← Quay lại trang sách

Chương 10

Quẹt thẻ vào máy kiểm tra, tôi lại chiu xuống khu tra cứu tài liệu - không phải khu mở rộng dưới tầng hầm, mà vẫn trong tòa nhà thư viện, vốn bao gồm mười tầng rộng ngóc ngách như những mê cung, trong đó có sáu tầng nằm trên mặt đất. Phòng đọc riêng của Roz nằm ở tầng năm. Tôi lao lên cầu thang, bước ra khỏi đầu cầu thang và dừng lại.

Tôi đã quên mất cảm giác ở trong một kho lưu trữ tư liệu. Không có gì chung với vẻ phô trương của các khu sảnh dành cho công chúng và các phòng đọc cộng đồng - lại càng khác với ánh sáng chói mắt ở khu tầng hầm. Mùi ẩm mốc cũ kỹ thoang thoảng trong không khí, pha lẫn với mùi hăng hăng - biểu hiện của cuộc chiến đang diễn ra giữa giấy và oxy, một quá trình cháy chậm chạp nhưng không thể tránh khỏi đến một ngày nào đó sẽ biến vương quốc hiểu biết này thành tro bụi.

Tôi khẩn trương chạy xuống phía nam của thư viện, nơi các dãy giá sách bằng sắt quay ngoặt góc và chạy dài ra phía xa. Không có nhiều người ở đây vào một buổi chiều mùa hè ấm áp. Tuy thế, tôi vẫn thấy hai hay ba sinh viên nghiêm chỉnh đang cặm cụi làm việc. Tôi không chỉ có một mình.

Nếu tôi làm như thể được quyền có mặt ở đây thì có lẽ họ cũng sẽ coi là vậy mà không tò mò chú ý gì hơn. Rẽ vào một lối đi, tôi hướng tới một hành lang bên trong dẫn thẳng tới trước cửa phòng đọc của Roz. Nửa trên của cánh cửa, cũng như những chiếc khác, được lắp kính mờ.

Chìa khóa vẫn vừa. Cửa hé mở, và tôi bước vào trong.

Gần như mọi thứ vẫn y nguyên như tôi còn nhớ. Dọc ba bức tường, những chiếc giá vẫn đầy chật sách từ sàn đến chấm trần nhà, chỉ bị gián đoạn ở một bên bởi chiếc tủ đựng những chiếc thẻ thư viện của bà, và bên đối diện là chiếc bàn làm việc của Roz. Trên mặt bàn, đôi hoa tai dài – một món đồ thủ công Navajo làm bằng bạc và ngọc lam mà tôi tặng bà từ lâu - nằm xếp bên bàn phím máy tính, cạnh một bức ảnh Virginia Woolf lồng khung bạc. Một bức tượng bán thân của Shakespeare được đặt lên chồng giấy. Dán vào tường phía trên bàn làm việc là tấm bản đồ Anh; cạnh đó là bản sao của tấm bản đồ khác được vẽ từ thời Shakespeare. Trên sàn, vẫn là tấm thảm phương Đông cũ, với những vết lằn quen thuộc ở những chỗ bà hay di chiếc ghế của mình qua lại. Một chiếc ghế bành bọc vải hoa đã sờn góc trong giữa những giá sách và cửa sổ.

Hai khung cửa sổ đã thay đổi so với trước đây. Roz đã khăng khăng từ chối không cho treo rèm hay mành che; bà không muốn mất đi dù chỉ một centimets tầm nhìn ra bầu trời bên ngoài, bà nói vậy. Về mặt này không có gì thay đổi. Nhưng lần cuối cùng tôi ở đây, hai khung cửa sổ nhìn xuống khoảng sân giữa trống trơn của thư viện, nơi chỉ có những con chim và những thứ rác rưởi bị gió cuốn tới thăm. Còn bây giờ, chúng nhìn xuống một căn phòng đọc sáng choang đông nghịt độc giả. Tôi chợt nhớ ra một trong những thành quả của lần cải tạo thư viện. Trường đại học đã kiêu hãnh lợp kính trong suốt lên toàn bộ khoảng sân nằm quanh mái vòm trung tâm, biến khoảng không gian phía dưới thành hai phòng đọc tiện nghi.

