Chương 7
Khi xe chạy tới cuối đường, tôi ngoái lại nhìn. Không thấy tấm rèm cửa đâu nữa; ánh trăng lấp lánh trên khung cửa sổ. Không thấy bóng người nào trong nhà. Có phải tôi mơ không? Tay tôi nắm chặt lấy chiếc hộp đựng cây trâm cài áo.
“Vậy là cô cũng không muốn về nhà?” người lái taxi hỏi.
“Không”.
“Vậy thì đi đâu đây?” anh ta hỏi.
Tôi lắc đầu. Nếu bóng đen bí ẩn nọ đã đột nhập được vào căn hộ của tôi, thì không nơi nào an toàn hết. Tôi kéo cả hai chiếc áo khoác sát hơn vào người.
“Khách sạn Claridge’s”. Henry trả lời người lái xe.
Khi chúng tôi đi xuống phố Mayfair, một con phố rộng hơn, tôi định lên tiếng, nhưng ông khẽ lắc đầu. Tôi nhìn theo ánh mắt ông, và thấy trong gương chiếu hậu cái nhìn tò mò của anh chàng lái taxi. Thấy tôi phát hiện ra, anh ta đánh trống lảng quay đi.
Tới Claridge’s, Henry nhanh chóng thanh toán tiền taxi, giúp tôi xuống xe rồi kéo tôi vào một sảnh lớn có tường gắn đầy gương giống như ở cung điện Versailles, sàn nhà bóng loáng lát đá màu trắng và đen như bàn cờ vua. Người gác cửa nhẹ nhàng bước tới chào đón.
“Xin chào, Talbot”, Henry chào.
“Rất vui được gặp ngài, thưa ngài,” anh ta đáp lễ. “Tối nay chúng tôi có thể giúp gì được cho ngài?”
“Một nơi kín đáo để chờ đợi, anh bạn thân mến.” Henry trả lời. “Và một chiếc xe cùng một tài xế, kín đáo hơn nữa được thì tốt. Anh chàng lái taxi chúng tôi vừa chia tay hơi tọc mạch quá. Có thể anh ta sẽ quay lại”.
“Anh ta có thể quay lại bao nhiêu lần tùy thích,” Talbot dịu giọng, “nhưng trừ khi ngài muốn, anh ta sẽ không thể lần ra dấu vết nào của ngài”.
Chúng tôi được dẫn vào một căn phòng nhỏ kê đầy ghế bành và ghế sofa bọc vải hoa. Trong khi Henry đi vòng quanh phòng, xem xét những món đồ pha lê hiệu Lalique bày rải rác xung quanh, tôi ngồi yên ở giữa phòng, ôm khư khư lấy chiếc trâm đựng trong hộp. Mỗi lần tôi định lên tiếng, nhưng Henry lại lắc đầu.
Vài phút sau, Talbot lại xuất hiện đưa chúng tôi xuống hành lang dẫn ra cửa phục vụ, rồi đi và một garage nhỏ nơi có một chiếc xe cửa kính đen đang nổ máy đợi sẵn. Có vẻ như tay lái taxi đã quay lại thật, nói rằng chúng tôi để quên thứ gì đó trong xe. Khuôn mặt Talbot nở một nụ cười bí hiểm. “Anh ta sẽ không quấy rầy ngài thêm nữa đâu. Tôi cho anh ta thấy một số bằng chứng rất hiển nhiên là ngài sẽ ở lại cả đêm tại một trong những khu phòng riêng của chúng tôi. Tôi tin anh ta có thể đã bị khóa trái lại trong kho bát đĩa trong khi lân la gần cầu thang phục vụ”.
“Tôi sẽ không hỏi chuyện đó xảy ra như thế nào?, Henry nói với vẻ hài lòng khi chúng tôi lên xe.
“Chúc ngài may mắn!”, Talbot khẽ nói rồi đóng cửa xe lại.
Khi xe chuyển bánh, tôi nhìn lại đằng sau. Anh chàng gác cửa đứng trông chừng với vẻ dửng dưng, nhỏ dần lại khi chiếc xe chở chúng tôi phóng đi, rồi biến mất trong màn đêm.
Lần này, Henry chỉ nói hướng đi cho lái xe từng quãng ngắn, và chúng tôi đi vòng vèo qua các đường phố ucar khu Mayfair, đi qua Quảng trường Berkeley rồi đi vào Piccadily. Vòng quanh Hyde Park Corner, chiếc xe lướt dọc Knightsbridge, lúc này đang vắng vẻ tối tăm, rồi rẽ một lần cuối cùng vào những con phố nhỏ rợp lá cây của khi Kensington. Chúng tôi đang đi tới ngôi nhà trong thành phố của Henry.
