← Quay lại trang sách

Chương 9

Chuyến bay chỉ để lại một thoáng ký ức lờ mờ. Henry đã mua cho tôi vé hạng nhất, do đó ít nhất tôi cũng có thể thoải mái duỗi thẳng chân, cho dù không thể ngủ hay suy nghĩ gì được. Vào lúc một giờ chiều, chuyến bay của tôi hạ cánh xuống sân bay Logan, Boston, tôi bắt một chiếc taxi tới Harvard.

Trong khi chiếc taxi đi vòng qua Storrow Drive, tôi ngắm nhìn dòng Charles uốn lượn phía bên phải mình, xanh thẳm dưới bầu trời không một gợn mây. Cuối cùng, những mái vòm màu hạt dẻ, xanh ngọc và xanh da trời nằm trên nóc các khối nhà xây bằng gạch đỏ, nơi sinh sống của các sinh viên trường Harvard, xuất hiện ở bờ đối diện. Con đường vắt qua sông rồi vòng trở lại khu Cambridge nó như lò nướng bánh vào tháng Sáu. Tôi thuê phòng khách sạn - tại khách sạn Inn ở Harvard - nhanh nhất có thể. Bỏ lại vali trong phòng, khoác chiếc túi đựng sách trên vai, tôi băng qua đại lộ Massachusetts vào khuôn viên Harvard Yard.

Bầu không khí ở đây dịu hẳn - những tòa nhà xây bằng gạch được viền quanh bởi những bãi cỏ rộng mênh mông thay vì các vỉa hè, nằm giữa một khoảng rừng thoáng đãng thanh lịch với những thân cây cao thẳng tắp. Tôi đi vòng qua một khúc quanh, và tòa nhà thư viện hiện lên trước mắt tôi. Được xây dựng để tưởng nhớ một sinh viên trẻ vừa tốt nghiệp đã thực hiện chuyến đi sang châu Âu vào năm 1912 để thỏa mãn niềm đam mê dành cho những cuốn sách quý, sau đó quay về nhà trên chiếc Titanic, thư viện tưởng nhớ Harry Elkins Widener nằm ở nửa phía đông của Harvard Yard, một tòa nhà cũng vuông vắn, đồ sộ và hống hách như người phụ nữ đang đau khổ đã tài trợ xây dựng lên nó thuở ban đầu.

Tôi chạy lên những bậc tam cấp của lối vào, băng qua cánh cửa cao ngang hai tầng nhà vào khu tiền sảnh lát đá cẩm thạch rộng rãi mát lạnh. Dừng lại một lát ở phòng ưu tiên, tôi được phát chiếc thẻ vàng ưu tiên để vào kho tư liệu tham khảo dành cho bạn đọc ngoài trường đến nghiên cứu. Quay xuống tầng dưới, tôi chìa chiếc thẻ tạm thời của mình cho một sinh viên đang buồng bã ngôi gác, rồi bước vào kho tư liệu tham khảo qua một cầu thang được chiếu sáng choang.

Tôi đứng yên một lát để định hướng. Bằng một di chúc hiện tặng được soạn thảo chặt chẽ, bà Widener đã đảm bảo rằng vẻ bề ngoài của thư viện sẽ không bao giờ thay đổi, dù chỉ một viên gạch. Tuy vậy cấu trúc bên trong lại là chuyện khác: về phần này, bà ta đành phải miễn cưỡng nhượng bộ cho phép thư viện được thay đổi và phát triển một cách linh hoạt theo thời gian. Sau khi tôi rời khỏi trường, phần bên trong của thư viện đã được tu sửa cho hợp với thế kỷ hai mươi mốt qua một đợt cải tạo tốn kém hàng triệu đo la. Tôi hy vọng vần còn có thể tìm được thứ mình cần tại đây. Một cái nhìn nhanh qua tấm bản đồ dán trên tường cho thấy về cơ bản mọi thứ ở đây vẫn như cũ.