Đứng giữa phòng, tôi đang ở trong tầm nhìn của bất cứ người đọc nào tình cờ ngẩng lên, bực bội rủa thầm, tôi đi tới bàn làm việc. Tôi đặt túi xuống sàn, giao mình ngồi xuống chiếc ghế của Roz, bồn chồn suy tính.

Nếu có ai đó nhìn lên, họ sẽ thấy bình thường nếu tôi ngồi đây và đọc sách. Tôi cũng có thể tìm kiếm trên máy tính. Chẳng ai lại băn khoăn về việc một giáo sư thuê trợ lý đến làm việc trong phòng của mình. Nhất là Roz, một người chẳng quan tâm nhiều đến máy vi tính; bà thường viết tay bản thảo lần đầu và lần thứ hai cho các cuốn sách của mình. rồi đưa cho thư lý đánh máy. Trừ khi tin về cái chết của bà đã lan rộng, tôi sẽ rất hợp với vai này khi ngồi trước máy vi tính của bà.

Nhưng tôi cần kiểm tra lục lọi những cuốn sách của bà, việc này sẽ rắc rối hơn nhiều. Bà đã luôn cất giữ chúng một cách quái gở, xếp sách thành hàng hai chật cứng khắp quanh phòng. Phần lớn những người xếp sách thành hàng hai thường xếp những cuốn hay dùng ra ngoài, nhưng Roz lại làm ngược lại. Bà thường nói bà không thích việc người khác soi mói những ý tưởng còn đang thai nghén của bà. Kết quả là dãy sách xếp bên ngoài các giá sách của bà luôn che mắt những vị khách tò mò với các tác phẩm của bạn bè đồng nghiệp của bà, cũng như những cuốn sách vừa ra lò của những nhà nghiên cứu Shakespeare mới nổi.

Những cuốn sách luôn có vẻ vắng mặt là những tác phẩm tình cờ có mặt trong dòng suy nghĩ chẳng ai đoán trước được của Roz. Không phải vắng mặt, mà chỉ bị che lấp đi, tôi thở dài. Để tìm ra Sân khấu thời Elizabeth , tôi sẽ phải lôi tất cả các cuốn sách trên tất cả các giá sách trong phòng. Một hành động chí ít cũng sẽ bị coi là lạ lùng với bất kỳ ai tình cờ ngước mắt nhìn lên, và sẽ đủ mất thì giờ để khiến nguy cơ bị trông thấy là rất cao.

Giữa đám bút và bút chì cắm chật ních trong cái lọ đặt cạnh máy tính có một chiếc Maglite nhỏ. Tôi cầm lên. Widener đóng cửa vào lúc mười giờ. Đến khoảng mười một giờ - mười hai giờ, các thủ thư và nhân viên tạp vụ sẽ về hết. Tôi sẽ có sáu hay bảy giờ đồng hồ không bị ai soi mói - cho tới khi các công nhân bắt đầu quay trở lại mở cửa nơi này lúc tám giờ. Tôi mỉm cười với đôi mắt to buồn bã của bà Wooolf. Điều tôi không thể làm giữa thanh thiên bạch nhật, tôi sẽ làm vào buổi tối. Tất cả những gì tôi phải làm là lọt ở lại được bên trong thư viện. Dựa vào màn hình máy tính của Roz là một bản sao hiện đại của cuốn Tuyển tập Đầu tiên . Tôi cầm lấy cuốn sách, xách túi đứng dậy ra khỏi căn phòng.

