Chương 12
Ben vượt lên trước tôi, đi vào trong đường hầm. Một tay cầm sách, tôi đưa tay kia lướt dọc vách tường, cố gắng bắt kịp anh ta. Chạy dọc tường là những đường ống khổng lồ, một số phả ra hơi ấm, một số rung rung, một số khác nằm im lìm. Bước cẩn thận để tránh trượt chân, chúng tôi cố đi nhanh nhất có thể được trong bóng tối đặc quánh; mắt tôi căng ra cố nhìn vào màn đêm đến mức tôi có cảm tưởng hai nhãn cầu đang bị ép chặt lại trong hốc mắt.
Đi được một quãng, đường hầm quặt sang phải; vừa qua chỗ ngoặt, Ben dừng lại.
“Cái gì…?” tôi toan hỏi, nhưng anh ta đã cắt ngang.
“Nhắm mắt lại và nghe xem”.
Ngay lập tức, đôi mắt của tôi được thư giãn và tôi có thể tập trung vào những gì mình có thể nghe được, thay vì những thứ tôi không thể nào nhìn thấy - và âm thanh tôi nghe thấy phía sau chúng tôi là tiếng bước chân rất khẽ.
Không nói một lời, chúng tôi rảo chân nhanh hơn gần như chạy. Một tiếng gầm gừ từ phía xa vọng lại, rồi tiếng động rầm rầm chạy dọc các đường ông, đèn điện bắt đầu chập chờn bật sáng trong đường hầm. Tôi chợt hiểu chuyện gì đang xảy ra. Cuối cùng đã có người nào đó khôi phục lại nguồn điện: nếu hệ thống điện hoàn toàn được khôi phục trước khi chúng tôi tới được cửa ra, nó sẽ bị khóa lại, nhốt chúng tôi bên trong.
“Chạy!” tôi hét lên, nhưng Ben cũng không cần ai giục. Đèn điện lại nhập nhoạng bật sáng, và lần này tôi đã trông thấy lối ra của đường hầm - vẫn còn cách chúng tôi chừng bốn mét rưỡi.
“Dừng lại”, một giọng nói được khuếch đại vang lên phía sau.
Thêm ba bước chạy nữa, và Ben bật người lao về phía trước trong không khí, lao thẳng người vào cánh cửa. Cửa bật mở, tôi vội lao qua. Ben bám sát theo tôi và đóng sập cửa lại. Lẫy khóa kêu cạch một tiếng khi đóng lại.
Chúng tôi đứng thở hổn hển trong một căn phòng ngầm sáng choang trông giống như một nhà kho chất đầy giá sách. Cánh cửa ra duy nhất dẫn tới một đầu cầu thang. Leo lên hai tầng cầu thang nữa, chúng tôi lên tới một đầu cầu thang tối mờ mờ ở tầng trệt thư viện Lamont. Góc tường phía bên phải có kê máy photocopy. Ở bên trái là một bàn cho mượn không còn hoạt động và cánh cửa kính dẫn vào một hành lang nhỏ. Trên cánh cửa có ghi: LỐI RA CHỈ DÙNG TRONG TRƯỜNG HỢP KHẨN CẤP. CHUÔNG BÁO ĐỘNG SẼ KÊU. Nhưng phía sau cánh cửa đó, có vẻ như tất cả chuông báo động trong khuôn viên trường đều đã kêu hết công suất.
“Cô nghĩ liệu có ai để ý không?” Ben hét lên hỏi tôi.
Tôi vượt lên trước anh ta, lao ra ngoài. Chúng tôi đứng trên một hành lang ngoài trời hẹp bằng bê tông, mái che phủ đầy dây thường xuân. Phía trên đầu chúng tôi, thêm một chiếc còi báo động nữa gia nhập màn hòa âm ầm ĩ, nhưng có lẽ khó có ai nhận ra được, cho dù chỉ đứng cách đó vài ba mét. Chúng tôi vòng qua góc khu nhà và tôi đứng sững lại.
Một đám đông nhỏ đang tụ tập phía trước, nhưng không ai quay lại nhìn; một mặt, có lẽ họ không thể nghe thấy chúng tôi giữa cơn bão tiếng ồn khiến máu người ta muốn đông cứng lại. Mặt khác, tất cả những người này đang há hốc mồm nhìn trân trối về phía thư viện Widener, nơi một cột khói xen lẫn những lưỡi lửa đang bốc lên ngùn ngụt từ khu sân phía trong ở giữa thư viện.
Tôi chợt hiểu ra những gì đang nằm giữa đám lửa đó: phòng đọc của Harry Widener. “Những cuốn sách!” tôi kêu lên thảng thốt. Tất cả những cuốn sách tuyệt vời, không gì thay thế được đó. Những trang sách thuộc về bộ sưu tập sách hiếm vô giá của thư viện Widener chính là những mảnh giấy tôi thấy đang vừa bay lả tả vừa cháy bùng lên từ khung cửa sổ vỡ toác trong căn phòng đọc cá nhân của Roz.