Đi theo lối đi được đánh dấu bằng băng dính đỏ dán trên sàn, tôi bước xuống bốn dãy cầu thang tới tầng hầm sâu nhất của thư viện. Đi len qua những lối đi lại hẹp nằm giữa các dãy giá sách chứa đựng những kiến thức từ lâu bị quên lãng, tôi bước vào một đường hầm uốn khúc, chạy dọc thành đường hầm là những đường ống lớn không ngừng kêu lạch cạch. Đến cuối đường hầm, những cánh cửa kim loại nặng nề mở vào một khu sảnh, tấm thảm màu cam đã sờn mòn dưới sàn dẫn tới một thang máy nhỏ, chiếc thang máy cọt kẹt hạ xuống thêm tầng nữa. Tôi bước vào một căn phòng rộng mênh mông hình vuông được chiếu sáng rất tốt, cả căn phòng vang lên tiếng vo vo không ngừng như trong một con tàu vũ trụ bị chôn sâu dưới đất.

Tôi liếc nhìn sơ đồ gắn trên tường cạnh thang máy, rồi nhìn lại tấm thẻ của Roz. Thr 390.160 là số cần tìm. Khu vực “Thr” - Lịch sử sân khấu - nằm trong góc sâu nhất của căn phòng. Tôi khẽ bước tới đó, đi chậm lại khi tới khu Thr. Các ngăn bắt đầu bằng 390 đây rồi. Cúi người xuống, tôi lướt ngón tay dọc các gáy sách: 190,180,165,160.5… rồi không còn gì ngoài ngăn sách trông trơn. Tôi nhìn lại tấm thẻ cầm trong tay rồi nhìn lại lần nữa lên giá sách. Không nghi ngờ gì nữa, tôi đã tìm đúng chỗ. Nhưng nơi mà đáng ra là chỗ của bốn tập sách chỉ là một khoảng trống không. Không có tập nào trên giá.

Chết tiệt, chết tiệt, chết tiệt. Tôi chưa bao giờ nghĩ tới tình huống những cuốn sách không còn ở trên giá. Tôi vội vã chạy tới một máy vi tính đang bật sẵn đặt trong góc gần thang máy. Tôi có thể mượn lại những tập sách này - qua danh mục số hóa trên mạng - từ người đã mượn chúng đi, nhưng để lấy lại sách về sẽ mất từ một tuần tới mười ngày… nếu tôi may mắn. Nếu người mượn sách đang đi công tác, rất có thể sẽ mất cả tháng trời. Tôi không thể đợi một tuần được, nói gì tới cả tháng. Bực bội rủa thầm, tôi gõ tên tập sách vào máy vi tính.

Câu trả lời hiện ra còn tệ hơn tôi có thể ngờ tới. “Chưa cho mượn ra ngoài”. Màn hình hiện rõ ràng như vậy. Tuyệt vọng, tôi quay lên tầng trệt lại quầy cho mượn, tại đây người sinh viên đang trực tại bàn uể oải trả lời rằng tôi có thể yêu cầu kiểm tra các giá sách.

“Kiểm tra các giá sách?” tôi không tin vào tai mình nữa. “Cô định cử một kẻ khốn khổ nào đso đi tìm bốn tập sách lạc chỗ giữa mười một triệu cuốn ư?”

Cô ta nhún vai. “Chỉ có ba triệu năm trăm ngàn cuốn trong tòa nhà này thôi. Nhưng dù sao bốn tập sách của cô cũng sẽ chẳng ló mặt ra đâu”.

