← Quay lại trang sách

Chương 11

“Hãy im lặng và nghe đây”, một giọng Anh trầm trầm cất lên. “Roz bảo tôi tới”.

Tôi vùng dậy, nhưng người này ôm lấy tôi và quay người tôi lại. Bị giữ chặt áp vào người anh ta, tôi nhận thấy một mái tóc quăn sẫm màu, một cái mũi dài thẳng và một thân hình rắn chắc đến mức dường như được tạc bằng cẩm thạch, ngoại trừ hơi ấm có thể cảm nhận rõ.

“Roz đã chết.”, tôi lên tiếng.

“Bà ấy không chịu lắng nghe”.

Tôi cố vùng ra; anh ta lloi tôi trở lại. Lần này đôi mắt anh ta mệt mỏi nhìn thẳng vào tôi. “Nếu cô mở chiếc hộp, cô phải đi tới nơi nó dẫn cô”.

Những lời Roz đã nói. Tôi đứng im. “Anh là ai?”

“Ben Pearl,” anh ta đáp cộc lốc. “Xin lỗi vì đã thiếu lịch sự, nhưng tôi đang cố đưa cô sống sót ra khỏi đây. Nếu tôi muốn rời khỏi đây theo một hưóng khác với kẻ vừa tấn công cô thì cô có ý tưởng nào cho chúng ta không?” Giọng anh ta trơn như bôi mỡ, với vẻ kiêu căng khinh khỉnh của giới thượng lưu Anh. Khuôn mặt và hai tay anh ta để trần, chiếc áo thun mặc trên người màu xám. Còn kẻ đã thì thầm vào tai tôi trong bóng tối mặc đồ đen từ đầu đến chân, và giọng nói của hắn đặc Mỹ.

“Tại sao tôi phải tin anh?”

“Bà ấy là cô tôi, Kate”.

“Anh là người Anh”.

“Người ta có thể vượt đại dương mà. Roz là em gái mẹ tôi và đã thuê tôi bảo vệ cô”.

Anh ta cũng có tóc màu sẫm và đôi mắt mà xanh lục giống như Roz. “Buông tôi ra,” tôi yêu cầu.

Nhưng anh ta còn ôm lấy tôi chặt hơn. “Im lặng”. Đôi mắt anh ta nhìn về phía cửa sổ sau lưng tôi. Tôi ngoái lại nhìn theo. Bên ngoài, quầng sáng vàng hình tròn của một chiếc đèn pin đang rọi lên. Bóng tối lây động như mặt nước hay một màn sương mù bị khuấy động.

“Hắn ta phải không?” tôi thì thầm.

Anh ta kéo theo tôi tránh khỏi cửa sổ qua bên kia hành lang. “Không phải đâu, trừ khi hắn đã tự nhân bản mình lên thêm một tá nữa.” Anh ta bình tĩnh trả lời trong khi chúng tôi nấp vào sau các giá sách. “Tôi đoán đó là cảnh sat của trường đến kiểm tra khi thấy điện mất đột ngột. Không thể ra bằng cửa chính rồi. Còn cách nào khác không?”

“Còn cửa sau, ngay phía dưới chúng ta. Cách năm tầng nhà”.

Anh ta lắc đầu. “Chắc chắn mấy anh chàng cớm này cũng đang mò tới đó”.

Tôi cắn môi. “Có một lối ra phía Pusey. Khu thư viện bên cạnh”.

“Tốt lắm”.

“Nhưng lối ra của nó nằm thẳng góc với cửa trước của Widener”.

Anh ta nhìn tôi bực bội. “Lạy Chúa, đây là Harvard kia mà. Chẳng nhữ không có cánh cửa ngách hay đường hầm bí mật nào hay sao?”

