← Quay lại trang sách

Chương 5

Chiều hôm đó, tiếng cười của tôi đã vang lên trong dãy hành lang dưới. “Các vị, hãy nghĩ tới Stephen King,” tôi la lối. “Không phải là Steve McQueen. Vì Chúa hãy nhớ cho chúng ta đang ở trong một câu chuyện ma”.

Trên sân khấu mọi người cùng dừng lại. Jason Pierce, ngôi sao phim hành động người Úc đang cố chứng tỏ tài năng diễn bi kịch của mình trong vai Hamlet, đưa tay lên trán gạt mồ hôi, “Dưới ánh nắng chết tiệt này ấy à?”

Anh ta có lý. Dưới ánh nắng ban trưa của một ngày mùa hè giống với khí hậu châu Phi hơn là nước Anh, sân khấu sáng lóa mắt trong màu sẫm và màu vàng trông trân tráo chẳng khác gì một nhà chứa thời Victoria. “Mặt trời nào cơ?” tôi hỏi lại. Tất cả quay đầu về phía tôi đang ngồi, trong bóng râm của hành lang. “Chúng ta đang đứng trên bờ thành lộng gió của Elsinore, anh Pierce. Hãy nhìn xuống những cánh đồng phủ trắng tuyết và mặt biển lạnh giá đóng băng, về phía kẻ thù Thụy Điển. Vào nửa đêm”. Tôi đứng dậy rời khỏi bàn, lao qua bậc tâm cấp ngắn để xuống sân. “Đúng vào giờ mà một hồn ma đã ba đêm nay khiến những người lính dạn dày chinh chiến phải run lẩy bẩy trong chiếc ủng của họ. Và cho dù họ đã nhìn thấy cái quái gì đi nữa - hồn ma hay ác quỷ - người bạn thân nhất của anh vừa cho anh hay trông nó rất giống người cha quá cố của anh”. Đến chân bậc tam cấp, tôi dừng lại chống tay vào hông, nhìn thẳng vào Jason. “Bây giờ hãy làm cho tôi tin tất cả điều đó đi”.

Phía bên phải, Henry cựa quậy trong chiếc ngai nơi ông đang ngồi ngủ gật. “À,” ông lẩm bẩm, “một thách thức đây”.

Jason đưa mắt nhìn Henry rồi quay lại tôi, nụ cười ma mãnh nở trên khuôn mặt. “Cô thử trước đi”, anh ta nói, dùng hai tay cắm thanh kiếm của mình xuống sàn sân khấu.

“Phản đòn”, Henry hô lớn với vẻ khoái trá ra mặt.

Với một đạo diễn, đứng vào vị trí của diễn viên là một trong những tối kỵ của sân khấu. Tôi đã đủ từng trải để hiểu nên mặc kệ anh ta, nhưng tôi cũng vẫn còn đủ trẻ để nghĩ: sẽ vui đây.

Tôi biết cảnh này khá rõ, tôi có thể diễn lại từng bước trong khi ngủ, đoạn một hồn ma mặc trang phục như người cha của Hamlet đã lôi chàng hoàng tử rời khỏi người bạn Horatio để lao vào một cuộc đuổi bắt điên cuồng dọc bức tường thành băng giá cho tới tận bờ vực của địa ngục. Tôi đã dàn dựng vũ đạo cho một bàn đuổi bắt ấn tượng suốt dọc nhà hát: sân khấu và các ban công ở phía trên, khoảng sân đất phía dưới, và cả ba dãy hành lang vòng cung nằm chồng lên nhau dẫn lên chiếc mái hình chóp.

Ít nhất cảnh đó đã có thể rất ấn tượng, nếu Jason chịu diễn vai của mình một cách nghiêm túc. Tôi đã phân vai chính cho anh ta không chỉ vì riêng tên của anh ta không thôi đã khiến đêm diễn bán sạch vé trong bốn phút, mà vì anh ta sở hữu tài năng hiếm có trong việc hòa trộn những cơn giận dữ lôi đình với vẻ đăm chiêu đầy quyến rũ. Thật không may, trong những tuần vừa qua anh ta không chịu ngó ngàng gì đến lời thoại, nhạo báng cả vai diễn của mình, vở kịch và Shakespeare nói chung. Nếu tôi không khiêu khích để Jason sớm có gì đó giống như cảm xúc thực sự, thì cả vở diễn sẽ biến thành một màn tấu hài.