Cho dfu Roz đã tìm ra điều gì trong bộ Sân khấu thời Elizabeth , chắc chắn bà đã đánh dấu lại. Về chuyện này thì tôi dám chắc; bà vốn nổi tiếng có thói quen đánh dấu vào sách. Luôn luôn bằng bút chì - thường là một dấu kiểm tra nhỏ - một kiểu phản ứng vô thức trong khi đọc, tự động như việc hít thở bình thường vậy. Người ta cũng đồn rằng một lần bà đã bị tống ra khỏi thư viện quốc gia Anh vì đã đánh dấu lên một bản thảo một ngàn năm tuổi. Không phải với dụng ý xấu mà chỉ do đãng trí. Một điều mà có vẻ người Anh hay ít nhất những thủ thư kiểu cũ của họ, có thể tha thứ được, vì không bao lâu sau họ đã mở cửa đón chào bà trở lại. Thỉnh thoảng, bà còn viết nguệch ngoạc lên lề sách, và một hai lần cả những đoạn bình luận hoàn chỉnh… Tôi cần đúng bản sách mà bà coi như của mình. Bản sách của thư viện Widener.

“Cảm ơn cô”, tôi cố tỏ ra lịch sự, ký vào yêu cầu để các nhân viên thư viện thực hiện việc tìm kiếm. Đến trước cánh cửa dẫn trở ra tiền sảnh, tôi dừng lại trên ngưỡng cửa. Giờ thì sao đây?

Tôi đang rẽ phải về phía lối ra thì đôi mắt tôi chợt bị thu hút về phía cầu thang lớn lát cẩm thạch ở bên trái. Thư viện là một khối nhà hình vuông rỗng ở giữa bao quanh một khoảng sân trong; ở giữa khoảng sân này là lăng mộ hình vòm dành cho Harry Widener được nối ra quảng trường bên ngoài qua một hành lang hẹp. Đây không phải là nơi yên nghỉ nắm xương tàn của Harry, mà của những cuốn sách anh sưu tập được. Nằm trong lòng đá cẩm thạch của mái vòm là một bản sao chính xác phòng đọc lát ván gỗ sẫm màu của Widener, và mỗi buổi sáng hoa tươi vẫn được đặt lên bàn làm việc của anh.

Tôi bước nhanh lên cầu thang tới một đầu cầu thang sang trọng bằng cẩm thạch có màu như một tờ giấy da. Một khung cửa theo phong cách tân cổ điển dẫn vào căn phòng hình bán nghuyệt, cũng làm bằng cẩm thạch. Phía bên kia lối đi, một khung cửa nhỏ hơn dẫn vào phòng đọc; tôi thoáng thấy những tấm gỗ lát tường sẫm màu, những cuốn sách nằm trên các giá sách phía sau cửa kính, và những bông cẩm chướng đỏ vẫn còn tươi. Căn phòng trần vòm này chính là nơi tôi muốn tới. Trên một chiếc bệ mặt kính ở giữa phofgn có đặt hai cuốn sách, gáy quay vào nhau. Cuốn thứ nhất là cuốn sách in đầu tiên trong lịch sử: Cuốn Kinh Thánh của Gutenberg , với những dòng chữ Latinh đều đặn in bằng chữ cái đậm màu đen, các ký tự đầu dòng được sơn đỏ và xanh. Cuốn thứ hai, nhờ vào sự sành sỏi và túi tiền nặng của Harry, chính là bản in gốc cuốn Tuyển tập Đầu tiên mà Harvard sở hữu.

Căn phòng không có ai; sinh viên Harvard hiếm khi tới tham quan địa điểm này. Cuốn sách được trưng bày mở ra ở trang đầu tiên với bức chân dung in khắc của Shakespeare, bức chân dung mô tả ông với đôi mắt lơ đãng và vầng trán dô, trong khi cả chiếc đầu được đặt trên cổ áo xếp vụng về đến mức trông như bị cắt rời ra vậy. Bức chân dung được đặt trên nửa vầng hào quang. Phía trên bức tranh là dòng chữ lớn “HÀI KỊCH, KỊCH LỊCH SỬ VÀ BI KỊCH CỦA WILLIAM SHAKESPEARE”. “Được xuất bản thảo bản gốc”. Dưới bức chân dung có in “LONDON. Được in bởi Isaac Iaggard, và Ed. Blount. 1623”.