Tôi tìm chỗ ngồi tại một trong các bàn làm việc cho sinh viên và mở cuốn Tuyển tập ra. Trong lúc chờ đợi, tôi kiểm tra tới tận trang cuối cùng của bản sao đó, nhưng không tìm thấy các dấu nào.

Đến chín giờ rưỡi, cuối cùng tôi nghe thấy một giọng nam giới thông báo qua hệ thống loa. “Các bàn mượn trả sách sẽ đóng cửa trong mười lăm phút nữa”. Chín giờ bốn mươi lăm phút, đèn lác đác tắt dần, vài người còn nán lại cũng ra về. Tôi đợi tới khi nghe tiếng loa thông báo vang lên phía dưới hai tầng gác. Cuối cùng, tôi đứng dậy vươn vai, người cứng lại mệt mỏi. Theo giờ London lúc đó đã gần ba giờ sáng, nhưng tôi còn hàng giờ phải trải qua trước khi có thể nghĩ tới ngủ. Tôi nhìn cả về hai hướng dọc theo các dãy bàn làm việc. Khu vực này trước đó vốn đã ít người. Bây giờ không còn ai khác.

Tôi gập cuốn sách, quay trở lại phòng đọc cá nhân của Roz. Chìa khóa khẽ kêu một chút khi tôi mở cửa vào. Hé mở cửa ra hẹp nhất có thể được, tôi lách người vào trong. Phòng đọc bên dưới cũng đã vắng tanh, người thủ thư không còn ngồi ở bàn. Cúi đầu luồn qua chiếc túi đeo trên vai, tôi ngồi xuống sàn. Tôi lấy điện thoại di động ra tắt máy. Sau đó, tôi ngồi suốt một giờ lắng nghe âm thanh bên ngoài lặng dần xuống trong thư viện, trong khi nỗi nhớ Roz lại trào lên trong tôi.

Cuối cùng đèn trong các hành lang đã tắt, trừ những bóng đèn đem mờ còn được bật cách nhau từ sáu đến chín mét. Cảm giác im lìm nặng nề bao trùm căn phòng. Tôi gục đầu xuống ngực. Tôi choàng tỉnh, nhưng một lần nữa đầu tôi lại cúi dần xuống, hai mắt nhắm díp lại.

Tôi bật đèn bấm và đi đến bên bàn làm việc. Trả cuốn Tuyển tập về chỗ cũ, tôi rút tập giấy dưới bức tượng Shakespeare ra, xếp lại cho vào chiếc túi. Sau đó tôi quay sang nhìn các giá sách. “Tôi xin lỗi”, tôi thì thầm - với những cuốn sách? Với căn phòng? Hay với Roz? - rồi bắt tay vào việc.

Đi dọc theo các giá sách một cách hệ thống mà ngay cả Roz hẳn cũng phải tán thưởng, tôi dỡ những cuốn sách ở hàng bên ngoài ra theo từng ngăn rồi chiếu đèn vào khoảng trống tối om bên trong. Những chủ đề bà quan tâm thật đa dạng, ít nhất có thể nói như vậy. Tôi đi qua một khu vực nhỏ dành cho Cervantes và Don Quixote, rồi đến một khu khác chuyên về Delia Bacon, một nữ học giả thế kỷ mười chín, người New England mà sự đam mê Shakespeare đã dẫn tới thành công, rồi sau đó tới sự điên rồ. Delia đã từng là lĩnh vực tôi nghiên cứu. Điều gì đã làm Roz quan tâm đến người phụ nữ này? Tôi cố kìm cơn ngáp ngủ và tiếp tục. Một dãy dài về chủ đề Shakespeare trong đời sống miền viễn tây nước Mỹ có vẻ đang bị lãng quên kể từ cuốn sách cuối cùng của Roz. Nhìn một cách tổng thể, có vẻ như đầy là một bộ sưu tập lộ xộn được khuân về từ nơi khác. Những cuốn sách được giấu phía trong có vẻ không tập hợp một cách gắn bó lại thành một dự án mới nào. Cụ thể hơn, tôi không tìm thấy bộ Sân khấu thời Elizabeth đâu cả.

