã buộc thuyền ở một bến thuyền tử tế nào đó rồi đi bộ đến tìm tôi. Tôi quay lại nhìn. Phía trên thang và khoảng tường thủng không có gì ngoài ánh trăng. “Ai đó?” tôi hỏi nhưng không ai trả lời.
Rồi tôi nghe thấy một tiếng động đã nghe nhiều lần trên sân khấu: tiếng soạt lạnh lẽo của một lưỡi kiếm được rút khỏi vỏ.
Tôi bước xuống bậc thang nữa. Rồi một bậc nữa. Bậc thang tiếp theo đã nằm dưới mặt nước.
Tôi ngoái lại nhìn sang bên kia sông. Không có chiếc thuyền nào khác trên mặt nước. Henry đang ở chỗ quái quỷ nào mới được chứ? Và lạy Chúa, tại sao tôi lại mò đến cái xó xỉnh vắng vẻ này một mình? Tôi không bao giờ có thể mơ tới điều tương tự khi còn ở New York hay Boston? Tôi đã nghĩ gì không biết nữa?
Tôi nhìn lại phía cũ. Tôi cố căng mắt nhìn vào màn đêm, nhưng người bí ẩn ở phía trên đã lặng lẽ biến mất - nếu thực sự lúc đầu có ai đó ở phía trên. Có thể thần kinh tôi quá căng thẳng. Có thể lắm.
Nhìn xuống thấp hơn một chút, tôi phát hiện ra có gì đó chuyển động gần mặt nước. Ở hai bên chiếc thang, những sơi xích sắt khẽ đung đưa va đập vào bức tường. Về phía đông, một chiếc thuyền nhỏ chèo tay đậu sát tường, đang bập bềnh theo dòng nước. Nếu tôi tới được chỗ chiếc thuyền đậu, tôi có thể chèo thoát khỏi chỗ này tới nơi an toàn.
Nhưng rồi tôi nhận ra nó không được buộc vào bờ. Neo của chiếc thuyền vẫn chưa được thả, nó đang dịch dần về phía tôi.
Tôi quay đầu nhìn sang bờ bên kia. Tôi đã rơi vào một cái bẫy; đường thoát duy nhất là con sông. Cúi xuống quan sát mặt nước đang dập đềnh ngay dưới bàn chân mình, tôi chợ nghĩ tới dòng chảy. Tôi có thể bơi qua được không? Hay tốt hơn nên nhẹ nhàng trườn xuống nước, để dòng nước đưa tôi đi dọc bức tường cho tới khi tìm thấy một chiếc thang khác.
Một lần nữa, tôi lại ngoái đầu nhìn dọc bức tường ven bờ sông. Tôi chỉ nhận ra lờ mờ hình dáng chiếc thuyền chèo tay, nhưng như thế cũng đã quá đủ. Nó đang tiến lại gần. Tôi liếc nhìn xuống bậc thang dưới chân mình và sờ tay vào túi áo, nhưng không tìm thấy thứ gì khả dĩ có thể dùng làm vũ khí. Chẳng có đoạn que hay cục đá nào cả; trong túi áo tôi chỉ có độc mấy đồng tiền xu và chiếc hộp màu vàng của Roz. Bí mật của bà.
Hãy giữ nó an toàn , bà đã nói vậy. Thế có nghĩa nó đang bị đe dọa? Hoặc bản thân tôi, chừng nào còn giữ nó, cũng sẽ không được an toàn?
Trời đánh cái hộp chết tiệt đó.
Tôi nghe thấy tiếng máy nổ - và từ dưới cầu Millennium xuất hiện thân hình trắng muốt bóng bẩy của một chiếc du thuyền. Chiếc Cleopatra! Cẩn thận không để mất thăng bằng trong tư thế chông chênh hiện tại của mình, tôi đưa một tay lên vẫy. Trong một lúc lâu, không thấy ai trả lời. Rồi Henry xuất hiện ở giữa chiếc du thuyền và vẫy tay đáp lại.
Phía sau lưng tôi về bên trái, tôi cảm thấy chiếc thuyền chèo tay dừng lại hơn là nhìn thấy; nước sông khẽ vỗ vào thân thuyền. Chiếc Cleopatra rồ máy chạy tới gần hơn, át hết mọi âm thanh khác cho tới khi người lái thuyền của Henry tắt máy. Đúng lúc đó, tôi nghe thấy tiếng kêu răng rắc do vật gì nặng đè lên bậc thang trên cùng. Liếc nhìn lại phía sau, tôi thoáng nhìn thấy ánh thép.
