Chương 8
Chúng tôi trố mắt nhìn nhau. Tuyển tập Đầu tiên là ấn bản đầu tiên tập hợp các tác phẩm tuyển chọn của Shakespeare, được bạn bè và những mạnh thường quân của ông xuất bản vào năm 1623, sau khi ông qua đời. Đối với họ, đó là một đài tưởng niệm còn quý giá hơn đá cẩm thạch, và họ đã không tiếc tiền bạc, công sức và thời gian cho cuốn sách. Bản in của Tuyển tập sau khi rời xưởng in là một tác phẩm tuyệt đẹp - một nỗ lực rõ rệt để đưa tác giả từ thế giới hỗn độn, không được tôn trọng của nhà hát vào ngôi đền chân lý vĩnh cửu của thi ca. Với những kẻ thù của Shakespeare - tất cả những kẻ đã luôn chế nhạo ông khi sinh thời là một tên hãnh tiến gặp thời, không đáng nhặt vụn bánh thừa trên bàn ăn của họ - cuốn sách chính là sự báo thù ngọt ngào nhất.
“Cũng đủ để thúc đẩy người ta gây án mạng.” Henry nói. “Đây là một trong những cuốn sách đắt giá và được săn lùng nhất trên thế giới. Chắc cô cũng biết gần đây người ta đã trả một trăm sáu mươi ngàn bảng cho một bản in bị ố nước, thiếu nhiều trang trong một cuộc bán đấu giá chứ?” Ông lắc đầu như thể không tin nổi. “Khi Sotheby’s đưa ra đấu giá một bản gốc ở trạng thái hoàn hảo hiếm có vào năm ngoái, nó đã được bán với giá năm triệu đô la. Người ta còn đồn Paul Getty thậm chí đã phải trả đến sáu triệu. Hãy nghĩ mà xem: một cuốn sách cũ đắt gấp mười lần giá trung bình một ngôi nhà ở London. Tôi không muốn xúc phạm ai cả, Kate thân mến, nhưng nếu Roz tìm thấy một cuốn Tuyển tập Đầu tiên , tại sao không chạy thẳng tới Sotheby’s hay Christie’s bán đấu giá nó đi, rồi lui về sống an nhàn trong một villa ở vùng Provence? Tại sao bà ấy lại đến tìm cô?”
“Tôi không biết nữa.”, tôi nói, trong lúc một mớ ý nghĩ lộn xộn lướt qua trong đầu. “Trừ khi không phải bà ấy tìm ra một cuốn Tuyển tập - ý tôi là một bản gốc nữa - mà tìm thấy điều gì đó trong cuốn sách. Trừ khi bà ấy muốn biết một số thông tin”.
“Thông tin mà cô biết, còn bà ấy thì không?”
Nếu Henry không nói về Roz mà về một người khác, vẻ nghi hoặc của ông sẽ chẳng khác gì sự sỉ nhục. Roz nối tiếng với vốn hiểu biết khổng lồ và Shakespeare, chẳng hạn như việc những bài thơ và vở kịch của Shakespeare đã len lỏi vào những bài diễn văn tại Quốc hội Hoa Kì, xuất hiện trong các vở ba lê thời Liên bang Xô Viết hay trong văn chương tuyên truyền của chế độ Nazi như thế nào. Nhờ Roz, thế giới được biết Shakespeare cũng hoàn toàn không xa lạ trên sân khấu kịch Kabuki hay quanh những đống lửa trại giữa rừng Tây Phi hoang dã. Cuốn sách cuối cùng của bà - trong đó tôi đã đóng góp vào công tác nghiên cứu ở giai đoạn khởi thảo - đã thích thú mô tả chi tiết sự nổi tiếng của Shakespeare ở miền viễn tây hoang dã, trong những người thợ mỏ và dân miền núi mù chữ, ở những chàng cao bồi và các cô gái làng chơi, thậm chí cả trong vài bộ lạc người da đỏ. Các học giả, nhà hoạt động bảo tàng, các đòa kịch, nhà hát từ khắp nơi trên thế giới đã luôn tìm đến tham khảo sự tinh tường và lời khuyên của bà.
