Chương 4
Từ trong lồng ngực tôi, một hơi thở vừa như tiếng nức nở, vừa như tiếng cười bật ra. Chiều hôm đó, tôi đã bất ngờ khi nhận ra tôi cao hơn Roz. Bao năm qua, bà sừng sững như một người khổng lồ trong trí tưởng tượng của tôi. Khi đã chết, trông bà thật nhỏ bé, gần như một đứa trẻ. Tại sao bà lại chết?
Tôi được kéo ra xa một dịu dàng nhưng kiên quyết. “Kate”, Henry nói, và tôi chợt nhận ra ông đã gọi tôi như thế ba lần liền. Tôi thấy mình đang ngồi trên bậc tam cấp dẫn từ sân lên sân khấu, hai tay ôm lấy đầu, toàn thân run rẩy. Một chiếc áo khoác được choàng lên vai tôi.
“Uống cái này đi.” Henry nói, ấn vào tay tôi một chiếc cốc bạc. Dòng whiskey nóng bỏng trôi xuống họng tôi, và tôi dần dần định thần lại. Phía bên kia sân, một dải màu trắng đã được vẽ viền quanh thi thể. Hànhlang tầng dưới đông chật nhân viên cứu hộ, lính cứu hỏa và cảnh sát. Hai người tách ra khỏi đám đông đi về phía chúng tôi, tiếng bước chân của họ lõm bõm trên làn nước đọng lại trên mặt đất. Một người là Cyril, tôi nhân ra ông ta qua cách đôi tay vung vẩy, và một người tôi không quen mặt, uyển chuyển và vạm vỡ, với làn da nâu của vùng Tây Ấn, đầu cạo nhẵn thín, hàng lông mày dày như hai làn sóng được vẽ bằng mực đen. Ông ta đang đánh dấu vào một hồ sơ.
“Katharine J. Stanley?” ông ta lên tiếng khi hai người dừng bước dưới chân bậc tam cấp. Đó là một lời tuyên bố, không phải một câu hỏi.
Tôi gật đầu.
“Thám tử, chánh thanh tra Francis Sinclair”, ông ta nói bằng giọng giới thiệu. Giọng ông ta nhẹ nhàng, lạnh lùng, cách phát âm chuẩn như một phát thanh viên BBC hơi đá chút âm hưởng vùng Caribe và vẻ bất cần của người Brixton. Ông quay lại với hồ sơ của mình. “Cô hiện đang đạo diễn Hamlet trên sân khấu này, và cô phát hiện ra thi thể khoảng hai mươi phút trước đây, trong lúc đang thu xếp tài liệu của mình”.
“Vâng, tôi đã tìm thấy Roz”.
Sinclair lướt qua trang hồ sơ của mình. “Người quá cố đã tới gặp cô chiều nay”.
“Bà ấy đã gặp tôi”, tôi đáp dứt khoát. “Chúng tôi nói chuyện, tôi đoán bà muốn tới gặp Henry, tôi không biết bà đã nán lại đây”.
Ông ta nhìn lên, đôi mắt hơi mở rộng trong chốc lát khi nhận ra Henry bên cạnh tôi. Sau đó ông quay lại hỏi tôi. “Cô có biết rõ bà ấy không?”
“Có. Không. Tôi không biết nữa.” Tôi nhấp thêm một ngụm whiskey. “Có nghĩa là tôi đã từng quen biết Roz. Nhưng đã ba năm nay tôi không gặp bà, cho tới tận chiều hôm nay. Chuyện gì đã xảy ra với bà ấy vậy?”
“Không phải do đám cháy. Ít nhất chúng tôi có thể chắc chắn về điểm này. Có lẽ là một cơn đau tim, hay cơn đột quỵ. Bà ấy có vẻ đã chết lập tức, chắc chắn là trước khi đám cháy xảy ra. Một sự trùng hợp không bình thường, và tất nhiên chúng tôi sẽ điều tra. Nhưng có vẻ khá đơn giản”. Viên thanh tra quay lại viết nguệch ngoạc lên hồ sơ.
Những ngón tay tôi siết chặt lấy chiếc cốc. “Đây không phải là sự trùng hợp”.
Henry và Cyril bỏ ngang cuộc tranh luận đang diễn ra giữa hai người, quay lại ngỡ ngàng nhìn chằm chằm vào tôi. Chiếc bút của Sinclair cũng ngừng viết, nhưng ông ta vẫn không ngẩng lên nhìn. “Điều gì làm cô nói như vây?”