Những con phố chúng tôi đi qua đều vắng lặng, nhưng tôi vẫn không thể dứt bỏ được cảm giác bị đe dọa đang lởn vởn trong bóng tôi. Chúng tôi càng rời xa khách sạn, cảm giác đó càng rõ rệt hơn, cho tới khi tưởng chừng cả những gốc cây ven đường cũng đang thèm khát muốn vồ lấy chiếc xe. Chúng tôi đã gần đến nhà Henry khi ánh sáng lóe lên phía sau, một chiếc xe khác cũng rẽ vào phố. Ngay lập tức, sự hoảng loạn mà tôi cố khống chế suốt buổi tối lại bùng lên như một làn sóng ụp xuống đầu tôi. Tim tôi đập như đánh trống, tôi đưa tay nắm chặt lấy thành ghế nhưng hàu như không cảm thấy gì qua bàn tay đang tê dại. Chúng tôi rẽ trái, sau đó lại đột ngột rẽ phải, nhưng chiếc xe kia vẫn bám sát theo sau.
Cuối cùng thì chiếc xe cũng lạo xạo lăn bánh trên một đoạn đường rải sỏi ngắn; tôi lao ra khỏi xe, vội vã chạy tới ngôi nhà trước khi bánh xe kịp dừng hẳn. Cánh cửa chạm trổ trước mặt chúng tôi bật mở, và tôi nhảy bổ vào trong, Henry ngay sau lưng. Tôi thoáng thấy ánh đèn hậu màu đỏ biến mất về phía cuối phố, rồi cửa trước ngôi nhà đóng sập lại. Tôi đứng thở hổn hển trong tiền sảnh ngôi nhà của Henry, đối diện với người quản gia đang sững sờ của ông.
“Barner, anh hày đi kiểm tra và đảm bảo tất cả cửa sổ và cửa ra vào đều được đóng và khóa trái.” Henry bình tĩnh nói. “Và bật hệ thống báo động lên. Sau đó hãy mang cognac cho chúng tôi - tôi nghĩ là Hine Antique - và đốt lò sưởi trong thư viện lên”.
Thư viện nằm ở trên lầu, phủ rèm nhung màu đỏ tía với các họa tiết hình hoa cỏ màu xanh lục theo thiết kế của William Morris. Ánh sáng phản chiếu trên bề mặt bóng nhẵn của những bức tượng bằng cẩm thạch, những giá sách bằng gỗ sồi và những tấm bìa da, lấp lánh trên những gáy sách mạ vàng. Hai chiếc ghế bành lớn được kê trước lò sưởi; Barnes đã để cognac và cốc trên chiếc bàn kê ở giữa chúng.
Tôi đi thẳng tới trước lò sưởi. “Ông có tin vào những hồn ma không?”.
Henry thoải mái ngồi xuống ghế bành. “Cô bạn thân mến của tôi, không phải một hồn mà đội mồ sống dậy đã đâm kim tiêm vào Roz. Hãy trả tiền cho gã lái taxi theo dõi cô”.
Tôi ngạc nhiên quay sang phía ông. “Vì thế mà chúng ta đổi xe ở Claridge’s?”
“Toàn trí,” Henry nói, đồng thời rót rượu ra cốc, “là một phẩm chất tuyệt vời của Chúa, nhưng bị nghi ngờ ở mọi người khác. Cô không hề nói cho gã địa chỉ và số nhà của cô. Tôi cũng không. Vậy mà gã biết”.
Tôi lùi lại ngồi xuống mép chiếc ghế bành còn lại. Người lái taxi biết địa chỉ của tôi - đã lái chậm dần và gần như dừng lại đúng trước cửa nhà tôi. Giọng của anh ta, đầy vẻ - thế nào nhỉ? Thất vọng? Lo lắng? Sợ hãi? - lại vang lên trong đầu tôi. Vậy là cô cũng không muốn về nhà ? Và tôi đã rối trí đến mức không nhận ra. Tôi rùng mình. “Có ai đó trong căn hộ của tôi”.