“Có đấy.” Tôi rụt rè nói. “Ít nhất là đã từng có. Đó là một đường hầm chạy dưới sân trường tới Lamont, khu thư viện sinh viên”. Khi tôi bắt đầu cuộc đời sinh viên ở đây, con đường hầm đó vẫn mở cửa cho tất cả mọi người trong trường, và trong những tháng thời tiết xấu từ đầu năm mới cho tới xuân phân, đường hầm này trở thành một dạng đường xa lộ dưới lòng đất. Nhưng khi tôi lên năm thứ hai, một kẻ phá hoại bí hiểm nào đó đã để lại dấu vết là những trang sách bị rạch chằng chịt khó hiểu trên những lối đi vắng vẻ nhất của thư viện. Có một thời gian kẻ giấu mặt này đã trở thành chủ đề cho những câu chuyện đùa bỡn. Đám sinh viên đặt tên cho nhân vật bí hiểm này là Minotaur, dựa theo tên con quái vật bị nhốt trong mê cung trong truyện thần thoại. Phản ứng chính thức duy nhất của trường Harvard chỉ là khuyến cáo sinh viên nên đi thành nhóm hai người trở lên khi lang thang giữa các hàng giá sách của thư viện. Theo những câu chuyện không chính thức thì các cuộc tìm kiếm ở Widener ít nhiều đã đi vào ngõ cụt.

Đến cuối mùa xuân, cảnh sát chìm xâm nhập vào thư viện và một buổi sáng, khi thức dậy chúng tôi được tin một người đàn ông bé loắt choắt lại mặt với đôi mắt như mắt rắn đã bị bắt - và đường hầm dẫn sang Lamont sẽ bị đóng cửa vĩnh viễn. Nhưng tin đồn lan truyền trong đám sinh viên kể rằng không phải một tay cớm đã tóm được kẻ phá hoại nọ mà là một mục sư, và một cuộc chạm trán khủng khiếp đã xảy ra làm toàn bộ đường hầm lênh láng máu không thể nào rửa sạch được. Tất nhiên là trường Harvard không phản ứng trực tiếp lại những câu chuyện như vậy. Thay vào đó, trường đã xóa sạch đường hầm này khỏi mọi bản đồ, kiểm duyệt mọi văn bản giấy trắng mực đen nào nhắc đến nó, thậm chí còn yêu cầu toàn bộ nhân viên và giáo viên phải giữ im lặng về chủ đề này. Sau bốn năm, hầu như không còn sinh viên nào nhớ tới sự tồn tại của một đường hầm như vậy nữa.

“Tuyệt lắm!” Ben nói. “Đó là lối thoát của chúng ta”.

“Nếu nó vẫn còn tồn tại.” Tôi lo ngại.

“Tất nhiên là còn,” anh ta nói ngắn gọn. “Phải còn. Cô vẫn còn mọi thứ mang theo người đấy chứ, cô giáo sư?”

Để trả lời, tôi quay trở lại giá sách mà tôi đã giấu cuốn sách và lấy nó ra.

“Còn gì nữa không?”

“Tôi không” - tôi chợt lặng người. Chiếc túi của tôi. Tôi đã để nó lại trong phòng đọc của Roz, cùng với chiếc ví và tất cả giấy tờ cá nhân… chẳng trách kẻ sát nhân biết tên tôi. Tôi đã tự giới thiệu mình với hắn. Tôi thấy mặt mình nóng bừng. “Tôi để quên túi trong phòng đọc của Roz. Và tôi chẳng phải là giáo sư quái nào hết.” Tôi nói thêm ngắn gọn. “Chưa bao giờ”.

“Cô luôn muốn làm cho mọi việc rắc rối nhất có thể, đúng không?” Kéo tôi đi qua một lối đi, anh ta nhìn dọc hai phía hành lang chạy qua các phòng đọc cá nhân. “Kia đúng không?” anh ta hỏi khẽ, chỉ tay về phía cánh cửa duy nhất còn hé mở.

Giật mạnh người ra khỏi anh ta, tôi băng qua hành lang tới phía cánh cửa. Lách vào trong, tôi đứng sững lại.

Căn phòng đã bị đảo lộn. Chiếc ghế bành trong góc đã bị lộn ngược, vải bọc bị rạch nát. Sách bị vứt chồng đống giữa phòng. Trên bàn làm việc, màn hình chiếc máy tính bị đạp vỡ. Những tấm bản đồ của Roz đính trên tường bị xé toạc làm đôi. Ngoài chiếc màn hình, những thứ khác trên bàn làm việc ít nhiều vẫn còn nguyên vẹn: đôi hoa tai bằng đá xanh vẫn nằm cạnh bàn phím, và những cuốn sách tham khảo kê ngay ngắn thành dãy dựa sát vào tường. Nhưng có một chỗ trống. Tôi đã đặt bản sao cuốn Tuyển tập Đầu tiên của Roz vào nơi tôi tìm thấy nó; cuốn sách không còn ở đó nữa. Hắn biết mình muốn gì, và hắn đã có được thứ hắn muốn tìm. Phần còn lại của đống lộn xộn chỉ là sự phá phách mù quáng.