Nhưng Roz lại tìm sự giúp đỡ của tôi. “Tôi cần giúp đỡ, Kate”, bà đã nói với tôi như vậy lúc ban chiều. “Sự giúp đỡ của cô”. Ngay cả bây giờ, cũng như lúc đó, tôi chỉ thấy có một lý do: bản luận văn của tôi. Tôi đã xây dựng nghiên cứu của mình dựa trên các công trình của bà, chỉ với một ngoại lệ duy nhất. Tôi đã quyết định đào bới lại quá khứ để tìm hiểu những điều sâu xa hơn.
“Phần huyền bí của Shakespeare!” tôi kêu lên thành tiếng. “Bí mật, không phải là ma thuật,” tôi nói thêm, vô tình lại bật ra câu đính chính quen thuộc. “Đó là chủ đề duy nhất về Shakespeare mà tôi biết nhiều hơn Roz - câu chuyện dài và lạ lùng về những cố gắng nhằm tìm lại các hiểu biết bị cấm kỵ mà người ta tin nằm phân tán rải rác trong các sáng tác của ông. Phần lớn những hiểu biết đó được cho là ẩn giấu trong cuốn Tuyển tập Đầu tiên ”.
Henry nhìn tôi chăm chú. “Những hiểu biết bị cấm kỵ?”
“Những lời tiên tri hay lịch sử. Tùy ông chọn”. Tôi nhăn nhó mỉm cười với ông. “Những người tin Shakespeare là một nhà tiên tri coi cuốn Tuyển tập như những lời sấm truyền của Nostradamus: những lời tiên đoán bí hiểm về tương lai, dự báo việc Hitler lên nắm quyền, con người đặt chân lên mặt trăng, ngày tận thế, hay bữa tối vào thứ ba tuần tới của ông sẽ gồm những món gì. Còn phái “các nhà sử học” thì bận bịu dùng hết thời gian để bới lại câu chuyện tình cũ rích giữa Nữ hoàng Elizabeth và bá tước Leicester…”
“Khó mà gọi đó là một bí mật.” Henry nói. “Chẳng có thập kỷ nào trôi qua mà không xuất hiện một cuốn sách thuộc dạng bán chạy kỷ lục ăn theo câu chuyện tình này. Còn Hollywood thì đã trưng nó lên màn bạc cả trăm năm này rồi”.
“Đúng thế. Nhưng những câu chuyện mà tôi đang nói tới khẳng định không chỉ có một câu chuyện tình, mà có cả một cuộc hôn nhân thực sự giữa Nữ hoàng và bá tước, cùng sự ra đời của một người thừa kế hợp pháp từ cuộc hôn nhân đó. Một đứa bé trai đã bị mang đi giấu từ khi mới chào đời, giống như vua Arthur - để, giống như vị vua này, sẽ quay trở lại”.
Henry lẩm bẩm điều gì đó vẻ nghi ngờ. Khi ông nói lên thànhlời, giọng của ông có vẻ phật ý. “Và như vậy người ta cho rằng một nhà viết kịch xuất thân thấp kém từ Stratfort lại được biết những thông tin như vậy?
Một cơn gió rền rĩ thổi qua góc ngôi nhà làm những cánh cửa kiểu Pháp mở ra ban công sau lưng chúng tôi kêu lách cách. Tôi nhấp một ngụm rượu. “Vì ông ta chính là đứa bé được mang đi giấu”.
Trong giây lát, tiếng động duy nhất trong phòng là tiếng ngọn lửa lách cách trong lò sưởi. Rồi Henry bật cười. “Không thể có chuyện cô tin vào một chuyện tầm phào như thế!”. Ông cười phá lên, rót thêm brandy vào cốc của tôi.
Tôi mỉm cười. “Không. Roz cũng không. Chúng tôi thường bật cười trước phần lớn những câu chuyện như vậy - cho dù một hay hai câu chuyện quả thực là những bi kịch”. Tôi đứng dậy, bước lại gần lò sưởi. “Tôi không tin bà ấy lại theo đuổi một trong những câu chuyện đó nếu không có lý do chắc chắn, nghiêm túc về mặt học thuật. Nhưng có phải vậy hay không đâu còn quan trọng, đúng không nào? Có thể bà ấy bị sát hạn bởi một kẻ nghĩ rằng bà đã tìm thấy điều gì đó”.