Hai mươi phút sau, trong lúc đang quỳ mọp xuống lục lọi và gần như đã tuyệt vọng, tôi chợt nhìn thất thứ mình đang tìm nằm sâu trong góc giá sách bên cạnh cửa sổ. Bốn cuốn sách bọc bìa vải màu đỏ đã phai. Dòng chữ mạ vàng chạy dọc gáy viết vắn tắt: Sân khấu thời Elizabeth, Chambers .

Tôi cúi lại gần hơn. Gần gáy một cuốn của bộ sách một mảnh giấy nhô lên như lá cờ nhỏ. Lôi cuốn sách ra, tôi lùi lại ngồi xuống chiếc ghế bành và mở trang được đánh dấu ra: 488. “Các vở kịch và nhà viết kịch”, đề mục đầu trang là tên của một chương dài liệt kê theo danh sách tác giả tất cả các bản in và bản chép tay của các vở kịch đã được sáng tác ở nước Anh thời Phục hưng. Một công trình học thuật đủ khiến mọi đầu óc phải chùn bước.

Đầu trang 488 đang là giữa một phần viết về Othello. Sau đó là Macbeth , Lear , Antony và Cleopatta … suốt dọc trang rồi tới Cơn bão tố và Henry VIII ở trang đối diện. Những vở kcihj vào giai đoạn cuối sự nghiệp của Shakespeare. Những kiệt tác thời vua James của ông. Tôi lia quầng sáng tròn màu vàng nhạt của đèn chiếu dọc theo lề sách. Bà đã muốn ám chỉ tới vở kịch nào?

Nhưng một lần nữa tôi không tìm thấy dấu ghi nào ở phần đầu. Tôi ngồi bệt xuống. Dấu vết để lại không thể chấm dứt ở đây. Không thể nào. Tôi lấy tấm thẻ của Roz khỏi túi áo và đọc lại những dòng chữ của bà lần nữa. Tôi lật đi lật lại tấm thẻ, mân mê lỗ thủng ở phía dưới tấm thẻ. Sau tất cả công sức bỏ ra để có được những tấm thẻ này, không có chuyện Roz vứt đi một tấm thẻ như thể chỉ là thứ tầm phào như một tấm thiệp sinh nhật. Cho dù điều tôi cần phải tìm là gì đi nữa, chắc chắn phải liên quan tới những cuốn sách này.

Không phải là những cuốn sách, tôi thầm nghĩ. Hoàn toàn không phải. Tôi vẫn coi tấm thẻ là một tấm biển chỉ đường. Nhưng Roz muốn tôi chú ý đến chính bản thân tấm thẻ. Tôi đứng dậy đi tới chiếc tủ bà dùng để cất những chiếc thẻ - một trong những chiếc tủ đựng thẻ tra cứu cũ của thư viện Widener - đặt cuốn sách vẫn đang mở lên nóc. Lướt đèn bấn xuống dọc những ô kéo nhỏ, mỗi ô đều được ghi nhãn rõ ràng bằng nét chữ viết tay của Roz, tôi lần tới ô kéo có ghi nhãn “Cecil-Charles II”.

Tôi mở ô kéo ra, lần xem những chiếc thẻ bên trong cho tới khi tới chiếc thẻ có ghi “Chambers, E. K”. Tựa sách đầu tiên là Arthur nước Anh . Sau đó là Ca từ tiếng Anh cổ , sau đó là Kịch dân gian Anh . Quá xa. Tôi lật lùi lại một tấm và tách riêng những tấm thẻ ra. Đây rồi, ở phía dưới, ánh đèn bấm của tôi bắt gặp một tờ giấy nhỏ được gập đôi lại. Tôi thận trọng rút nó ra.