Chiếc túi của tôi được đặt chông chênh ở một góc oái oăm bên sườn của đống sách nằm giữa phòng. Chiếc bàn làm việc ngăn nắp, chiếc túi được đặt cẩn thận, tất cả đều dẫn tới một điều. Đây không phải là sự phá phách mù quáng mà là sự báng bổ - một sự chà đạp tàn nhẫn và cố tình tất cả những ký ức về Roz. Và hắn muốn tôi trông thấy tất cả.

Một tiếng nổ vang lên chói tai qua dòng suy nghĩ của tôi. Cùng khoảnh khắc đó, Ben chộp lấy tay tôi, lôi nhanh tôi về phía những dày giá sách. Cuốn sách rơi khỏi tay tôi. Tôi toan lao theo nó thì anh ta đã lao người nằm đè lên người tôi. Một quần lửa bùng lên xé toạc màn đêm, tất cả những tấm kính trong hành lang vỡ tung dưới sức ép đột ngột. Một tiếng nổ lớn vang vọng khắp tòa nhà.

Dần dần không gian yên lặng trở lại. Ben đã rời khỏi tôi đứng dậy. Tôi cảm thấy sàn nhà bằng cẩm thạch chạm vào má mình lạnh khác thường. Tôi nhấc đầu lên. Cách tôi ba mét, cuốn sách của Chambers mở tung nằm úp xuống sàn. Như một món đồ bị nguyền rủa, bìa trước của nó đã bị một mảnh kính cắm vào. Tôi bò tới với lấy cuốn sách, lật giở các trang. Tờ giấy của Roz vẫn còn kẹp vào phía cuối sách.

Ben nói điều gì đó, nhưng giọng nói của anh ta như thể từ xa vọng lại qua một màn sương dày đặc, và tôi không thể luận ra anh ta đang nói gì. Tôi đờ đãn nhìn lên. Chỉ sải chân ba bước, anh ta đã đến bên tôi. Anh ta đưa hai tay luồn ra sau lưng tôi, xoay tôi lại và nhìn tôi từ đầu đến chân. “Cô không sao. Ở yên đây”.

Anh ta quay lại phía phòng đọc và biến mất vào bên trong.

Bất chấp lời dặn, tôi lần lại đủ gần để có thể ghé đầu nhìn vào trong. Ben đang ngồi quay mặt vào trong xem xét chiếc túi của tôi, lúc này đang nằm dưới đống mảnh vỡ và sắt thép. Hai ô cửa sổ đã bật tung, mảnh kính vỡ vung vãi khắp sàn. Nhìn qua đó, tôi có thể thấy một lỗ thủng trên bức tường bên kia sân, căn phòng phía trong sáng bừng màu da cam. Giữa làn khói, những mảnh giấy bay lượn rơi xuống sân như một cón mưa tuyết.

Nhấc một thanh xad sắt lên khỏi chiếc túi của tôi, Ben nhặt nó ra và quay lại. “Chỉ có thế này thôi, hay cô còn bày sẵn một màn pháo hoa báo hiệu Kate Ở Đây đâu đó quanh đây nữa không?”

Tôi lắc đầu.

“Được. Vậy thì đi thôi”.

Nhưng tôi đứng chết trân ở đó như mọc rễ.