“Của đi thay người!”, Ben dửng dưng lên tiếng.
Rồi tôi choáng váng khi chợt nghĩ tới một cuốn sách. “Chúa ơi!” tôi kêu lên. “ Tuyển tập Đầu tiên ”. Vừa mới chiều hôm trước tôi còn ngắm nhìn cuốn sách. Trong phòng mái vòm ngay bên ngoài căn phòng đọc đó.
Cuốn Tuyển tập của nhà hát Quả cầu cũng đã bị cháy thành than. Trong nháy mắt, tôi chợt hiểu tên khốn kiếp nào đó gây ra chuyện này đã sẵn sàng giết người, sẵn sàng đốt cháy cả một tòa nhà chỉ để phá hủy các bản gốc của cuốn Tuyển tập . Và những bản Tuyển tập này - hay ít nhất một bản đặc biệt nào đó trong số này - chính là kiệt tác thời Jacobean mà Roz muốn ám chỉ tới. Một dạng chìa khóa để mở cửa bí mật của bà. Có nghĩa là kẻ sát nhân không chỉ muốn ngăn cản tôi và Roz đi tới đích, cho dù bí mật đó là gì. Hắn đang cố gắng xóa sạch mọi manh mối dẫn tới đó.
Tôi định gia nhập đám đông, nhưng Ben đã ngăn tôi lại. “Quá muộn rồi.” Anh ta cộc cằn nói. “Nó đã mất đi mãi mãi rồi”. Anh ta lôi tôi đi vòng qua phía trước thư viện Lamont, hối hả đi ra đúng chiếc cổng tôi đã bước qua để đi vào, quay trở lại phố Quincy. Tro rơi lả tả lên tóc tôi, chui cả vào miệng, vào mũi tôi lạo xạo; đôi mắt tôi cay xè vì khói.
Khi chúng tôi ra tới đại lộ Massachusetts, có vẻ như tất cả xe cảnh sát có mặt trong vòng bán kính một trăm dặm đang đổ dồn cả về khu sân trường Harvard. Chúng tôi đứng lại trên mép vỉa hè, nhìn sang phía khách sạn tôi đã đặt phòng nằm bên kia đường.
“Cô đặt phòng ở kia đúng không?” Ben cố hét lên át tiếng còi.
Tôi gật đầu và dợm chân bước xuống đường.
Anh ta giữ lấy khuỷu tay tôi. “Và cô dùng tên thật thuê phòng?”
“Dùng tên Mona Lisa,” tôi cáu kỉnh, liếm đôi môi khô nẻ. “Thế anh nghĩ tôi dùng tên ai?”
“Cô không thể quay lại đó”.
“Cảnh sát không…”
“Chúng ta còn nhiều thứ cần phải lo ngại hơn cảnh sát”.
Tôi định cãi lại - rồi chợt ngưng bặt. Kate kẻ bị nguyền rủa , tên sát nhấn đã thì thầm vào tai tôi như thế. Hắn biết tên tôi. Nếu hắn đi tìm tôi, Inn at Harvard - khách sạn gần khu thư viện nhất - chắc chắn sẽ là nơi đầu tiên hắn tìm tới. Nhưng tôi còn có thể đi đâu?
“Đến chỗ tôi.” Ben nói.
Không còn lựa chọn nào khác. Chúng tôi băng qua đại lộ, ngoặt lên phố Bow tới Mount Auburn rồi đi sang đường JFK, từ đó chúng tôi lại hối hả băng qua phía cuối quảng trường Harvard. Anh ta thuê phòng tại khách sạn Charles, nằm cạnh bờ sông. Một sự pha trộn lạ lùng giữa sự vui vẻ thanh lịch của thành thị và không khí trang trại vùng New England, đây là khách sạn sang trọng nhất ở Cambridge, nơi các ông hoàng và các ông chủ tập đoàn nghỉ chân khi đến thăm con cái hay những nghiên cứu sinh mà họ đỡ đầu tại Harvard. Tôi chưa bao giờ đặt chân vào một căn phòng tại đó.
Ben không thuê một phòng; anh ta thuê cả một dãy phòng. Bước vào trong, tôi thoáng nhìn thấy những chiếc trường kỷ màu đỏ tía, những chiếc ghế tựa cao màu đen kê quanh chiếc bàn ăn, một đầu bàn đặt chiếc máy tính xách tay và bày đầy giấy tờ. Phía sau, một dãy cửa sổ nhìn xuống thành phố chuẩn bị đón bình minh. Thật nhẹ nhõm khi Widener hoàn toàn khuất khỏi tầm nhìn.