“Hoặc sợ bà sẽ tìm thấy”.
Tôi đặt cốc rượu của mình xuống mặt lò sưởi. “Nhưng đó là cái gì? Ở đâu? Có khoảng hai trăm ba mươi bản gốc của Tuyển tập còn tồn tại đến ngày nay, rải rác khắp thế giới. Cho dù tôi biết bí mật nằm trong cuốn nào trong số đó - hay bà ấy chứng minh được đã tìm ra điều gì đó có trong mỗi cuốn sách - thì đây vẫn là một cuốn sách rất dày. Tôi phải tìm thứ gì đây?”
Henry cúi xuống nhìn tấm thẻ trên mặt bàn. “Hãy nghe tôi đoán nhé.” ông nói. “Bà ấy đã chọn ra những câu thơ từ các bài sonnet số mười sáu và hai mươi ba để ghép lại thành thời điểm. Nhưng trong mỗi bài sonnet có mười bốn câu để chọn. Tại sai lại là những câu đó?” Ông gõ ngón tay lên tấm thẻ.
Tôi đọc những dòng thơ ông chỉ vào:
“Vậy hãy để những cuốn sách của tôi làm lời hùng biện
Và những nhà tiên tri câm lặng thay cho tiếng nói của tôi.”
Đáp án chợt lóe khiến người tôi nóng bừng. “Bà ấy muốn nói đến những cuốn sách của chính mình đúng không? Không chỉ là những cuốn sách của Shakespeare. Tuyệt lắm, Henry”.
“Với một giáo sư có vô số công trình nghiên cứu như bà ấy thì gợi ý như vậy cũng chẳng khác gì đãi cát tìm vàng”.
“Ít nhất chúng ta còn có mấy dòng đầu thẻ nữa mà.” Tôi bật cười. “Ông lật nó lại đi”.
Ở mặt bên kia là những dòng chữ đánh máy gồ ghề của một đầu thẻ danh mục thư viện cũ:
“Chambers, E. K. (Edmund Kerchever). 1866-1954.
Sân khấu thời Elizabeth.
Oxford, The Carendon Press, 1923.”
“Tập sách tuyệt vời”, Henry nói.
“Chắc ý ông muốn nói là ‘những tập sách’. Bốn tập dày cộp”. Chambers là mông trong những thành viên cuối cùng của một trường phái học giả cũ, những người tập hợp các sự kiện theo đúng kiểu các nhà tự nhiên học thời Victoria sưu tập bọ cánh cứng và bướm - bừa bãi và có chiều sâu, trình bày chúng một cách thông minh và dồi dào. Khi được xuất bản, Sân khấu thời Elizabeth chứa đựng tất cả những bằng chứng đã biết liên quan tới sân khấu vào thời của Shakespeare. Từ đó tới nay một số ít thông tin nữa đã được phát hiện, nhưng cũng không đáng là bao. Với các học giả, bộ sách vẫn là mỏ vàng chứa đựng tất cả những chi tiết nhỏ nhặt liên quan tới sân khấu đã bị quên lãng từ lâu.
“Dù sao cũng tốt hơn là cuốn Tuyển tập ,” ông nói, đứng dậy khỏi ghế bành. “Vì thật tình cờ tôi lại có bộ sách này”. Ông bước lại phía các giá sách.
“Đợi đã.”, tôi nói. “Không phải bộ sách ông đang có. Mà là bộ sách của bà ấy. Đây là thẻ của bà ấy”.
Ông quay lại. “Roz đưa cả sách của chính mình vào danh mục thư viện?”
“Không. Khi nói đến sách, bà thường không phân biệt rõ giữa sách của bà với sách của trường Harvard. Ông nhìn thấy không?” Tôi chỉ vào con số ở trên đầu thẻ. Thr 390.160. “Đây là mã số phân loại trong hệ thống cũ sử dụng ở Widener - thư viện chính của Harvard - trước khi Dewey nghĩ ra những con số thập phân của mình”.