Tôi quan sát kỹ trang sách. Không độc giả nào dám bôi bẩn lên nó. Đúng là Roz đã từng đánh dấu lên trang đầu của những tác phẩm ít thiêng liêng hơn. Nhưng ngay cả Roz có lẽ cũng phải chùn tay khi định đánh dấu lên một bản in của Tuyển tập .

Chambers chính là chìa khóa. Có điều gì đó trong bốn tập của cuốn Sân khấu thời Elizabet sẽ cho tôi biết cần tìm cái gì. Nếu tôi tìm được bản sách của thư viện Widener. Tôi giật mình. Nếu kẻ sát nhân đã tìm được nó thì sao? Không thể nào. Manh mối mà Roz để lại đang nằm trong tay tôi khi vụ giết người xảy ra, và cả trong vài giờ sau đó.

Nếu chính Roz đã lấy đi những tập sách đó thì sao? Nếu đúng thế, chắc hẳn bà đã mang chúng theo tới London. Henry chắc có thể moi được thông tin xác nhận việc này từ ai đó. Nhưng khi đó tôi cần làm gì? Tới gặp Sinclair, cúi mặt xuống đề nghị được xem qua những cuốn sách của giáo sư Howard mà không đưa ra lý do cụ thể nào chăng? Tôi chạy xuống cầu thang ra ngoài khu rừng cây.

Ở đầu đối diện của Harvard Yard, các bậc tam cấp dẫn lên một bậc thềm rộng bao quanh nhà thờ Memorial. Năm năm trước, vào một đêm tháng Năm, không có phông nền nào khác ngoài những đường nét kiến trúc khắc khổ của chính nhà thờ, bậc thềm này chính là sân khấu cho vở kịch đầu tiên tôi đạo diễn: buổi diễn tốt nghiệp của vở Đêm thứ mười hai. Những cây sơn thù du đã phủ ngập sân khấu bằng những hóa hoa trắng và hồng, còn tiếng cười len lỏi cả vào tán lá của những cây du.

Tôi vẫn còn cẩm thấy tự hào về buổi diễn đó. Vở kịch vừa hài hước vui nhộn vừa đầy những trò đùa cợt ma mãnh, trung tâm là trò đùa về một điều bí ẩn chẳng dẫn tới đâu cả ngoài việc khiến anh chàng Malvolio kiêu hãnh, khắc khe bị mắc lỡm - đầu tiên khiến anh ta trở thành ngớ ngẩn, sau đó thì hóa điên thực sự. Tôi ngồi xuống bậc tam cấp nhà thờ. Chẳng lẽ Roz cũng để lại một cái bẫy tương tự trên con đường của tôi?

Đó là một ý nghĩ chẳng hay ho gì. Tôi chợt nhói đau khi nhớ tới cảnh bà nằm dưới băng ghế trong nhà hát Quả cẩu, đôi mắt mở to.

Một văn phòng hay ho quá nhỉ , bà đã nói vậy ngày hôm đó, trước khi chết.

Một cách xuất hiện hay ho thật đấy , tôi đã đáp trả.

Sau tất cả những rắc rối đó, Katie, tôi đã hi vọng về điều gì đó ít trần tục hơn. Và - phải Shakespeare hơn một chút.

Lúc đó tôi đã chỉ nhìn chằm chằm vào bà. Và chính Herry đã cho bà thứ bà muốn. “Ta sẽ gọi con Hamlet”, ông đã nói, “Vua, cha, dòng dõi hoàng gia Đan Mạch”.

“Ta sẽ gọi con, Hamlet”, tôi nói lên thành tiếng, và trong lúc tôi bật ra câu nói này, một góc tối trong tâm trí tôi chợt lóe sáng. Tôi ngồi lặng đi giây lát. Sau đó tôi lục lấy điện thoại di động của mình và gọi cho Henry.

“Vết kim tiêm!” tôi nói bằng giọng gấp gáp ngay khi ông nhấc máy trả lời.

“Xin chào cô, Kate yêu quý”.

“Vết kim tiêm họ tìm thấy trên người bà ấy. Nó nằm ở đâu?”

