Chương 6
Tôi vội vã rời nhà hát ra một phố nhỏ chật ních xe cứu hỏa, và Henry vẫy một chiếc xe taxi. Khi chiếc taxi dừng lại, tôi hôn tạm biệt lên má ông rồi chui vào xe. “Highate”, tôi nói với tài xế trước khi kịp ngồi xuống ghế - và thấy Henry cũng vào xe theo tôi.
Tôi định phản đối, nhưng ông xua tay. “Không có chuyện để cô về một mình, cô bạn thân mến. Không phải tối nay”. Ông đóng sập cửa lại, và chiếc taxi chuyển bánh. Những ngón tay tôi sốt ruột mân mê món quà của Roz trong túi áo. Còn bao lâu nữa tôi mới được ở một mình để mở chiếc hộp?
Một cơn gió nổi lên đẩy mây lướt đi trên bầu trời; mùi khét của vụ cháy nặng nề vần vũ trên thành phố. Từ cầu Waterloo, tôi thoáng thấy cầu Millennium phía bên phải, vẫn còn đông chật những người hiếu kỳ. Bên trái, vòng bánh xe màu xanh không còn phát sáng của Con Mắt London chầm chậm quay trong màn đêm; xa hơn nữa tòa nhà Quốc hội và tháp Big Ben long lanh như dát vàng. Chúng tôi vượt qua cầu, hòa vào dòng xe cộ hối hả của thành phố. Tôi nhổm người trên ghế, mong chiếc taxi lao nhanh hơn qua các đường phố hẹp. Chúng tôi lên cao dần, quay trở lại rải đất cao phía bắc London.
Henry ngồi dựa hẳn vào ghế, đôi mắt nhắm hờ quan sát tôi.
“Một bí mật là một loại lời hứa”, ông khẽ nói. “Cũng có thể là một nhà tù”.
Tôi nhìn lại ông. Ông đã đoán ra tới đâu? Tôi có thể tin ông đến mức nào? Roz đã tin tưởng gửi gắm tôi cho ông, mặc dù có lẽ bà đã không muốn giao phó cho ông bí mật bà cất giấu trong chiếc hộp.
“Tôi rất hạnh phúc được giúp cô,” ông nói. “Nhưng tôi có giá của mình”.
“Tôi có thể đáp ứng được không?”
“Còn tùy thuộc xem cô có đủ sức tìm ra sự thật hay không?”.
Trước khi kịp đổi ý, tôi lấy chiếc hộp ra khỏi túi áo. “Bà ấy đưa tôi cái này chiều nay. Và yêu cầu tôi hãy giữ nó an toàn”.
Ông chăm chú ngắm nghía chiếc hộp lấp lánh phản chiếu ánh đèn đường. Trong giây lát tôi nghĩ ông sẽ chộp lấy nó, nhưng ông chỉ nhích một bên lông mày lên thú vị khi thấy giấy bọc vẫn còn nguyên nếp gấp. “Sự kiềm chế đáng phục đấy. Hay cô nghĩ bà ấy muốn hãy giữ nó khỏi chính cô nữa?”
“Bà Roz cũng nói nếu tôi mở ra, tôi phải đi theo chiếc hộp tới bất cứ đâu”.
Ông thở dài. “Cô bé thân mến, cái chết có thể thay đổi tất cả”.
“Kể cả một lời hứa?”
“Kể cả một lời nguyền”.
Tôi nâng chiếc hộp lên bằng cả hai tay. Tôi đã mỉa mai gọi món quà của Roz là con ngựa gỗ thành Troy, nhưng trong thần thoại và những câu chuyện cổ, đúng là những món quà như vậy thường ẩn chứa một lời nguyền: đôi giày đỏ không bao giờ ngừng nhảy, một cái chạm tay biến tất cả, kể cả những vật sống thành những khối vàng vô tri vô giác.
Thật vớ vẩn, tôi thầm nghĩ. Rồi xé toạc lớp giấy bọc chiếc hộp. Mảnh giấy tung lên trong không khí giữa hai chúng tôi rồi rơi xuống sàn xe. Trong tay tôi là một chiếc hộp bọc satin đen. Tôi hồi hộp nhấc nắp hộp lên.
