Chương 3
Gần như vô thức, bàn tay phải của tôi lại thọc sâu vào túi áo. Món quà của Roz vẫn còn đó. Tôi rùng mình, cho dù làn gió thổi tới nóng dần lên khi chúng tôi lao nhanh sang bờ nam. Khói và hơi nước trút xuống mặt nước như một màn sương mù dày đặc. Trong hình dung của tôi, Quả cầu vẫn lộng lẫy như trước, ngôi nhà nhỏ màu trắng nằm khoanh tròn thu mình như một chú thiên nga đang ngủ bên bờ sông. Thật ngớ ngẩn, tôi biết, đừng bận tâm đến đám cháy. Tòa nhà đủ lớn để chứa một nghìn sáu trăm khán giả. Thế nhưng với một số người, vẻ giả cổ của nó chỉ là vẻ hào nhoáng rỗng tuếch hơn là lạ mắt. Quán trà cũ Shakespeare , Roz gọi nó như vậy; bà chưa bao giờ bước chân tới nơi này trước buổi chiều hôm nay.
Nói đến Shakespeare, Roz hiếm khi sai lầm; nhưng lần này bà đã lầm. Dù bạn thích hay không, Quả cầu có ma lực cuốn hút kỳ lạ; ở đó lời thoại trở nên sống động với sức mạnh khác thường.
Chúng tôi hướng tới bến tàu. Làn khói tản ra và tan đí, để lộ ra trên bến Cyril Manningham, người chỉ đạo nghệ thuật đang sải bước đi đi lại lại như một chú chim nóng nảy với đôi chân sếu. “Mất rồi!” ông kêu lên khi chúng tôi bước lên bến. “Mất sạch rồi”. Phía trước tôi, Henry đứng sững người, còn trong lồng ngực của chính mình, tôi cảm thấy hy vọng đang vỡ nát thành từng mảnh vụn. Màn khói quẩn trở lại, và tôi nhìn thấy một người đội trưởng chữa cháy đội mũ đỏ và mặc bộ đồ màu xanh đậm nặng nề có dán những dải phản quang. “Cũng không xấu đến thế đâu” anh ta làu bàu. “Mặc dù tôi cũng không dám khoe là tất cả đều tốt đẹp. Các vị hãy đến mà xem đi”.
Chúng tôi theo sau anh ta đi nhanh lên bờ. Trong màn đêm, mọi ý nghĩ của tôi đều tập trung cả vào tòa nhà nằm phía trên kia. Những người thiết kế nhà hát Quả cầu mới đã cố hắng làm cho nó giống nguyên mẫu thời Shakespeare nhất có thể được, có nghĩa là xây toàn bộ nhà hát vòng quanh sân khấu, khoảng sàn rộng nằm ở một đầu của khoảng sân lộ thiên hình bát giác. Vòng quang khoảng sân là các hành lang mở về phía trong giống như một ngôi nhà búp bê ba tầng hẹp; mỗi tầng đều kê kín các dãy ghế băng bằng gỗ sồi nhìn qua lan can xuống sân.
Tất cả công trình này đều mang phong cách đơn giản có thể làm những người giáo phái Shaker cũng hài lòng - trừ phần sân khấu. Ở đó, từng khoảng nhỏ bề mặt gỗ và tường lộ ra ngoài được sơn trang trí giả cẩm thạch, thạch anh và đá porphyry, được chạm trỗ thành hình phụ nữ và các anh hùng, được mạ vàng ónh ánh. Phía trên vẻ lộng lẫy phô trương này, một cái nóc sơn hình các vì sao che mưa nắng cho các nghệ sĩ. Huyền thoại Nauy kể rằng bầu trời được chống đỡ bởi một cây tần bì; vì một số lý do tôi vẫn thấy thích bầu trời trong thiên đường của Shakespeare này dựa trên thân của hai cây sồi Anh khổng lồ. Không phải vì chúng còn ít nhiều giống với một thân cây. Được đặt tên là những cột trụ của Hercules, được chạm trỗ và sơn giả đá cẩm thạch, trông chúng giống với những cây cột của thành Persepolis trước khi bị Alexander Đại đế phóng hỏa thiêu rụi.