Tôi đi qua khoảng sân và chạy lên cầu thang ngắn dẫn lên sân khấu, vừa chạy vừa buộc gọn mái tóc thành đuôi ngựa ra sau lưng. Thanh kiếm vẫn còn đang đung đưa giữa sân khấu, mũi cắm xuống sàn. Khi tôi nắm lấy chuôi kiếm, nó rung lên như một chiếc âm thoa trong tay tôi. “Kịch của Shakespeare phải toát lên sự nguy hiểm.”, tôi khẽ nói, nhẹ nhàng nhổ thanh kiếm lên.

“Làm tôi sợ đi.”, Jason cười cợt thách thức.

“Hãy đóng vai Horatio cho tôi”.

Xung quanh chúng tôi, các diễn viên còn lại huýt sáo reo hò. Mặt Jason đỏ bừng, nhưng khi một người đưa cho anh ta thanh kiếm, anh ta cầm lấy và gật đầu. Tôi đã chấp nhận thách thức của anh ta; anh ta khó có thể từ chối thách thức của tôi.

Tôi nhìn người phú trách sân khấu, ông ta hô lớn, “Đến lượt ngài, Henry”.

Henry đứng dậy và biến mất sau sân khấu. Ở phía trên, một quả chuông bắt đầu kêu. Với một tiếng động nhỏ, những cánh cửa rộng ở phía sau sân khấu mở ra. Tôi chầm chậm quay lại. Trên ngưỡng cửa là Henry trong vai hồn ma nhà vua, mặc áo choàng và đội mũ trùm đầu vào lúc giữa đêm. “Hỡi các thiên thần và các vị thánh bảo hộ, hãy bảo vệ chúng tôi.” Tôi khẽ nói. Quay người lại, tôi lao về phía bóng ma; Jason lao theo.

Khi chúng tôi tới cánh cửa, bóng ma đã biến mất, còn các cánh cửa đóng kín. Tôi quay người, hốt hoảng đưa mắt nhìn quanh nhà hát. Trong phần lớn cảnh này, tôi không để hồn ma xuất hiện mà thay thế bằng những luồng sáng bất chợt lóe lên như ánh mặt trời phản chiếu lại từ một tấm gương. Luồng sáng đó có thể xuất hiện ở bất cứ đâu.

Kia rồi, luồng sáng đó đang nhảy múa dọc những băng ghế dọc hành lang, tôi dợm chân lao tới, nhưng Jason chặn tôi lại. “Ngài không được đi, thưa điện hạ”. Cách anh ta nắm lấy tay tôi cho thấy anh ta đang diễn vai Horatio một cách nghiêm túc. Anh ta cần ngăn cản không cho tôi lao theo hồn ma nếu có thể.

Ít nhất anh ta bắt đầu nghiêm túc trong một việc. Một bước khởi đầu. Nhanh nhẹn vặn người cúi xuống lách qua tay anh ta, tôi lao từ sân khấu xuống, chạy qua sân. Vượt qua ba bậc tam cấp thấp dẫn lên dãy hành lang tầng trệt. Chẳng có hồn ma nào cả. Địa ngục và sự nguyền rủa. Một tiếng thét từ phía sân làm tôi quay ngoắt lại. Nhìn theo những cánh tay chỉ về phía giữa sân khấu, tôi nhìn thấy: một luồng sáng lóe lên trong bóng tối ở tầng trên.

Jason đang rầm rập chạy về phía tôi. Vờ quay sang phải, tôi lao nhanh vòng qua anh ta, hướng về phía cầu thang, bắt đầu bỏ chạy. Ánh sáng chập chờn lóe lên ở bên phải, giữa các dãy ghế lô mà Cyril khăng khăng bắt mọi người gọi là Phòng của các quý ông. Tôi chạy dọc lối đi nằm cuối lô ghế và lách vào trong.