“Gửi Kate”, chữ trên tờ giấy ghi bằng bút chì xanh.

Đúng lúc đó, đèn ở dưới sảnh bắt đầu lác đác tắt dần rồi tối hẳn. Tôi kẹp tờ giấy vào cuốn sách. Ôm cuốn sách vào ngực, tôi tắt đèn bấm và rón rén đi ra cửa. Trong tầm mắt tôi, mọi nguồn sáng đã bị tắt hết, toàn bộ thư viện chìm trong bóng tối. Tiếng động rất nhỏ tôi chỉ thoáng lắng nghe thấy có vẻ đang chậm dần và khẽ dần, rồi chìm hẳn vào bóng đêm, như thể tòa nhà là một con thu khổng lồ vừa thở hơi cuối cùng.

Tôi đang định quay lại tiếp tục cuộc tìm kiếm của mình thì chợt nghe thấy trong bầu không khí im ắng có tiếng kêu cót két và tiếng sột soạt khe khẽ. Tôi lạnh toát người. Đó là một tiếng động tôi đã quá quen thuộc: tiếng những cánh cửa chống lửa ở đầu cầu thang hai đầu hành lang chạy dọc qua cửa các phòng đọc cá nhân. Cánh cửa phía đông đã bị mở ra và khép lại. Còn một ai đó đang ở trong thư viện.

Tôi lách người luồn ra khỏi phòng đọc, nhưng lần này tôi khép cửa lại gần như kín – nhưng chưa đủ để ổ khóa sập lại – và lao vụt qua hành lang. đúng lúc tôi quay trở vào khu tư liệu tham khảo, một bóng đen đen sẫm hơn bóng tối xung quanh xuất hiện đi vòng qua góc từ cầu thang lên.

Chắc là nhân viên bảo vệ hay một nhân viên cảnh sát của trường Harvard đi tuần kiểm tra khi đèn tắt. Nhưng một liên tưởng tới món quà của Roz khiến tôi chợt nghĩ đây chính là bóng đen tôi đã thoáng nhìn thấy qua khung cửa sổ căn hộ của mình, ý nghĩ đó cứ ám ảnh mãi trong đầu tôi. Bất giác đưa tay lên che chiếc trâm cài áo, tôi lùi sâu vào giữa hai hàng giá sách.

Tới tận đầu này, những dải ánh trăng trải dài dọc hành lang. bóng đen bí ẩn xuất hiện, nhưng trước khi tôi kịp nhìn rõ hơn vài nét lờ mờ, người đó đã đi qua. Tôi thở phào nhẹ nhõm. Nhưng vừa đi được vài bước, bóng đen dừng lại. Rồi bóng đen quay lại hai bước, rồi ba. Tới trước cửa phòng đọc của Roz, bóng đen lại dừng lại lần nữa, và tôi thoáng thấy ánh kim loại của một chiếc hìa khóa lóe lên. Nhưng cửa phòng đọc của Roz không bị khóa. Thậm chí nó còn chưa được đóng kín. Khi bóng đen vừa chạm vào, cánh cửa khẽ cọt kẹt hé mở. Bóng đen sững lại.

Bất thần, bóng đen quay ngoắt lại. Tôi cúi rạp người xuống cắm đầu chạy, bóng đen lao vào lối đi đuổi theo tôi. Đến chỗ những dãy bàn đọc, tôi ngoăt trái chạy như ma đuổi qua ba dãy giá sách nữa rồi ngoặt trở lại phía khu các phòng đọc cá nhân. Tới đầu một lối đi, tôi dừng lại nập sau thành sắt ở đầu giá sách, cố nghe ngóng tiếng động của kẻ lạ mặt giữa những nhịp đập như đánh trống của tim mình. Không có gì cả. Widener là một mê cung thực sự với những hành lang ngắn, những lối rẽ ngoặt bất ngờ và những ngóc ngách kín đáo kì lạ, và lúc này nó lại đang bị màn đêm bao phủ. Nếu kẻ kia không thông thuộc mê cung này bằng tôi - và nếu lần cải tạo vừa qua không làm thay đổi những gì tôi quen thuộc - thì tôi vẫn còn cơ hội thoát thân.