Tôi vội vã nhảy xuống chiếc Cleopatra và ngã nhào ra sàn thuyền ngay dưới chân Henry.
“Cô không sao chứ?”, Henry hỏi lớn tiếng.
Lồm cồm đứng dậy, tôi vẫy tay ra hiệu cho ông. “Đi ngay”. Henry gật đầu, người lái thuyền mở máy chạy lùi ra. “Ông đã ở đâu vậy?” Tôi hổn hển hỏi khi chúng tôi lùi thuyền vòng lại. “Tôi cứ nghĩ ông ở chỗ nhà hát”.
“Sao cô nghĩ thế?” Henry hỏi, kéo tôi ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh ông.
“Tôi nghe thấy tiếng còi. Trong điện thoại”.
Ông lắc đầu. “Tất cả còi ở London đều rít lên như thế trong một tiếng đồng hồ vừa qua, cô bé thân mến à. Không, tôi đang dự một buổi chiêu đãi nhạt nhẽo ở tận trên thượng nguồn sông cơ. Tuy thế cuối cùng buổi tiệc có vẻ cũng thú vị.” ông nói, đồng thời quan sát đám đông trên cầu. “Phần lớn mọi người đã quên điều này, nhưng ocn sông vẫn là đường tuyệt vời nhất để đi qua thành phố.”
Khi việc buôn bán trên sông bắt đầu suy thoái sau Thế chiến thứ hai, ông bố của Henry đã chìm trong men rượu, bị giày vò giữa bực bội và ân hận, cho tới một đêm dòng sông đã chấm dứt sự thống khổ của ông bằng cách đón nhận lấy con người khốn khổ này. Chàng trai trẻ Harry - như người ta gọi Henry lúc ấy - đã đi theo con đường khác: sử dụng vẻ đẹp đầy cuốn hút trong giọng nói và hình thể của mình để đem đến niềm vui cho công chúng. Ông bắt đầu với vai diễn các thủy thủ, rồi các chủ cho thuê nhà, nếm thử một chút kinh nghiệm với Hải quân Hoàng gia - ông thường thích bóng gió rằng ông có được vị trí của mình ở đó bằng cách đe dọa - rồi cuối cùng kết thúc trên sân khấu kịch như một ông hoàng. Không người nào đang sống lại hiểu rõ về mọi loại nhân vật của Shakespeare từ gái làng chơi đến vua chúa, hay những gam màu tính cách của họ - từ vinh quang tới bóng tối và ngược lại - như ông, và có lẽ cũng vì vậy mà ông diễn các vai đó sắc sảo hơn, nhiều đam mê hơn bất cứ ai khác tôi từng chứng kiến.
Đã một thập kỷ nay ông dần rút lui khỏi sàn diễn. Một số người nới ông đã cạn hứng. Một số khác nói ông muốn giữ lại hình ảnh của mình. Dù thế nào đi nữa, ông đã mệt mỏi với diễn xuất, và giờ đây ông quay trở lại. Ông đã từ chối những vai quan trọng như Claudius - kẻ xấu xa - và Polonius - kẻ ngu ngốc - dể nhận vai diễn khiêm tốn hơn, người cha của Hamlet, một người cha quá cố được yêu quý. Nói ngắn gọn hơn, ông hướng tới vai Prospero và Lear dưới sự chỉ đạo của các đạo diễn gạo cội như mình. Nhưng trước hết ông quyết định đóng một hồn ma trong vở diễn của tôi, một cách để làm nóng mình trong vai ông hoàng già nua. Một sự lựa chọn làm tôi vẫn chưa hết ngạc nhiên.
Chiếc Cleopatra bắt đầu lao thẳng đi lướt trên mặt nước. Tôi nhìn lại chiếc thang lần nữa. Không có ai ở đó, và chiếc thuyền chèo tay lại được buộc áp vào tường. Tôi đã ảo giác chăng khi cảm thấy nó di chuyển?
Ở khoảng tường trống ngay phía trên chiếc thang xuất hiện thân hình của một người. Bụng tôi như thắt lại. Đúng là đã có một người ở đó. Nhưng ai? Và tại sao?
Phía sau tôi, một tiếng gầm xé toang màn đêm, khi quay lại tôi thấy Quả cầu biến mất trong đám mây hơi nước ở phía bờ sông bên kia. Khi tôi ngoái nhìn về phía bờ sông vừa rời khỏi, người nọ đã biến mất trong bóng tối.