Dãy ghế thứ nhất trống tởn. Dãy thứ hai cũng vậy.

Ở phía đối diện của nhà hát, một đốm sáng lại lóe lên. Rồi một đốm sáng thứ hai, rồi thứ ba, cho tới khi cả nhà hát lấp lánh hàng ngàn đốm sáng nhỏ như đàn đom đóm, như thể cả nhà hát đang tràn ngập những hồn ma. Cùng lúc, tất cả đồng loạt lập lòe, tiếng rên rỉ ai oán của một linh hồn bị giày vò văng vẳng vọng lên từ dưới sân khấu.

Chúng tôi đã gần hoàn tất cảnh diễn. Tôi quay lại, thấy Jason đang đứng chắn đường, gươm tuốt khỏi vỏ. Chết tiệt. Tôi đã bị cuốn vào cuộc tìm kiếm hồn ma của Hamlet nên đã quên bẵng anh ta từ nãy.

“Hãy khuất phục!”, anh ta gằn giọng. “Cô không được đi”. Anh ta lao nhanh tới, vung gươm chém xuống thanh kiếm của tôi. Tiếng thép chạm nhau nhức óc, bằng một cú vặn cổ tay gọn gàng, anh ta giật tung thanh kiếm khỏi tay tôi. Thanh kiếm văng lên trời quay vòng trên không, lóe sáng dưới mặt trời. Phía dưới, cả đoàn diễn tản vội ra như một bầy chim giật mình khi thanh kiếm rơi xuống chính giữa sân.

“Tôi đề nghị cô van xin sự khoan dung.” Jason nói, giọng Úc đặc sệt với những nguyên âm kéo dài chen vào vẻ hào hoa phong nhã của Horatio. Miệng anh ta nhăn nhở cười. “Sẽ rất tuyệt nếu cô quỳ xuống cầu xin”.

Dịch dần về phía sau, tôi cảm thấy hành lan can chạm vào đầu gối và bất giác ngồi thụp xuống, cố trấn tĩnh sau một thoáng chóng mặt. Tôi chỉ cách mặt đất có một tầng nhà, nhưng đột nhiên tôi cảm thấy nó thật cao. “Anh biết đoạn về sự khoan dung đó trong vở Người lái buôn thangh Venice ?”

“Tính chất của sự khoan dung là không được gượng ép”, anh ta đáp trả. “Nhưng tôi thì có”.

“Tôi thích câu sau đó”. Cố gắng nhẹ nhàng hết mức, tôi đưa cả hai chân qua lan can. “Nó rơi xuống như cơn mưa nhẹ nhàng từ thiên đường”. Anh ta lao tới, và tôi nhảy xuống.

Sau ba mét trong không khí, tôi chạm đất, quờ tay với lấy thanh kiếm của mình đang nằm giữa sân. Jason nhảy xuống đuổi theo tôi. Tôi nắm lấy chuôi kiếm và quay ngoắt người lại.

Jason chững lại, thở hổn hển, lưỡi kiếm của tôi chỉ còn cách bụng anh ta sáu phân. “Cô có thiểu năng trí tuệ không đấy?”

“Anh muốn ám chỉ điều gì?” Tôi có thể cảm thấy chiếc áo sơ mi nhớp nháp dính vào bả vai, chiếc quần kaki đã toạc một đường ở một bên đầu gối và hẳn trên mặt tôi đã dính vài vết bẩn.

“Gàn dở như một gã Úc thứ thiệt!” anh ta gầm lên. “Điên khùng hết mức. Có thể cô thích rời khỏi các tòa nhà cao tầng bằng cách nhảy qua lan can, Kate Stanley, nhưng quỷ ta ma bắt, cái gì khiến cô trông đợi tôi rên lên: Sống hay không sống? Sau màn nhào lộn ba xu vừa rồi?”

Tôi nhấc kiếm lên. “Giờ anh là Hamlet.” Tôi mỉm cười nói.