Tiếng bước chân khe khẽ vọng lại dọc hành lang phái ngoài cho tôi biết vị trí của kẻ săn đuổi. Hắn đã quay lại cách tôi vài dãy lối đi và đang thận trọng đi về phía các phòng đọc cá nhân. Hắn càng tới gần, tôi càng lùi sâu vào dãy giá sách. Tôi phải cố gắng bằng mọi cách để các giá sách ngăn giữa hắn và tôi. Một tay cầm cuốn sách của Chambers, tôi đưa tay kia lên sờ soạng dọc tầng giá sách nằm ngay trên đầu mình. Sau vài mét, tay tôi bắt gặp một khoảng trống. Tôi đưa tay vào sâu hơn. Phải kiễng chân lên tôi mới chạm được đầu ngón tay vào những cuốn sách xếp trên giá phía sau. Cố đẩy mạnh, tôi đẩy mọt hàng sách rơi xuống lối đi bên kia dãy giá sách.

Bóng đen lao ngay vào lối đi này, hướng tới chỗ phát ra tiếng động; cùng lúc, tôi lao về phía đối diện, hướng tới cầu thang nằm ở cuối hành lang chỉ cách đó ba mét. Đống sách trên sàn nhà có thểgiữ chân hắn trong bao lâu? Tôi tới đầu cầu thang, giật mạnh cánh cửa dẫn xuống dưới - và tiếng kim loại rít kèn kẹt bực bội vang lên trong đêm. Tôi nhìn quanh. Cầu thang dẫn lên trên không bị chắn bởi cánh cửa ồn ào nào. Tôi quay lại chạy lên trên.

Đến đỉnh cầu thang, tôi lại quay vào khu vực kê giá sách. Tiếng bước chân đã đến chân cầu thang khi cánh cửa đóng sầm lại. Tiếng bước chân dừng lại, rồi cánh cửa lại mở lần nữa. Tiếng bước chân tiếp tục nhẹ nhàng đi xuống phía dưới.

Tôi chờ đợi. Hắn có thể đã đoán ra mẹo của tôi và đang âm thầm quay trở lại, chờ tôi xuất hiện. Hoặc hắn quay ra đợi gần lối ra chính. Không. Đây rồi: tiếng giày kêu khẽ trên cầu thang. Tôi căng người sẵn sàng chạy, nhưng không nghe thấy gì thêm. Dường như cả những cuốn sách cũng đang nín thở.

Sau một hồi lâu, tôi từ từ lùi lại phía bức tường bên trong của cánh tây thư viện. Những khung cửa sổ cao nhìn xuống khu phòng đọc mà tôi có thể trông thấy từ phòng đọc riêng của Roz; đứng ép người sát vào tường, tôi có thể nhìn thấy dãy cửa sổ của các phòng đọc cá nhân. Tôi đang định đi tiếp thì một tia sáng đỏ le lói sau một trong những cửa sổ này. Tôi định thần nhìn kỹ hơn. Ở dưới nơi tôi đứng một tầng, và cách đối diện ba cửa sổ. Đó là cửa sổ phòng của Roz.

Hắn đã quay lại đó.

Quay lại đi nhanh xuống cầu thang, băng qua dãy hành lang chạy dọc dãy phòng đọc cá nhân, tôi nhẹ nhàng băng qua khu kê giá sách ra hành lang ngoài. Có thể tôi không thể ngăn cản hắn động chạm đến đồ của Roz, không phải ở đây và lúc này, một mình trong đêm tối. Nhưng tôi có thể thu lượm được vài manh mối về thân phận của hắn.