Trong hộp có một vật hình bầu dục, được trang trí hình những bông hoa và cẩn vàng. “Cái gì đây?” Tôi bật hỏi thành tiếng. Tôi hẳn cũng sẽ hỏi Roz như vậy.
“Tôi nghĩ là một chiếc trâm cài áo”, Henry trả lời.
Tôi đưa một ngón tay chạm vào chiếc trâm. Một món trang sức tuyệt đẹp những đã quá lỗi mốt. Tôi không nghĩ có người phụ nữ nào sau thế hệ của bà nội tôi còn dùng thứ tương tự. Roz không dùng nó. Tôi lại càng không. Bà muốn ám chỉ điều quái quỷ gì khi nói “theo nó tới bất cứ đâu”?
Henry cau mày. “Hẳn là cô nhận ra những bông hoa này”.
Tôi chăm chú nhìn món trang sức. “Những bông hoa bướm. Cả hoa cúc nữa”. Tôi lắc đầu. “Ngoài ra thì chịu. Tôi lớn lên ở vùng sa mạc, Henry. Các loài hoa ở vùng chúng tôi hoàn toàn khác”.
“Tất cả đều từ vở Hamlet . Những bông hoa của Ophelia”. Vươn người lên, ông dùng ngón út chỉ ra từng loại. “Hoa hương thảo và hoa bướm, hoa thì là và hoa columbine. Và cửu lý hương nữa. “Đây là hoa cửu lý hương dành cho chàng, cón đầy là của em: chúng ta có thể gọi nó là loài cây ban phước lành trong ngày Chủ nhật”. Ông khịt mũi. “Cây ban phước lành! Loài cây của cái chết và sự điên rồ thì đúng hơn. Một thứ trầm hương kiểu Anh. Rất thông dụng vào thời Victoria, một đồ trang sức dùng trong đám tang khi một phụ nữ trẻ qua đời… một thời kì bệnh hoạn, bất chấp sự vĩ đại của nó”. Ông tựa lưng trở lại ghế. “Vật chúng ta có là một chiếc trâm cài áo dùng cho đồ tang phục thời Victoria. Câu hỏi ở đây là tại sao lại là nó. Cô có nghĩ là bà ấy linh cảm thấy mình sắp chết không?”.
Tôi lắc đầu, đưa một ngón tay mân mê quanh rìa cẩn vàng của chiếc trâm. Chiều hôm đó tôi đã cảm thấy điều gì chẳng lành, nhưng còn mạnh hơn là cảm giác phấn khích. Tôi đã tìm thấy điều gì đó, bà đã nói vậy. Là cái gì vậy? Liệu có thông điệp nào liên quan tới khám phá của bà ẩn chứa trong những hoa bướm và hoa cúc đó? Món trang sức vẫn bướng bỉnh nằm im lìm trong chiếc hộp.
Chúng tôi rẽ vào con phố nơi tôi ở, với những ngôi nhà thời Victoria bằng đá xám chen chúc bên nhau. Ngay cả vào một buổi chiều hè nắng ấm, đây cũng là một trong những phần yên lặng nhất của London; vào lúc hai giờ sáng, con phố này vắng tanh, chỉ còn tiếng gió rên rỉ trong các góc phố tối, thổi tung những tán cây, để lại ánh sáng bàng bạc với những bóng cây đung đưa trên vỉa hè.
Ở cuối phố, những tấm rèm bay tung qua một khung cửa sổ mở toang như một bóng ma đang uốn lượn trong gió. Tôi chợt nhận ra đó là ngôi nhà mình đang sống. Cửa sổ căn phòng phía ngoài trông ra phố trong căn hộ tầng hai của tôi. Cảm giác sợ hãi khiến miệng tôi cứng lại, lạnh ngắt như bị đông cứng. Tôi đã không để cửa sổ mở.
Khi chúng tôi tới trước ngôi nhà, chiếc taxi đi chậm dần rồi dừng lại. Qua ô cửa sổ, những chiếc bóng xoắn lại theo cơn gió, và tôi lại nhìn thấy kẻ bí ẩn đó lần thứ hai trong đêm, một bóng người sẫm màu hơn cả bóng tối đang bao quanh nó - không hẳn là một bóng người, đúng hơn là một lỗ đen trống rỗng có hình dáng của một con người.
“Lái xe đi ngay”, tôi thì thầm.
“Nhưng…”
“Đi tiếp ngay”.