“Đi thôi”, Ben cộc cằn lôi tôi ra phía cầu thang. Đi phía trước, anh ta hối hả dẫn tôi xuống một tầng, ròi tầng nữa. Một tay anh ta cầm khẩu súng ngắn bán tự động. Tiếng còi xe cảnh sát vang lên ở phía xa. Ánh sáng chập chờn của đám cháy nhảy múa một cách ma quái, rọi xuống khoảng sân trong chiếu sáng đường đi cho chúng tôi cho tới khi chúng tôi xuống tới tầng trệt. Ở dưới này, không còn tia sáng nào rọi tới được. Lần mò từng bước, chúng tôi dò dẫm tìm đường đi xuống dưới trong bóng tối hoàn toàn. Xung quanh chúng tôi, cả tòa nhà bắt đầu rên rỉ rung động; tôi cố không nghĩ tới ba triệu rưỡi cuốn sách trên giá đang dần dần sụp xuống trên các tầng gác ở trên đầu chúng tôi. Chúng tôi xuống tầng A, rồi tầng B. “Đây rồi!” tôi kêu khẽ khi chúng tôi xuống tới tầng C.

Rồi tôi nhận ra sai lầm của mình. Không giống các tầng trên mặt đất có những hành lang rộng chạy dọc suốt toàn bộ tầng từ đông sang tây, các tầng hầm được chia thành hai phần; ở tầng này, chỉ có một hành lang cổ chai ngắn, hẹp dẫn từ phần phía tây, nơi chúng tôi đang đứng, sang phần phía đông, nơ có cửa xuống đường hầm. Tệ hơn, lối đi này bị che lấp sau một giá sách. Ngay cả vào ban ngày, tôi cũng không rõ lắm khu vực này của thư viện năm năm trước; lúc này, trong đêm tối, thật khó tìm ra lối đi này.

Ben ấn chiếc đèn bấm vào tay tôi. Sau cú bấm nút, một luồng sáng rọi sâu về phía trước. Không nói không rằng, anh ta lấy tay bẻ cổ tay tôi xuống làm luồng sáng thu hẹp lại kín đáo hơn, rọi xuống sàn nhà phía trước chúng tôi vài bước chân. Tôi mạnh dạn dấn vài bước theo dãy hành lang chính. Từng hàng giá sách cao ngất lờ mờ trải ra phía trước chúng tôi, thậm chí có vẻ như đang nghi ngờ cúi xuống nhìn chúng tôi khi tôi lướt đèn bấm qua; sau khi luồng sáng đã đi qua, tôi có cảm giác như chúng chuyển động, xoay theo các hướng khác nhau. Tôi cần rẽ vào lối đi nào? Lối đi đầu tiên là một ngõ cụt kết thúc bằng cả một bức tường sách về Magellan. Lối đi thứ hai dừng lại với cuộc chính phạt đế quốc Inca. Tôi lùi trở ra đứng giữa hành lang.

“Khẩn trương lên!” Ben thì thầm. “Càng nhanh càng tốt”.

“Anh sẽ thích sự chuẩn xác hơn”.

Tôi đã tình cờ phát hiện ra lối đi đó khi đang tìm kiếm một thứ khác. Lúc đó tôi đang tìm cái gì nhỉ?

Roz. Roz đã cử tôi đi. Lúc đó tôi đang viết một bài nghiên cứu về sự phản bội nham hiểm của gia đình Howard - một trong những dòng họ tàn bạo nhất nước Anh thời Phục hưng, đã từ lâu được phát hiện là nhận tiền của Tây Ban Nha. “Sự phản bội nham hiểm nhất của tổ tiên tôi, cô muốn nói vậy chứ gì!” Roz đã nói vậy, để hở ra một gợi ý đã khiến tôi tò mò xuống dưới này. Tôi đã không thu được gì; tôi không tìm thấy bất cứ thứ gì nói về gia đình Howard. Nhưng phía sau một giá sách đầy những cuốn sách kể chuyện ngồi lê đôi mách bằng tiếng Tây Ban Nha - những cuốn nhật ký, báo cáo, các giấy tờ của triều đình được các học giả quý tộc cẩn thận thu thập lại và xuất bản cách đây đã lâu, và kể từ đó đã bị bỏ mặc cho mối gặm ở trong các xó xỉnh - tôi đã tìm thấy lối đi dẫn sang phần phía đông của tầng C.

Tôi chĩa đèn vào một lối đi nữa: không phải lối này. Rồi một lối nữa. Tôi đi qua, rồi quay trở lại. Phải rồi, lối đi này trông quen thuộc. Tôi đi vào, bước chân nhanh dần khi cảm giác nhận ra lớn dần. Đúng đây rồi.