“Bà ấy tới đẩy để nói cho tôi biết bà đã tìm thấy một thứ”, tôi nói thêm. “Và yêu cầu tôi giúp đỡ”.
Một lần nữa, Sinclair lại ngước mắt lên nhìn tôi. “Tìm thấy gì cơ?”
Trong túi áo tôi, chiếc hộp như choàng tỉnh. Một cuộc phiêu lưu , Roz đã nói vậy. Và cũng là một bí mật.
Ông ta không thể có nó, tôi thầm nghĩ đột ngột một cách hung tợn.
Viên thanh tra cúi người lại gần tôi. “Tìm thấy gì cơ, thưa cô Stanley?”
“Tôi không biết”. Lời nói dối bật ra; tôi hy vọng trông tôi lúc đó không hốt hoảng như tôi đang cảm thấy. Tất cả những gì tôi muốn, tôi tự nói với mình, là có cơ hội một mình mở món quà của Roz, có thêm một khoảnh khắc riêng tư nữa với bà. Để trân trọng bí mật của bà. Nếu có gì quan trọng, tôi sẽ giao nộp. Tất nhiên là thế. Nhưng chưa phải bây giờ.
Kéo cả hai chiếc áo khoác của tôi và của Henry sát hơn vào vai, tôi ngụy trang lời nói dối của mình dưới một lớp sự thật. “Bà ấy hứa sẽ nói cho tôi biết vào tối nay. Bà hẹ tôi tới gặp bà trên đồi Parliament, nhưng bà đã không bao giờ tới… Từ trên đồi tôi nhìn thấy khói và chạy trở lại đây”.
Đôi mắt của Sinclair tối sầm. “Vậy là giáo sư Howard nói cho cô biết bà ấy đã tìm thấy một thứ - mà cô không biết là gì - nhưng cô nghĩ có liên quan tới cái chết của bà ấy?”.
“Thật lố bịch”, Cyril bực bội quát lên.
“Im đi!”, Henry trừng mắt nhìn ông ta.
Tôi nhìn thẳng vào Sinclair. “Cí thể là như thế”.
Ông ta kiểm tra ghi chép của mình. “Bà ấy là giáo sư văn học đúng không nào? Không phải công nghệ sinh học hay vật lý hạt nhân”.
“Đúng thế”.
Viên thanh tra lắc đầu. “Tôi xin lỗi, nhưng cho dù bà ấy đã tìm ra cái gì đi nữa, thứ đó cũng khó có thể là động cơ để gây án mạng”.
“Hàng ngày người ta vẫn bị giết chỉ vì vài đồng tiền lẻ hay một món đồ vô giá trị đấy thôi.” tôi đáp lại một cách căng thẳng.
“Đó là ở Mỹ, cô Stanley. Không phải ở Southwark”.
“Và không phải ở Quả cầu”, Cyril khịt mũi.
“Quả cầu từng bị đột một lần”, tôi nói.
“Đã lâu lắm rồi”, viên thanh tra lên tiếng.
“Vào năm 1613. Nhưng cũng vào ngày 29 tháng Sáu”.
Sinclair ngước lên nhìn tôi.
“Thứ ba, ngày 29 tháng Sáu”, tôi nhấn mạnh.
Tất cả lặng im một lát. “Hôm nay là thứ ba, ngày 29 tháng Sáu”, Henry khẽ nói, giọng hơi nghẹn lại.
Có cái gì đó thoáng lóe lên trong mắt viên thanh tra nhưng ông ta đã kịp làm chủ bản thân. “Ngày tháng, nếu chính xác, sẽ rất có ích cho một cuộc điều tra hỏa hoạn”.
“Không chỉ là hỏa hoạn,” tôi nhấn mạnh. “Trong đám cháy trước, tất cả đều thoát ra được trừ một người”.
Sinclair buông thõng cặp hồ sơ xuống bên sườn, nhìn tôi với vẻ thương hại pha lẫn kinh ngạc. “Cô đã có quá đủ những cú sốc trong buổi tối hôm nay rồi, cô Stanley. Cô nên về nhà và cố ngủ đi một chút”. Ông gật đầu chào Henry rồi bước đi về phía chiếc lều màu trắng tang tóc, Cyril hấp tấp chạy theo sau.