“Một câu hỏi lạ đây!” ông khịt mũi. “Với một câu trả lời không bình thường, mà tôi tình cờ được biết vì tôi vừa mới có một cuộc chuyện vãn nữa với thanh tra Sinclair. Một anh chàng thực sự tàn nhẫn sắt đá - đầy chất Dostoyevsky”.

“Ở đâu, Henry?”

“Ở tĩnh mạch lớn sau tai phải bà ấy”.

Trên đầu tôi, những dòng ánh sáng màu xanh lục len lỏi luồn qua các tán cây thành dòng như thể xuyên xuống lòng biển yên ả. Khi những tia sáng đó xuống tới chỗ tôi ngồi, chúng hầu như chỉ làm bóng râm sáng lên chút ít, còn hơi ấm của chúng thì đã nguội đi từ lâu.

“Kate, cô vẫn ở đó chứ?”

“Ông ấy cũng đã chết như vậy.” Tôi thì thầm.

“Ai cơ? Có ai nữa đã chết à?”.

“Người cha của Hamlet. Vị vua già. Đó là lý do khiến ông ta biến thành hồn ma ở đầu vở kịch”.

Henry thở hắt ra một hơi dài nặng nề. “Trong lỗ tai của tôi”, ông lẩm bẩm. “Jesus, đúng vậy, Kate. Em trai ông ta đã đổ thuốc độc vào tai ông ta khi ông đang ngủ. Tất cả đều khớp… trừ một chi tiết”.

“Chi tiết nào?”

“Kết quả kiểm tra độc chất sơ bộ, cô bé thân mến,” ông nói với giọng hối lỗi. “Kết quả âm tính”.

“Không có thuốc độc? Ông chắc chứ?”

“Tôi không biết chắc chắn họ đã kiểm tra những gì. Tôi nghĩ là ma túy. Nhưng không có chút dấu vết nào”.

“Vậy thì họ đã bỏ qua cái gì đó. Ông có thể liên lạc với Sinclair…?”

“Chính anh ta đã nói cho tôi chuyện này”.

“Vì Chúa, Henry.” Tôi vội vã nói. “Bóng ma người cha Hamlet chính là vai mà Roz diễn khi bà xuất hiện chiều hôm qua. Nhà hát bị cháy đúng vào ngày xảy ra vụ cháy đầu tiên. Và những cuốn sách bà muốn tôi tìm kiếm - đã được mã hóa - lại biến mất. Không được cho mượn ra ngoài. Chỉ đơn giản là biến mất. Liệu ông tin có từng ấy sự trùng hợp ngẫu nhiên không?”

Trong điện thoại chỉ còn sự im lặng không báo trước điều gì tốt lành.

“Tôi sẽ quay lại gặp Sinclair lần nữa với một điều kiện.” Henry nói với giọng kiên quyết. “Cô quay ngay về phòng khách sạn, khóa trái cửa lại, và đợi tôi gọ. Tôi rất lo cho cô”.

“Nhưng còn Chambers…” tôi phản đối.

“Cô vừa nói bộ sách đã biến mất rồi mà”.

“Nhưng…”

“Đợi tôi gọi lại, Kate”. Ông cứng rắn lặp lại. “Khi chúng ta đã có câu trả lời của Sinclair, chúng ta sẽ can nhắc xem cần làm gì tiếp theo. Nếu cô đúng - và tôi không hi vọng là vậy - đây sẽ không phải là chuyện cô có thể đơn độc thoát ra được đâu”.

Tôi do dự. Dừng lại lúc này cũng có nghĩa là bỏ mất đột ngột manh mối trong bộ sách của Chambers, tôi dám chắc như vậy. Nhưng tôi không thể để mất sự giúp đỡ của Henry. “Được.” Tôi miễn cưỡng đáp. “Tôi sẽ đợi”.

“Cô bé ngoan lắm. Tôi sẽ gọi cho cô ngay khi biết được câu trả lời”.