Henry đưa cho tôi một cốc rượu. “Thế ư? Điều này không làm tôi ngạc nhiên. Gã lái taxi đóng vai chú bé đưa hàng, cô bạn của tôi ạ. Không phải là vai chính. Và hắn ta tất nhiên không vui khi gói hàng lại không chịu để được giao theo đúng yêu cầu. Với giả thiết là ở đây có một vai chính. Hay ít nhất là một ông chủ mà gã phải tuân lệnh”. Cầm lấy chiếc cốc bằng cả hai bàn tay, ông từ tốn lắc chiếc cốc để chất lỏng màu hổ phách đựng trong đó xoay tròn. “Cô đang gặp nguy hiểm, Kate. Điều này quá rõ ràng”. Ông hít một hơi sâu rồi nhấp ngụm nhỏ; cả con người ông toát lên vẻ khoan khoái. “Rượu vang là đồ uống cho các cậu bé, rượu porto cho những người đàn ông: nhưng ai muốn trở thành anh hùng cần phải uống brandy. Samuel Johnson đã viết như vậy, ông ta quả là một kẻ lang bạt già đời khôn ngoan… Chúng ta hãy cùng xem xét chiếc trâm lần nữa xem nào”.
Tôi lấy chiếc hộp ra. Cây trâm vẫn im lìm nằm yên đó. “Không phải là một con đường dẫn vào câu chuyện thần tiên đúng không? Ông nghĩ làm cách nào tôi biết nó dẫn đi đâu được?”.
Henry mỉm cười. “Giá mà nó là một đôi giày nạm ruby thì có lẽ đã dễ suy diễn hơn. Hay cô cần bắt đầu bằng việc thử mang nó lên mình. Tôi có thể xem một chút chứ?” Khi ông nhấc chiếc trâm ra khỏi hộp, một tấm thẻ nhỏ bung ra, lượn vòng trong không khí rơi về phía lò sưởi. Henry lao vụt tới, chộp lấy nó đặt vào tay tôi.
Đó là một tấm thẻ hình chữ nhật bằng giấy dày màu kem, phía dưới có dùi một lỗ. Trên đó có vài dòng chữ viết tay, chữ viết thưa và rất tháu. Chỉ liếc nhìn, tôi nhận ra nét chữ của Roz. Trong lúc Henry cài chiếc trâm lên ve áo tôi, tôi đọc to những dòng chữ đó lên:
“Chúc mừng, Kate bốc đồng, vì đã gạt đi được sự mộ đạo ngu ngốc để lộ ra những sự thật tươi sáng bấy lâu bị chôn vùi trong kiệt tác thời Jacobean mà chúng ta đều thích nhất. Tôi nghĩ công chúng chẳng bao lâu nữa cũng sẽ ngưỡng mộ nó như vậy.
Dành cho Cô gái ngọt ngào những gì ngọt ngào nhất.
R.”
“Jacobean?” Henry bất thần hỏi.
“Trên đó viết như vậy”. Tôi nghĩ Jacobean xuất phát từ Jacobus. Cách viết trong tiếng Latinh của tên James trong tiếng Anh. Chẳng hạn như vua James, vua nước Anh trong nữa cuối sự nghiệp của Shakespeare. Tất cả đều ổn, trừ một chi tiết. Vở kịch mà Roz ám chỉ là Hamlet , mà trong khi Hamlet hiển nhiên là một kiệt tác, nó lại không ra đời thời vua James. Đó là một tác phẩm thời Elizabeth - vở kịch cuối cùng và tuyệt vời nhất trong tất cả các vở kịch thời Elizabeth, được sáng tác trong lúc vị nữ hoàng già nua độc thân bướng bỉnh đang cáu kỉnh trượt dần tới kết thúc tất yếu của cuộc đời, từ chối chỉ định người em họ trẻ tuổi James của bà - hay bất cứ ai khác - làm người kế vị. Với phần lớn mọi người, giữa các vở kịch được sáng tác vào thời kỳ Elizabeth với những vở ra đơiì thời kỳ vua James có vẻ chỉ là một mốc phân biệt hầu như vô hình. Nhưng với Roz, đó là một khe vực khổng lồ, một sự khác biệt cũng rõ rệt như sự khác nhau giữa mặt trời và mặt trăng, đàn ông và đàn bà. Với bà nhầm lẫn giữa một vở kịch của thời kỳ thứ nhất và thời kỳ thứ hai cũng khó chẳng khác gì nhầm anh trai bà với em gái bà hay nhầm lẫn giữa bàn tay và cái đầu của chính bản thân bà.