“Bà ấy lấy một tấm thẻ từ danh mục của trường Harvard sao?”
“Giờ là thẻ của bà ấy. Trường đại học đã đưa danh mục sách của mình lên mạng mấy năm trước, và trong cơn phấn khích với công nghệ mới những người phụ trách thứ viện coi những tấm thẻ là lỗi thời. Thế là để tiết kiệm diện tích, họ đã quyết định bỏ đi tất cả thẻ tra cứu cũ - tất cả mười một triệu chiếc, trong đó một số có từ thế kỉ mười tám. Kể từ đó chúng được dùng làm giấy nháp. Ngay từ lần đầu trông thấy Roz đã thích, và luôn sử dụng chúng”.
“Một cách hùng hồn, không nghi ngờ gì nữa!”, Henry bỡn cợt.
Tôi mỉm cười. “Bà ấy đã viết bài đăng lên các báo New York Times , The New Yorker , The Atlantic , TLS , tất cả đều chỉ trích thư viện. Cuối cùng, bà ấy làm lớn chuyện đến mức trường đại học đành đề nghị dành cho bà tất cả thẻ của các tác phẩm thời Phục hưng ở Anh và của Shakespeare, để bà không làm lôi thôi thêm nữa. Những gì bà phải làm là lựa chúng ta khỏi các thẻ khác. Đám nhân viên thư viện chắc định chơi bà một vố, nhưng họ đã lầm to. Bà ấy đã thuê ba trợ lý nghiên cứu trong một năm rưỡi chỉ để phân loại đống thẻ giấy đó… Một trong các trợ lý nghiên cứu ấy chính là tôi”. Tôi buồn bã nhìn chiếc thẻ. “Bà ấy giữ - đã giữ chúng tại một tủ đựng hồ sơ cũ của thư viện đạt trong phòng làm việc của mình. Tôi không nghĩ bà có thể dùng chúng một cách cẩu thả làm tấm thẻ nhắn tin”. Tôi đưa ngón tay miết lên tấm thẻ. “Tôi dám cá rằng có gì đó trong bộ sách của Chambers bà có sẽ nói cho chúng ta biết bà muốn nói tới cuốn Tuyển tập nào, và cần tìm nó ở đâu”.
“Cô sẵn sàng các cược gì?”
“Một chuyến đi tới Harvard?” Tôi hỏi. Nhưng đó không thực sự là một câu hỏi.
Hennry đặt cốc xuống. “Tại sao không đi thẳng đến đồn cảnh sát? Họ ở gần đây hơn nhiều”.
“Và trao bằng chứng này cho một gã cảnh sát kẻ cả trịch thượng, một kẻ sẽ không đủ đầu óc để giải mã nó, và vì thế sẽ để mặc nó phủ bụi trên một chiếc kệ lưu giữ vật chứng nào đó đến khi mục nát ra chăng? Không”. Tôi nuốt nước bọt. “Hơn nữa, Roz đã không tới gặp cảnh sát. Bà đã đến tìm tôi”.
“Và Roz đã chết, Kate”.
“Chính vì thế tôi phải đi.” Tôi đưa ngón tay lên mân mê cây trâm trên ve áo. “Tôi đã hứa. Và tôi có lẽ là người duy nhất có thể lần theo dấu vết bà để lại”.
Ngoại trừ kẻ đã giết bà. Không ai trong chúng tôi dám nói ra lời điều mình cùng nghĩ đến.
Henry thở dài. “Thám tử Sinlair sẽ không thích việc này lắm đâu”.
“Ông ta không cần phải biết. Tôi sẽ bay tới đó, xem qua cuốn sách, rồi lập tức quay về”.
“Nhờ ai đó kiểm tra hộ cô có lẽ sẽ nhanh và an toàn hơn. Cô không cần phải hỏi tại sao. Chắc chắn Harvard vẫn còn vài học giả nữa về Shakespeare”.