Hai bàn tay anh ta hết nắm chặt lại mở ra. Trong một phần tư giây, tôi nghĩ anh ta sắp lao vào tấn công mình. Thế rồi anh ta nhìn ra phía sau tôi, và khuôn mặt anh ta thay đổi.

Tôi ngoái lại xem anh ta đang nhìn gì. Henry đang đứng ở góc xa của ban công, một bàn tay đi nạng sắt nắm một thanh kiếm tuốt trần, tay kia đưa thẳng về phía chúng tôi, vẫy vẫy ra hiệu. Hét lên giận dữ, Jason trở lại với vai diễn, lao qua sân, leo lên một chiếc thang được hóa trang lẫn vào tường cạnh sân khấu. Khi tôi bám theo sau anh ta leo lên được ban công. Jason sải chân bước qau sân khấu, dồn Henry lùi vào bóng tối ở phía đối diện. Tôi phủi bụi trên quần áo và đi theo. Nhưng tôi mới đi được nửa đường thì có cái gì đó - một âm thanh? Một mùi hương? Sau đó tôi không bao giờ biết - khiến tôi chậm bước rồi dừng hẳn lại.

Sau lưng tôi, một bóng người bước ra từ cánh gà. Tôi quay lại, cau mặt. “Hãy nhớ đến ta,” một giọng nói khô khan như tiếng lá xô lạo xạo trên đá cất lên. Cho dù bị Jason đuổi theo đi nữa, làm thế nào Henry có thể luồn qua khu hậu trường ngoắt ngoéo như một mê cung nhanh đến vậy?

Một bàn tay trắng xanh đưa nhanh lên, chiếc mũ trùm lật ra sau. Không phải Henry.

Đó là Roz. “Có phải đó là điều người ta phải cảm thấy từ kịch của Shakespeare?” bà khẽ lẩm bẩm. “Nguy hiểm?”

Từ đầu bên kia của ban công, Henry và Jason rảo bước quay trở lại sân khấu.

“Xin giới thiệu Rosalind Howard, giáo sư về Shakespeare tại Harvard.” Henry nói để giới thiệu với những người đang tụ tâp bên dưới. “Thường được thừa nhận là Bà hoàng về Thi sĩ”.

“Bà hoàng của những kẻ bị nguyền rủa.” Tôi cấm cẳn.

Roz phá lên cười, để mặc áo khoác rơi xuống sàn khi quàng rộng tay ôm lấy tôi. “Hãy gọi ta là Bóng ma đêm Giáng sinh, cô bé thân mến. Ta mang quà đến đây”.

“Như những người Hy Lạp”, tôi đáp, cứng người lại trong vòng tay bà. “Và hãy xem món quá đó đã làm gì những người dân thành Troy”.

Như một con sóng dội ra từ vách đá, bà buông tôi ra. “Một văn phòng tuyệt đấy!” bà nói, nhìn quanh nhà hát với vẻ ngưỡng mộ.

“Cách xuất hiện tuyệt đấy!” tôi trả lời. “Nhất là với bà”.

“Đành phải vậy thôi.” Bà nhún vai. “Tôi nghĩ cần xuất hiện trước mặt nhiều người, nếu không cô sẽ từ chối món quà của tôi”.

“Tôi vẫn có thể từ chối”.

“Quà?”

Tôi chớp mắt. “Bà ấy đã nói vậy.” Tôi trả lời theo cách tự vệ, trong lòng thầm rủa viên cảnh sát.

“Cô Stanley, cho dù giáo sư Howard có nói rõ cho cô biết bà ấy đã tìm ra cái gì hay không, chắc chắn cô cũng có vài ý tưởng về món quà này”.

Trong chốc lát, tôi lại muốn lấy chiếc hộp ra khỏi túi áo, giao nộp và chấm dứt mọi dính dáng đến nó - và đến Roz.

“Xin lỗi,” tôi lớn tiếng, “nhưng tôi chẳng có ý tưởng nào cả”. Về một khía cạnh, câu trả lời cũng không sai; tôi thực sự không biết trong chiếc hộp có gì. Nhưng tôi sẽ có thể biết, tôi thầm cằn nhằn trong đầu với Sinclair, chỉ cần ông ta để tôi yên để tôi có đủ thời gian mở nó ra.