Henry bawths đầu nhẩm lại các vở kịch thời vua James của Shakespeare. “ Macbeth , Othello , Cơn bão tố , Vua Lear … Bà ấy có thích đặc biệt vở nào không?”
“Theo tôi biết thì không”.
“Ít nhất thì cuối cùng bà ấy đã quay lại với Dành cho Cô gái ngọt ngào những gì ngọt ngào nhất. Gertrude đang rắc hoa lên nấm mộ của Ophelia. Hoàn toàn phù hợp với món quà của bà”.
“Còn hơn thế nữa.” Tôi nói, đưa tấm thẻ ra chỗ sáng, Ở phía dưới, bà đã viết một phần tái bút dưới dạng bốn câu thơ bằng bút chì xanh nhạt, chia thành hai cặp câu bởi một dòng kẻ:
“ Nhưng tại sao bạn không dùng một phương cách vĩ đại hơn
Để khiêu chiến với thời gian độc tài tàn bạo?
Vậy hãy để những cuốn sách của tôi làm lời hùng biện
Và những nhà tiên tri câm lặng thay cho tiếng nói của tôi.”
Henry sững người. “Đúng nó rồi!” ông kêu lên. “Kiệt tác thời Jacobean của cô”.
Tôi cau mày, cố lục lọi trong trí nhớ của mình những câu thơ đó. “Chúng là của Shakespeare. Tôi chắc chắn vậy. Nhưng ở đâu? Không phải trong Hamlet ”.
Henry đứng dậy bước tới một giá sách cao, trên nóc đặt bức tượng bán thân của Shakespeare. “Không đâu, cô gái ngốc nghếch, không phải trong Hamlet đâu,” ông kêu lên. Lướt một ngón tay dọc theo những cuốn sách, ông lẩm bẩm. “Tầng thứ ba từ trên xuống. Cuốn sách thứ tư từ trong ra. Tôi nghĩ vậy. Phải rồi - tìm thấy rồi”. Ông rút ra một cuốn sách mỏng bìa da màu nâu sẫm có trang trí mạ vàng. Quay lại bên lò sưởi, ông kiểu cách đặt nó vào lòng tôi.
Không có tên trên bìa sách. Đặt tấm thẻ lên chiếc bàn, tôi mở sách, vuốt ve mặt giấy dày và mềm mại màu cà phê sữa. Trên đầu trang có trang trí hình các tiểu thiên sứ cưỡi lên những bông hoa trông qua cũng có thể gọi là những con rồng. Tôi đọc lên thành tiếng những từ đầu tiên: “Những bài sonnet của Shakespeare”.
“Nếu được tôi sẽ đặt tên cuốn sách này là Cuốn tự truyện bí ẩn”, Henry nói. “Nhưng chẳng ai hỏi ý tôi cả”.
Tôi nhìn trở lại trang sách:
Chưa từng được xuất bản
Tại London
Do G. Eld in cho T. T và
Được bán tại William Aspley
1609.
Tôi ngạc nhiên ngước mắt lên. “Nhưng đây là bản in gốc”.
“Bản gốc thời Jacobean,” Henry trả lời, đồng thời nháy mắt tinh quái. “Và nhiều người sẽ nói đây là một kiệt tác. Một trăm năm mươi tư bài thơ, từng bài riêng rẽ thường được coi là những báu vật nhỏ - Roz đã trích dẫn ra từ hai bài trong số này - nhưng sự tuyệt diệu thực sự của chúng chỉ hiện ra khi tất cả được xâu chuỗi lại thành một câu chuyện duy nhất. Một câu chuyện huyền bí dị thường ẩn chứa dưới những dòng thơ: Chàng trai trẻ tóc vàng, vị phu nhân tóc đen, và thi sĩ. Shakespeare tất nhiên là thi sĩ, nhưng ai là chàng trai trẻ và làm thế nào anh ta kết thúc trong vòng tay người tình tóc đen có trái tim đen tối của Shakespeare?” Cả ngôi nhà như đang cúi xuống ghé tai lắng nghe ông. “Tại sao thi sĩ lại cầu xin chàng trai hãy có con - và tại sao anh ta từ chối?”.
Ông lắc đầu. “Những bài sonnet tràn đầy tình yêu, ghen tuông và phản bội - tất cả những điều bí ẩn sâu thẳm đầy bất hạnh. Và còn thú vị hơn vì tất cả đều là sự thật”.