Tôi tới lối đi dẫn thẳng trở lại phòng đọc của Roz. Vòng qua những giá sách, tôi nhìn thấy ánh sáng đỏ hắt ra qua cửa sổ phòng Roz. Hắn vẫn còn ở đó.

Lấy mảnh giấy khỏi cuốn sách của Chambers, tôi nhét nó vào túi áo. Qua một lối đi nữa, tôi nhét cuốn sách vào chỗ trống ở một tầng giá sách thấp, ghi nhớ vị trí của nó, cuốn thứ sáu từ ngoài vào; nguy cơ cuốn sách bị ai đó phát hiện ra khi được trộn lẫn giữa hàng triệu cuốn sách ở đây là vô cùng nhỏ. Cho tới lúc đó, cuốn sách sẽ được an toàn.

Vòng qua góc, tôi bước lên một bước, rồi một bước nữa, rón rén bước dọc lối đi. Khi nhìn thấy cửa phòng đọc của Roz, tôi dừng lại. Không có gì xảy ra. Tôi bước thêm một bước, và tiếng rít chói tai của chiếc còi báo động phá vỡ sự im lặng. Trước khi tôi kịp lùi lại, một bóng đen lao vụt qua cửa nhảy bổ vào tôi, bẻ quặt một tay tôi ra sau lưng. Giữa tiếng chuông báo động, tôi chỉ thoáng nghe thấy một giọng nói thì thầm vào tai mình: “Kate đơn giản, và Kate duyên dáng, và đôi khi Kate đáng nguyền rủa”.

Tên mình! Hắn biết tên mình. Tôi vùng vẫy, cố gắng nhìn mặt kẻ tấn công, nhưng hắn giữ quặt tay tôi chắc đến mức tôi rên lên vì đau.

Hắn cười phá lên, tiếng cười không chút vui vẻ. “Nhưng như một nhân vật khác của Shakespeare đã nói: ‘Một cái tên có là gì? ’… Roz đã đổi tên mình, cô biết đấy. Thành ông già Hamlet”.

Tôi lạnh buốt người như bị những mũi kim bằng băng đâm vào. Tôi đã đúng. Tôi lại cố vùng vẫy. Có vật gì đó lóe sáng, và một lưỡi dao nhỏ lạnh ngắt kề sát vào cổ tôi. “Có thể chúng ta phải thay đổi cả tên cô nữa”. Tôi có thể cảm thấy hơi thở của hắn phả vào cổ mình. “Chạy đi, Kate”, hắn chế giễu. Rồi hắn không còn ở đó nữa, như thể đã tan biến vào màn đêm.

Nỗi sợ hãi bao trùm lấy tôi, tôi chạy ra phía hành lang ngoài nối với những dãy bàn đọc. Tôi vừa chạy vừa liếc nhìn sang hai bên. Không còn chỗ nào để đi nữa, và chỉ còn một nơi để trốn. Tôi chui xuống dưới một trong những chiếc bàn đọc. Hắn đâu rồi? Chuyện gì đang xảy ra? Hẳn là hắn đã bảo vệ sau lưng mình bằng một thứ chuông báo động nhạy cảm với chuyển động. Có nghĩa là hắn biết trước tôi sẽ quay lại.

Tiếng chuông báo động đã im lặng. Nếu hắn đã tắt chuông, có nghĩa là hắn ở gần đây.

Tiếng bước chân rón rén bước qua những hàng giá sách lại gần những chiếc bàn đọc. Xin hãy đi đi. Tôi thầm cầu xin. Xin hãy đi đi.

Nhưng hắn đã quay về hướng tôi, tiếng bước chân của hắn chậm rãi, cả quyết, dừng lại ở từng dãy bàn. Hẳn là hắn đang cúi xuống kiểm tra từng gầm bàn. Hắn đang tìm tôi.