Ở phía xa, tiếng một cánh cửa mở vọng đến. Tôi tắt đèn trong khi Ben đứng ngay sau lưng tôi. Tôi lần mò đi về phía trước cho tới khi cảm giác những cuốn sách sắp chạm vào mũi mình. Dò dẫm sang phải, tôi cảm thấy giá sách kết thúc ở một góc tường kín. Khỉ thật. Đổi cuốn sách sang tay bên kia, tôi mò sang trái.

Cách chúng tôi vài lối đi, tôi nghe thấy có tiếng động mơ hồ, rồi một tia sáng lướt dọc trần nhà. Tôi cứng người - tên sát nhân cũng dùng đèn bấm màu đỏ. Ben vỗ vai tôi, và tôi biết anh ta muốn nói gì. Tiếp tục đi. Đưa tay luồn qua những cuốn sách không nhìn thấy, ngón tay tôi chợt cảm thấy một khoảng trống. Tôi chui vào khoảng trống, thận trọng tìm đường đi vòng qua giá sách. Nó ở cách bức tường cuối tầng nhà chỉ vài gang tay; tôi đưa tay lần dọc bức tường, tìm kiếm lối đi mà tôi hy vọng vẫn còn ở đó.

Tôi tìm thấy nó nhanh đến mức mất thăng bằng và suýt nữa ngã nhào vào trong; cuốn sách trượt khỏi tay tôi. Hốt hoảng quờ tay, tôi chộp được cuốn sách trước khi nó rơi xuống sàn, đau buốt vì mảnh kính cắm vào bìa sách đã đâm vào lòng bàn tay tôi. Áp sát sau lưng, Ben đỡ tôi đứng lên. “Bắt tuyệt lắm!”, anh ta thì thầm.

Tiếng bước chân vang lên ở giữa lối đi ngay phía sau chúng tôi rồi ngừng lại. Ánh sáng đỏ len qua những cuốn sách trên giá đang che chở cho chúng tôi - đủ để cho thấy lối đi chúng tôi vừa tìm ra mở vào một hành lang dẫn thẳng về hướng đông. Ánh sáng vụt tắt, tiếng bước chân quay trở lại hướng nó vừa từ đó đi tới. Tôi thở phào nhẹ nhõm. Nhanh nhất có thể, chúng tôi rón rén đi về hướng đông cho tới khi tôi cảm thấy lối đi đến một điểm giao nhau.

Rẽ phải, chúng tôi tiếp tục đi cho tới khi tới một bức tường chắn ngang. Trong góc tường, ở một hốc nhỏ bị che khuất bởi hàng bàn đọc cũ bỏ đi, tôi trông thấy một cánh cửa nặng nề bằng kim loại. Tôi lo lắng nhận ra nó có lắp khóa điện tử. Rồi cánh cửa khẽ lay động, như một cánh cửa khép hờ khi có gió thổi nhẹ qua. Có lẽ lẫy khóa đã tuột ra do mất điện.

Ben mở cánh cửa ra, mùi ẩm mốc oi nồng từ bóng tối bên trong phả ra, thoang thoảng mùi lưu huỳnh khó chịu. Tôi bật đèn bấm chĩa vào trong, nhưng chỉ soi sáng được một khoảng vài gang tay.

Tôi bất giác lùi lại. Một cái tên có là gì ? Tên sát nhân đã nói vậy. Có lẽ chúng ta nên đổi tên cho cô . Trong vở kịch Titus , Lavinia và người yêu của cô đã bị lừa vào một đường hầm tối bỏ hoang trước khi cô gái bị cưỡng bức. Người yêu của cô bị giết; cô gái cầu xin được chết. Tôi nhìn vào đường hầm lần nữa và lại lùi thêm một bước.

Tiếng bước chân vang lên ở tầng trên. Dưới sảnh, một cánh cửa bật mở. Một giọng nói nữa vọng lại từ quá khứ. Đi tới nơi nó dẫn cô . Giữ chặt lấy cuốn sách, tôi bước vào đường hầm. Lấy lại đèn bấm từ tay tôi, Ben tắt nó đi rồi đóng cửa lại. Bóng tối tràn ngập nuốt chửng lấy chúng tôi.