Nắm chặt cuốn sách trong tay, tôi đứng lại ngay gần cửa. “Vì sao tôi phải tin anh?” tôi hỏi một lần nữa.
“Cô có mọi lý do để nghi ngờ tôi.” Ben nói. “Nhưng nếu tôi muốn hại cô, tôi đã ra tay rồi. Như tôi đã nói, Roz muốn cô được bảo vệ, và bà ấy đã thuê tôi. Đó là việc tôi đang làm, Kate. Tôi sở hữu một công ty an ninh. Những việc đại loại như súng ống và vệ sĩ,” anh ta vừa nói vừa khẽ mỉm cười. “không phải là còng và dây trói”.
“Ai cũng có thể nói vậy”. Khẩu súng của anh ta đã biến mất đâu đó trên đường.
Nhanh nhẹn bước qua trước mặt tôi, anh ta đóng cửa lại. Tôi chợt nhận ra anh ta rất cao, đôi mắt màu xanh lục nằm cách xa nhau. Anh ta hắng giọng. “Có một ngọn thủy triều trong cuộc đua tranh giữa những người đàn ông, những ai đón kịp khi ngọn thủy triều lên sẽ dẫn tới thành công; còn nếu bỏ lỡ, cả cuộc đời họ sẽ dậm chân tại chỗ và khốn khổ”.
Hẳn Roz đã đưa cho anh ta cả một lá thư giới thiệu. Đó là đoạn lời thoại của Shakespeare mà bà rất thích trích dẫn, mặc dù bà không muốn thừa nhận điều này với lý do là những lời trích dẫn nói chung thường cảm tính và có thể đoán trước được. Dù sao đi nữa, đoạn lời thoại trong vở Julius Caesar đã tóm tắt triết lý sống mà bà luôn tuân thủ và cố truyền cho tôi. Mặc dù vậy khi tôi thực sự tuân theo triết lý ấy - nắm lấy cơ hội chợt xuất hiện đã dẫn tôi tới với sân khấu - bà đã la ó phản đối, kết án việc tôi rời khỏi trường đại học là sự bỏ cuộc, hèn nhát, và phản bội. Tôi đã đáp trả lại bà bằng đúng đoạn trích từ Julius Caesar đó là buổi tối chúng tôi chia tay. Mãi sau đó tôi mới nhớ ra ai đã nói đoạn lời thoại này trong vở kịch: Brutus, một tên đồ đệ trở thành kẻ sát nhân.
Tôi rùng mình. “Bà ấy biết? Bà ấy phải biết đang đẩy tôi vào nguy hiểm?”
“Đưa tôi cuốn sách và ngồi xuống”.
Tôi lùi lại.
“Tôi không quan tâm đến cuốn sách, Kate”, anh ta kiên nhẫn nói tiếp. “Mà là bàn tay cô”.
Tôi nhìn xuống. Một vết máu sẫm laong ngoằn ngoèo như một hình thư họa Trung Hoa dính trên bìa cuốn sách, nhuộm sẫm cả mảnh kính vẫn cắm vào giữa tờ bìa. Tôi buông cuốn sách, nhìn nó rơi xuống sàn. Một vết cắt ứa máu chạy dọc lòng bàn tay tôi. Loạng choạng đi tới bên bàn, tôi ngồi thụp xuống một chiếc ghế.
“Cám ơn.” Ben nói, cúi xuống nhặt cuốn sách và đi theo tôi. Anh ta đặt cuốn sách lên mặt bàn; một chiếc túi nhỏ màu đỏ được anh ta moi trong vali ra đặt bên cạnh. Đó là túi cứu thương. Lấy ra vài miếng gạc sát khuẩn, anh ta bắt đầu lau vết thương của tôi. Đôi tay anh ta rất nhẹ nhàng, nhưng chất sát khuẩn khiến tôi xót buốt. “Cô có biết kẻ săn đuổi mình là ai không?”
Tôi lắc đầu. “Không. Ngoại trừ việc hắn đã giết Roz. Biến bà thành hồn ma người cha của Hamler”.
Bên ngẩng lên, và tôi kể cho anh ta biết về vết kim tiêm.
Thoạt tiên, còn đang bận tâm xem xét kỹ vết cắt, anh ta không nói gì. Không hoài nghi, không ngạc nhiên. Không gì hết. “Vết thương này,” cuối cùng anh ta buông tay tôi ra và lên tiếng, “sẽ ổn thôi. Tôi có thể băng lại nếu cô muốn, nhưng vết thương lành nhanh hơn nếu cô để tiếp xúc với không khí… Điều gì khiến cô nghĩ kẻ săn đuổi cô chính là kẻ sát nhân?”