Ông ta thở dài. “Tôi đang yêu cầu cô hãy thẳng thắn với tôi, cô Stanley; như thế có lẽ tôi có thể thẳng thắn trở lại với cô”. Ông ta đưa tay vuốt phẳng một nếp nhàu trên quần. “Chúng tôi đã tìm thấy một vết kim tiêm.”

Vết kim tiêm?

“Vô lý, Henry bực bội. “Roz không phải là con nghiện”.

Sinclair đưa mắt nhìn Henry. “Một vết kim tiêm, số ít theo đúng nghĩa, không có nghĩa bà ấy dùng ma túy”.

“Thế nó có nghĩa gì?” Henry vặn lại.

“Có nghĩa là tôi đang xem xét việc cô Stanley bị nghi vấn đã làm điều gì đó mờ ám một cách rất nghiêm túc”. Quay lại phía tôi, ông ta nói thêm, “Và tôi đánh giá cao sự hợp tác của cô”. Ông ta nắm bàn tay lại, chăm chú quan sát tôi.

Tôi thấy sợ. Chiều hôm đó, tôi đã lạnh lùng phớt lờ Roz. Giờ đây tôi sẵn sàng đổi bất cứ thứ gì để được nói với bà, nổi giận với bà, được nghe bà nói, để mặc bà ôm lấy tôi bao lâu tùy thích - nhưng bà đã ra đi. Mãi mãi ra đi, không một lời giải thích hay xin lỗi. Thậm chí không một lời từ biệt, không một lời khuyên.

Không có gì ngoài một yêu cầu. Hãy giữ nó an toàn , bà đã nói vậy.

Nếu món quà của bà cần được bảo vệ an toàn, tôi bứt rứt thầm nghĩ - ai có thể bảo vệ nó tốt hơn cảnh sát? Nhất là khi họ - hay ít nhất là ông thanh tra này - muốn tôi đưa cho họ thứ gì đó đến vậy.

Nhưng Roz đã không đi gặp cảnh sát. Bà đã tìm tôi. Và Sinclair trông giống với bất cứ thứ gì trừ sự an toàn. Một lần nữa tôi nhìn thẳng vào ông ta và nói dối: “Tôi không biết gì thêm nữa”.

Viên thanh tra đấm mạnh tay xuống băng ghế Henry và tôi đang ngồi, mạnh đến mức khiến tôi nảy người. “Tại đất nước này, thưa cô Stanley, giấu diếm thông tin trong một cuộc điều tra án mạng là tội danh đấy. Một tội danh chúng tôi đánh giá rất nặng”. Ông ta cúi xuống gần đến mức tôi có thể ngửi thấy mùi bạc hà phả ra từ hơi thở của ông ta. “Tôi đã nói đủ rõ chưa?”

Tim tôi như muốn nhảy ra ngoài, và tôi gật đầu.

“Một lần cuối cùng, tôi đề nghị cô nói cho tôi tất cả những gì cô biết”.

Bên cạnh tôi, Henry đứng bật dậy, “Quá đủ rồi đấy”.

Sinclair đột ngột ngồi xuống, quai hàm nghiến chặt đảo qua đảo lại. Rồi ông ta phẩy tay ra hiệu Henry và tôi có thể đi. “Đừng nói gì với báo chí, cũng không được rời khỏi London. Tôi còn cần nói chuyện với hai người. Nhưng bây giờ thì chúc ngủ ngon”.

Henry nắm lấy khuỷu tay đưa tôi ra ngoài. Khi chúng tôi sắp tới cửa Sinclair gọi với theo. “Nếu có thứ gì đó cần phải tìm ra, cô Stanley”, ông ta nhẹ nhàng nói; “tôi đảm bảo với cô chúng tôi sẽ tìm thấy”.

Lần đầu tiên ông ta nói câu này, nghe giống như một lời hứa. Còn lần này là một lời đe dọa.