Tới chiếc bàn ngay phía trước chiếc bàn tôi đang trốn, hắn dừng lại, cả người tôi căng như dây đàn, sẵn sàng vùng chạy. Để chống lại con dao của hắn, tôi chỉ còn biết trông đợi vào chiếc bàn. Tôi có thể hất chiếc bàn vào người hắn, khiến hắn mất thăng bằng đủ lâu để chạy trốn. Không nhiều triển vọng, nhưng vẫn còn hơn chết gí ở đây như một con gián trong bẫy.

Hắn bước tới một bước, rồi một bước nữa - sau đó hắn bỏ qua chiếc bàn tôi đang nấp và đi tiếp, tới tận cuối hành lang mà không thèm ngoái lại nhìn phía sau dù chỉ một lần. Quay người sang hướng tới lối ra chính, hắn biến mất. Tôi nghe thấy tiếng động từ cánh cửa cầu thang vọng từ xa lại.

Tôi thở khẽ nhẹ nhõm. Lồm cồm chui ra khỏi gầm bàn, tôi đứng dậy. Chiếc bàn trống trơn khi tôi chui xuống nấp dưới gầm, nhưng lúc này trên mặt bàn có một tờ giấy, nổi bật lên như một dải ánh trăng trên nền mặt bàn tối sẫm. Tôi nhặt tờ giấy lên. Một bên tờ giấy rách nham nhở ở chỗ nó đã bị xé khỏi một cuốn sách; chữ im trên trang sách có vẻ rất cũ, bản thân tờ giấy rất dày, mịn và nặng. Không phải một trang của một cuốn sách thời nay.

Tôi giơ tờ giấy lên tận dụng ánh sáng từ ngoài hắt vào. Đó là một trang trong cuốn Tuyển tập Đầu tiên . Một trang bản gốc - không phải là một bản sao chép như tôi tìm thấy trong phòng đọc của Roz. Cuốn sách đó không được đánh dấu, nhưng trang sách này thì có. Ở lề bên phải ai đó đã vẽ hình một bàn tay chỉ sang trái. Một bàn tay nắm lại, ngón trỏ chỉ vào một dòng chữ, ngón cái chĩa thẳng lên trên, khiến cho bàn tay có bộ dạng giống như những đứa trẻ ngày nay thường làm để giả vờ bàn tay mình là một khẩu súng. Tuy nhiên đây là một hình đã được vẽ từ lâu, một dấu vết mà những độc giả xa xưa đã tạo ra để giúp nhắc nhở trí nhớ - vào thời Trung cổ và Phục hưng một ký hiệu như thế tương đương với một chiếc bút dạ quang hiện đại. Tôi nhìn gần hơn vào trang sách. Hình bàn tay có thể đã cũ, nhưng dấu gạch chân dòng chữ thì mới tinh, được tạo ra bằng một nét bút bi đầy vết mực bẩn chứ không phải một nét gạch mảnh mai của lông ngỗng hay bút máy.

Tôi đọc dòng chữ đó, và đột nhiên cảm thấy buồn nô. Đó không phải là một dòng thoại mà là một dòng chỉ đạo sân khấu. Không phải từ Hamlet . Mà từ Titus Andronicus - khoảnh khắc tàn bạo nhất trong vở kịch tàn nhẫn nhất của Shakespeare. Bạo lực tàn khốc đến mức xé lòng. Đến mức cả Shakespeare cũng không cố thi ca hóa: Lavinia vào, lưỡi bị cắt, hai tay bị chặt cụt, bị cưỡng bức.

“ Một cái tên có là gì ?” kẻ săn đuổi tôi đã rít lên. “Có lẽ chúng ta nên thay đổi tên cô ”.

Thành Lavinia chăng?

“Kate!”, một giọng đàn ông gọi tôi từ phía sau. Tôi thét lên, và một bàn tay bịt chặt lấy miệng tôi.