Tôi đứng dậy, tách mình khỏi vòng tay ân cần của Henry. Tôi không muốn giao nộp món quà của Roz, nhưng tôi không thể để cảnh sát gạt cái chết của bà sang một bên như trong những câu chuyện dung tục về những phần cơ thể đã kiệt quệ, “ở đâu” và “khi nào” còn gây chút tò mò, nhưng “vì sao” thì không. Tôi bật lên thành tiếng: “Ông có một người chết ở đây”.
Đã đi qua nửa sân, Sinclair dừng lại. Những gợn sóng lăn tăn lan ra trên mặt nước dưới chân ông ta. “Điều đó không có nghĩa tôi có một tên sát nhân. Nếu có cái gì đó cần được tìm ra - nếu thật sự có cái gì đó - cô có thể tin chắc chúng tôi sẽ tìm ra”.
Henry đưa tôi đi xuống sân. Sinclair đã cho phép chúng tôi đi, trong khi còn nhiều người khác đang được thẩm vấn. Từ khắp phía, họ lao về sân khấu như một bầy quạ, quay cuồng xúm xít lại trong tiếng ồn ào nhức óc. Viên chỉ huy lính cứu hỏa bắt gặp chúng tôi đầu tiên, hăm hở muốn thông báo chi tiết hơn về tình hình. Ông ta cho hay ngọn lửa đã bắt đầu bùng phát từ khu nhà hành chính; đội của ông đã cứu được Quả cầu chỉ sau khi đã cho nổ sập phần mái vào trong với phần còn lại của khu nhà và phun nước ướt đẫm mái rạ của nhà hát.
Tôi không còn quan tâm lắng nghe nữa. Roz đã chết, tôi đã nói dối cảnh sát, và tất cả những gì tôi muốn là rời khỏi nơi này, được ở một mình và mở chiếc hộp đáng nguyền rủa đó ra. Cơn kích động đang dâng lên hẳn đã hiện rõ trên khuôn mặt tôi, vì Henry đột ngột kéo tôi tách ra khỏi đám đông. Chúng tôi đang ở gần lối ra, tiếng động ầm ĩ của đám đông nhỏ dần, và tôi nghe thấy tên mình được gọi vọng tới. Mặc kệ, tôi rảo bước nhanh hơn, khi hai người mặc áo vét màu vàng của đèn neon thuộc Cảnh sát thành phố bước tới đứng chắn trước khung cửa kép, khiến tôi không còn lựa chọn nào khác ngoài vệc quay trở lại.
Đứng ở đầu đối diện của lối ra là thám tử, chánh thanh tra Sinclair. “Nếu cô không phiền,” ông ta lên tiếng, “tôi có thêm vài câu hỏi nữa trước khi cô đi”. Giọng ông dịu dàng dễ nghe, nhưng rõ ràng không phải là một lời thỉnh cầu. Đó là mệnh lệnh.
Miễn cưỡng, Henry và tôi theo ông ta quya trở vào nhà hát và đi vào một trong những dãy hành lang ở tầng trệt gần sân khấu. Một người phục vụ trẻ mang trà đến cho chúng tôi. Tôi cố nuốt vài ngụm thứ chất lỏng âm ấm trắng đục như sữa có vị sàn sạn như bột phấn. “Có lẽ cô muốn kể cho chúng tôi nhiều hơn về cuộc gặp gỡ với giáo sư Howard chiều này”. Sinclair gợi chuyện.
Với chiếc quần đen, áo Jacket đen khoác bên ngoài chiếc áo sơ mi cổ tròn màu xanh ngọc, viên thanh tra có thể nổi bật lên như một người cực kì cuốn hút nếu xuất hiện cách xa nơi đây chỉ một dặm tại Boston; còn tại London ông ta cũng chỉ đủ hợp thời trang để hòa nhập vào đám đông. Tuy vậy, ông ta vẫn tạo cho người khác cảm giác đứng trước một người đặc biệt xuất sắc đang khéo léo ẩn mình. Sẽ khó qua mặt được viên thanh tra, tôi thầm nghĩ, và cố thử làm điều đó có thể sẽ rất nguy hiểm.
Tôi sẽ là kẻ ngốc bị lôi ra vặn hỏi thêm. Đằng nào cũng thế, tôi đối mắt ông ta một cách e dè. “Tôi sẽ bắt đầu từ đâu đây?”.
“Tốt nhất nên bắt đầu từ đầu”.