Một khúc củi sập xuống trong lò sưởi. “Cũng đầy cảm xúc nhất định với một bà hoàng của sân khấu đang già đi”, Henry châm biếm trong cảm xúc tự trào bộc phát. “Nhưng tại sao ngươi không dùng một phương cách vĩ đại hơn để khiêu chiến với thời gian độc tài tàn bạo? Roz đã bao giờ cảm thấy như vậy về cô chưa?”
Suýt nữa thì tôi phụt brandy ra khỏi miệng, “Cái gì, rằng tôi nên lấy chồng và đẻ ra một đàn Kate bé nhỏ tóc đỏ hoe chăng?”
Henry ghé người lại gần tôi. “Rằng cô cần có một người tình và làm mới lại mình, mãi mãi trẻ trung. Đó là ý nghĩa của đoạn thơ thứ nhất, cô hiểu chứ. Khiêu chiến với thời gian bằng cách có con”. Ông cầm lấy cuốn sách, giở qua mấy trang đầu tiên. “Từ đâu nhỉ? Đây rôi”. Ông chỉ ngón tay vào bài thơ trên trang sách. “Bài sonnet số mười sáu.”
Ông lại giở qua mấy trang nữa và dừng lại. “Như thế cũng đã khá tệ rồi, nhưng đoạn thơ thứ hai - đủ để cô phát khóc đấy, nếu cô nghĩa về nó. Loại người nào có thể viết một mạch Romeo và Juliet nhưng lại sợ nói Anh yêu em với chính người mình yêu? Đến mức phương cách duy nhất của hắn ta để chống lại kẻ tình địch của mình, một tên khốn kiếp miệng lưỡi ngọt ngào, là vai nài Hãy đọc cuốn sách của tôi ?
Vậy hãy để những cuốn sách của tôi làm lời hùng biện
Và những nhà tiên tri câm lặng thay cho tiếng nói của tôi.
Kẻ cầu xin tình yêu và tìm kiếm sự đền bù
Nhiều hơn những gì miệng lưỡi bao người từng nói .”
Giọng nói của ông làm cả căn phòng chìn trong cảm giác khát khao đến mức không thể kìm nén được, rồi từ từ biến mất.
Thay vào đó là cảm giác nghi ngờ dần dần lắng lại. Chiếc trâm không còn là một món quà nữa. Tôi ngắm nhìn tấm thẻ nhỏ đang nằm úp sấp trên chiếc bàn giữa hai chúng tôi.
“Đó là một bi kịch, được cô đọng lại trong khuôn khổ của một bài sonnet.” Henry nói. “Chỉ sau hai mươi ba bài thơ, và ông ta đã rút ra…”
Rượu brandy đốt cháy cổ họng tôi. “Ông nói gì cơ?”
“Ông ta đã rút ra…?”
“Không. Con số cơ”.
“Hai mươi ba. Đây này”. Ông giơ cuốn sách ra.
“Các câu thơ không có ý nghĩa gì cả.” Tôi chợt hiểu ra. “Cho dù chúng rất tuyệt vời. Đó là những con số. Số thứ tự của những bài sonnet”.
“Mười sáu và hai mươi ba?”.
Tôi lật ngược tấm thẻ của Roz lại để ông có thể nhìn xuôi từ trên xuống và chỉ vào phần tái bút. “Ông có nhìn thấy bà ấy viết phía dưới không?”
Ông cau mày khi nhìn thấy những gì tôi đã thấy: ký tự viết nguệch ngoạc không rõ ràng mà chúng tôi đã đoán là chữ s của từ viết tắt p. s, giờ đây hiện lên rõ ràng là một chữ a, liền sau là chữ d.
“A. D”, ông đọc to lên. “Anno Domini. Sau công nguyên… Tôi vẫn chưa rõ thứ này đang dẫn chúng ta tới đâu”.
“Đi ngược thời gian.” Tôi nói ngắn gọn. “Hãy nối những con số này lại thành một mốc thời gian”.
“Một nghĩ sáu trăm hai mươi ba… Nhưng chúng dẫn tới đâu? Bảy năm sau ngày Shakespeare qua đời? Chúng ta vẫn đang nói về Shakespeare đúng không?”
“Cuốn sách nổi tiếng nhất thời Jacobean của ông,” tôi gật đầu. “Kiệt tác chứa đựng tất cả những kiệt tác khác của ông. Xuất bản năm 1623”.
“Chúa ơi!” Henry nói. “ Tuyển tập Đầu tiên ”.