Tôi tắt máy. Roz đã để mình dính dáng vào chuyện quái quỷ gì vậy? Rôi lôi kéo cả tôi - và qua tôi là Henry - vào cuộc?

Tôi ngoái lại nhìn về phía thư viện. Từ góc nhìn nơi tôi đang đứng, hàng cột lớn ở mặt trước đem lại vẻ uy nghi của một ngôi đền cổ cho khu nhà xây bằng gạch nghiêm trang. Một ngôi đền của tri thức, tôi thầm nghĩ. Một nơi thân thuộc với các giáo sư tiếng tăm nhất của trường Harvard, những người này đều có phòng đọc cá nhân riêng tại thư viện này. Matthew Morris, một kẻ căm ghét thư viện đến mức coi đó là nguyên tắc sống, cũng có một phòng đọc như vậy, nơi hầu như ông ta chẳng bao giờ đặt chân tới, nhưng vẫn khăng khăng giữ lấy. Đó là một dấu hiệu của đẳng cấp. “Căn phòng chứa đựng các bí mật của tôi.” Roz đã nói về phòng đọc riêng của bà như vậy rồi đưa cho tôi một chiếc chìa khóa của nó khi tôi trở thành trợ lí nghiên cứu của bà. “Ngôi nhà ký ức của tôi”.

Hồi ức này chợt khiến tôi nhớ lại một điều khác. Đó là cái gì vậy? Tôi đã hỏi bà trong cuộc gặp cuối cùng. “Nó nằm trong ký ức đã được chôn kín của tôi, và chính cô sẽ giữ chìa khóa của nó”.

Lúc đó, tôi nghĩ bà muốn nói tới chiếc hộp bọc giấy lụa vàng, nhưng lúc này tôi chợt nhớ đúng là tôi có một chiếc chìa khóa theo đúng nghĩa đen. Tôi moi chùm chìa khóa từ túi cóc chiếc túi đang đeo ra. Năm chiếc chìa khóa nằm trên tay tôi, trong đó có một chiếc dài hơn, nặng hơn, và sẫm màu hơn những chiếc còn lại. Chìa khóa phòng đọc cá nhân của Roz. Tôi vẫn giữ nó khi bỏ đi khỏi trường; trong suốt ba năm sau đó, tôi đã giữ nó, tự nhủ sẽ trả lại khi bà hỏi tới. Nhưng bà không bao giờ hỏi đến chiếc chìa khóa.

Bất thần, tôi chợt hiểu ra. Tôi ngước nhìn lên. Dấu vết bà để lại chắc chắn đi qua căn phòng đọc này.

Sinclair, với những chiếc cặp hồ sơ và sự cương quyết đầy hiệu quả của mình, chắc chắn đã liên lạc với cảnh sát Harvard yêu cầu niêm phong văn phòng của Roz như là hiện trường điều tra; cả văn phòng khoa Anh văn. Nhưng phòng đọc của bà tại thư viện có thể - chỉ là có thể - đã bị bỏ qua. Tại Widener, thời gian vẫn luôn trôi qua lặng lẽ như vậy. Các giáo sư thường cố thủ trong phòng đọc riêng để tránh khỏi sự quấy rầy liên miên không bao giờ dứt của trường đại học và cho phép mình được thoải mái theo đuổi đam mê tìm kiếm hiểu biết của họ. Thậm chí có lẽ không ai ở khoa Anh văn biết phòng đọc của Roz nằm ở đâu.

Nhưng sau khi cái chết của bà được công bố công khai là một vụ án mạng, nhà chức trách sớm muộn cũng sẽ nhớ tới sự tồn tại của phòng đọc này. Và Sinclair liên tục hối thúc, có lẽ việc đó sẽ sớm thôi. Tôi chỉ có một cơ hội nhỏ, và khe hở của cơ hội này đang đóng dần lại.

Thầm xin lỗi Henry, tôi khoác túi lên vai, chạy qua sân trường, vội vã lao lên cầu thang dẫn vào Widener.