Tôi cầm cốc rượu của mình, bực bội lắc tròn chỗ brandy trong cốc. Có tài ăn nói, viết lách, thông minh hoạt bát, giáo sư Matthew Morris đã tới Harvard trống rong cờ mở một năm trước khi tôi ra đi. Đám sinh viên và các nhà báo tôn thờ ông ta; còn trường đại học thì cư xử với ông ta như với một ngôi sao nhạc rock. Nhưng chỉ mới gặp tôi đã không thích ông ta, Roz cũng vậy. Người đồng nghiệp thông thái của tôi, bà thường gọi ông ta như vậy với giọng ngọt ngào đầy mỉa mai. Trong con mắt của bà, ông ta đại diện cho những gì tệ hại nhất của các vị viện sĩ hiện tại - toàn những lời rỗng tuếch, không có chút thực chất nào. Ông ta sẽ là người cuối cùng trên đời bà muốn chia sẻ bí mật của mình. Nói chung, thà rằng tôi đi gặp Sinclair còn hơn.
Trong chiếc cốc của mình, rượu đã nằm yên trở lại. Tôi lắc đầu. “Đám bạn thời đại học của tôi đã tản mát hết. Còn Matthew Morris đang nghiên cứu tại thư viện Folger ở Washington D. C”. Đây là sự thực - một sự thực khá hài hước, vì ông ta vẫn khinh khỉnh coi nghiên cứu tư liệu là công việc khổ sai và làm người ta ngu độn đi - mặc dù đó không phải là lý do quan trọng nhất khiến tôi bỏ qua ông ta. “Không có ai khác mà tôi có thể tin tưởng.” Tôi nói. Ít nhất đây cũng hoàn toàn là sự thực.
Nói tới chuyến đi của tôi, hoặc là Henry đã đồng ý, hoặc ông đành chịu thua tôi, tôi cũng không rõ nữa. Nhưng khi tôi muốn quay về nhà chuẩn bị hành lý thì ông từ chối thẳng thừng.” Căn hộ của cô chắc chắn bị theo dõi.” ông nói. “Hơn nữa, cô cần nghỉ ngơi một chút. Hãy đưa cho tôi danh mục những thứ cần thiết, và tôi sẽ bảo Barnes chuẩn bị cho cô. Tôi xin hứa chuúng tôi sẽ đưa cô tới Heathrow và để cô lên chuyến bay đầu tiên đi Boston”.
“Nhưng Barnes không thể mua đồ mặc trong cho tôi được”.
Khuôn mặt ông lộ vẻ phiền lòng. “Đồ lót, cô bé. Gọi thế nghe quyến rũ hơn nhiều”.
“Ông muốn gọi là gì thì gọi, nhưng Barnes không thể mua chúng được”.
“Vậy ta hãy để bà Barnes lo chuyện này vậy - thật là một phụ nữ can đảm. Không bao giờ có ý định rút lui, kể cả trước mặt một núi đồ lót”. Tôi không nghĩ đến chuyện lại có một bag Barnes tồn tại trên đời, nhưng Henry đã nhìn tôi với vẻ kinh hoàng vờ vĩnh. “Cô không nghĩ là tôi tự dọn nhà đấy chứ?”
Tôi phải bật cười. “Henry, ông đúng là sống ở một thế kỷ khác”.
“Tất cả mọi người có thể đều như vậy mà”, ông vui vẻ đáp, uống cạn cognac trong cốc.
Khi tôi leo lên chiếc giường trải đệm dày, rộng đến mức đủ chỗ cho cả tá người, tôi nghe thấy tiếng chuông đồng hồ điểm ba giờ vọng lại từ đâu đó trong nhà. Tôi nằm cuộn tròn trong chăn, một tay nắm lấy chiếc trâm, tay kia cầm chiếc thẻ của Roz, nghĩ tới bóng đen mà tôi đã thoáng thấy trên cửa sổ căn hộ của mình.