Bây giờ nhà hát trông ra sao đây?
Sau một ma trận các trạm gác và lều chỉ huy của cảnh sát, cuối cùng chúng tôi tới trước một bộ khung cửa hai cánh rộng. Tôi cau mày. Trông chúng giống khung cửa ra và chính của nhà hát. “Đành phải hy sinh những thứ khác.” người chỉ huy lính cứu hỏa nói, đưa ta vuốt lên mặt gỗ gần như cách một người thợ xây vuốt ve ngôi nhà do mình tạo nên. “Khu vực hành chính, khu bán vé, tiệm ăn - tất cả”. Anh ta quay lại phía chúng tôi, một tia hãnh diện mệt mỏi thoáng hiện trên khuôn mặt đỏ ửng. “Nhưng tôi nghĩ chúng ta đã cứu được Quả cầu”.
Cứu được Quả cầu?
Mở khung cửa đủ rộng để chúng tôi có thể đi qua từng người một, anh ta nhìn tôi gật đầu. “Can đảm lên!”, Henry nói, đưa tay lên siết chặt vai tôi. Lách qua cửa vào trong, tôi đi qua lối vào tới sân - và đứng chững lại như thể đụng phải bức tường kính. Tôi đã chuẩn bị tinh thần cho mình để nhìn thấy cảnh đổ nát; khung cảnh tôi trông thấy mang một vẻ đẹp thật huyền ảo.
Khói bốc lên thành cuộn xoắn ốc lướt qua sân khấu. Ở phía trước, những cột trụ của Hercules bám bồ hóng đen bóng. Trên mặt đất phía trước mặt tôi phủ một lớp nước mỏng. Từ phía trên đầu, tàn lửa chầm chậm rơi xuống la đà như một làn mưa những cánh hoa cháy sáng. Không những không trở nên một đống hoang tàn, nhà hát đã biến thành một thành đường lộng lẫy huyền bí với vẻ uy nghi pha lẫn âm u. Một nơi phù hợp cho các phù thủy, cho những cảnh đổ máu và cho những hồn ma.
Một mẩu giấy cháy dở bay lơ lửng qua trước mặt, tôi đưa tay bắt lấy - tờ bản thảo đạo diễn của tôi đã cháy mất phân nửa. Một dấu hiệu không mấy tốt lành. Tôi chạy lên cầu thang vào dãy hành lang dưới, tới chiếc bàn làm việc của mình. Nó đã bị lật nghiêng sang một bên, sách vở của tôi rơi thành đống xung quanh, một tàn lửa có lẽ đã rơi xuống bắt vào chúng, vì tất cả đều bị cháy một phần. Cuốn vở ghi bản thảo đạo diện của tôi nằm mở tung trên sàn, chiếc gáy xoắn bị bật tung. Các trang vở tung ra, bị gió thổi bay đi khắp nơi, rơi cả xuống nước. Tôi quỳ xuống, thu nhặt những gì còn lại. Một số trang giấy khác rải rác phía sau chiếc bàn. Tôi lần theo chúng và đứng sững lại, hít một hơi thật nhanh.
Trên sàn chỏng chơ chiếc mũ rộng vành màu trắng có gắn rải rác những bông mầu đơn màu đỏ bằng lụa trông như những vệt máu. Cách đó một quãng, tôi nhìn thấy một người nằm co quắp dưới băng ghế. Người phụ nữ này trông như đang ngủ, chỉ có điều đôi mắt người đó mở to. Đôi mắt của một bức tượng, trống rỗng và dữ dội, nhưng không phải bằng cẩm thạch trắng. Đó là một đôi mắt màu xanh lục, lẫn trong mái tóc ngắn sẫm màu như của một cậu bé.
“Roz!” Tôi kêu lên thảng thốt.
Henry xuất hiện sau lưng tôi; theo sau ông là Cyril. Chen lên phía trước tôi, Henry đặt hai ngón tay lên cổ bà; một lát sau, ông ngồi xuống lắc đầu, không nói gì.
Bà ta đã chết.