Hẳn tôi đã quá hoảng hốt khi nhìn thấy bóng của tấm rèm cửa hay đồ đạc trong phòng từ một góc đặc biệt từ dưới con phố lộng gió, giống như người ta vẫn tưởng tượng ra hình cho sói hay cá voi khi ngắm nhìn những đám mây. Tôi nằm thao thức hồi lâu, lắng nghe cả căn nhà đã chìm vào giấc ngủ.
Sau đó tôi đã bị cuốn dần vào giấc ngủ. Dần dà, giấc mơ của tôi tràn ngập âm thanh của nước đang ào ào chảy xiết. Tôi ngồi bật dậy. Chiếc giường đã biến thành bãi cỏ bên một dòng suối lấp lánh ánh trăng. Cách tôi không xa, có ai đó nằm ngủ giữa những khóm violet. Một ông vua tóc hoa râm, đầu đội vương miện. Tôi bò lồm cồm tới chỗ ông ta. Những bông violet phía dưới ông đều đã héo khô trên cành; người đàn ông cũng đã chết. Ít nhất, tôi nghĩ đó là một người đàn ông, nhưng trong khi tôi ngắm nhìn, khuôn mặt của người đó gợn sóng lăn tăn và lay động như khi ta nhìn vào một khuôn mặt nằm dưới mặt nước, và tôi nhận ra đó chính là Roz.
Bất ngờ, đôi mắt xanh lục của bà bật mở. Trong khi tôi nhảy lùi trở lại, một bóng đen lặng lẽ lần tới tôi từ phía sau, và tôi nghe tiếng lưỡi kiếm được rút ra khỏi vỏ.
Tôi ngồi bật thẳng người dậy trên giường, phát hiện ra mình đã để chiếc ghim cài trâm đâm vào bàn tay; máu đã rỉ một ít ra chiếc nệm của Henry. Tôi nhổm người lên, thận trọng kéo chiếc rèm ra. Ngoài vườn, những bông hồng to như hoa mẫu đơn màu hồng phớt và đỏ sẫm rực rỡ khoe sắc dưới ánh mặt trời. Tôi đứng ở cửa sổ, để những tia nắng chiếu qua mặt mình cho đến khi giấc mơ, và chậm hơn một chút là cảm giác sợ hãi ám ảnh tôi lúc tỉnh giấc, dần dần tan biến.
Ở phòng thay đồ quần áo mới đã được chuẩn bị sẵn: một chiếc quần ống đứng màu đen, một chiếc áo cổ rộng bó sát hơn tôi vẫn quen mặc, và một chiếc áo khoác đắt tiền kiểu dáng đơn giản. Tôi ngạc nhiên một cách thích thú khi trông bộ quần áo tuyệt đến vậy. Cạnh đó là một chiếc vali nhỏ đã được sắp sẵn. Trên mặt vali là vé máy bay. Chuyến bay của tôi xuất phát lúc chín giờ. Tôi vội vã mặc quần áo, gài chiếc trâm của Roz vào chiếc áo khoác mới của mình và đi xuống dưới nhà tim Henry.
“Bị những tay paparazzi săn đuổi dạy cho bạn nhiều điều khôn ngoan hơn nhiều so với sân khấu.” ông hài lòng lên tiếng khi tôi bước vào phòng ăn dùng bữa sáng. Hóa ra chiếc Bentley đã chuẩn bị xuất phát về hướng Highgate, trên băng ghế sau là người làm vườn và cháu gái người này. Nhưng ngay cả khi đã điều đi một chiếc xe đánh lạc hướng. Henry vẫn gặng hỏi tôi mãi trong lúc ăn sáng. “Cô chắc không cần ai đi cùng chứ?” ông hỏi, trong khi đã thả vào tách trà của mình cả một đống đường.
Tôi lắc đầu. “Cảm ơn ông, nhưng đi một mình tôi sẽ thu hút ít sự chú ý hơn là đi cùng một diễn viên nổi tiếng thế giới”.
Cuối cùng, tôi cảm thấy thật nhẹ nhõm khi chui vào chiếc Range Rover, sau tay lái là Barnes. “Cẩn thận nhé, Kate”, Henry chỉ nói vậy khi đóng cửa xe. Nhưng đôi mắt ông đầy vẻ lo âu.