“Hắn đã nói với tôi như vậy, ngay sau khi hắn gí dao vào cổ tôi”. Một cái tên có là gì ? Lời đe dọa nghe thật lạ lùng, không ăn nhập vào giọng nói của tôi. “ Roz đã đổi tên mình. Thành ông già Hamlet. Có thể chúng ta phải thay đổi cả tên cô nữa ”.
Múi cơ nhỏ ở hàm Ben lại cử động.
“Hắn cũng để cái này lại cho tôi”. Bằng bàn tay còn lành lặn, tôi móc trang Tuyển tập từ túi áo ra. “Anh biết vở Titus chứ?”
“Tôi đã xem bộ phim dựa trên vở kịch này”.
Tôi đặt trang sách lên mặt bàn trước mặt Ben, nhận thấy cảm giác ghê tởm hiện rõ trên mặt anh ta khi đọc trang sách đó. “Lạy Chúa tôi”, anh ta thốt lên khi đọc hết.
“Anh muốn bảo vệ tôi”, tôi khẽ nói, “vậy đừng để kẻ đã viết những dòng này đến gần tôi bất kỳ ở đâu”.
Ben đứng dậy đến bên cửa sổ nhìn ra ngoài. “Kate, cách duy nhất giúp tôi làm được điều đó là chúng ta cần hợp tác thành một đội. Nghĩa là tôi cần biết cô đang làm gì. Tôi cần phải biết dự định của cô”.
“Bà ấy không nói gì với anh sao?”
“Chỉ nói cô đang săn tìm hiểu biết. Tôi bảo bà ta, không xin cảm ơn, đó là thứ quý hóa đã làm nên bom nguyên tử và khủng bố sinh học. Bà gạt đi. Nói rằng bà đang tìm kiếm Sự Thật, với chữ S viết hoa. Cái đẹp là sự thật, sự thật là cái đẹp. Đó là tất cả những gì bạn biết trên đời, và cũng là tất cả những gì cần biết…” Anh ta nhìn tôi mỉm cười giễu cợt. “Đừng có vẻ ngơ ngác thế. Tôi cũng biết đọc. Thỉnh thoảng tôi đọc cả Keats nữa kia. Về mặt di truyền thì những chuyện này chẳng có gì không tương thích với việc ban biết dùng súng. Hơn nữa, tôi chỉ thuật lại những gì bà ấy đã nói với tôi”.
“Nhiều hơn những gì bà ấy đã nói với tôi. Tất cả những gì tôi có là một chiếc hộp nhỏ bọc giấy lụa vàng. Một cuộc phiêu lưu và một bí mật, bà gọi cái hộp như vậy. Và nó đã dẫn tới thứ này”. Tôi mở cuốn sách ra đẩy về phía anh ta. Bên trong là mảnh giấy có ghi chú tôi đã tìm thấy trong phòng đọc của bà. Lúc này trông nó có vẻ nhỏ hơn tôi nhớ, vẫn gấp kín. Chắc chắn nó sẽ giải thích tất cả: vở kịch thời vua James của Shakespeare nào Roz muốn ám chỉ đến, và cả nơi tôi có thể tìm thấy bản Tuyển tập đầu tiên - và dùng để làm gì. Và thậm chí có thể cả điều gì đó còn quý giá hơn: một lời giải thích. Một lời xin lỗi.
Ben cúi xuống nhìn. “Gửi Kate”, anh ta đọc lớn giọng trong khi cầm mảnh giấy đưa lại cho tôi. Mảnh giấy kêu lách tách khi tôi giở nó ra. Một hàng chữ viết hoa bằng bút chì tạo thành hai từ: CHILD. CORR.
“Có vẻ bí hiểm đây,” Ben nói. “Cô có ý tưởng nào không?”
“Corr, là viết tắt của ‘thư tín’,” tôi cau mày đáp.
“Nghĩa là những lá thư. Nhưng còn Child là viết tắt của từ nào? ‘Tuổi thơ’? ‘Những lá thư thời thơ ấu’? Của ai? Của bà ấy ư?” Ben hỏi, những câu hỏi của anh ta tới tấp dội xuống đầu tôi như mưa đá.
“Nếu giả sử bà ấy có một - tuổi thơ, tôi muốn nói vậy - mặc dù tôi không đặt nhiều niềm tin vào giả thiết này. Tôi không hề có ác ý thiếu tôn trọng ông bà của anh”, tôi nói thêm.
“Không sao đâu”.
“Dù sao đi nữa, tôi không nghĩ có ai gọi những bức thư của trẻ con là ‘thư tín’”. Tôi lắc đầu. “Child là một địa điểm. Tên thư viện riêng của khoa Anh văn”.
Child. Với tôi, chỉ một từ nhỏ bé đó mở ra một thế giới đã mất còn rộng lớn hơn nhiều so với nơi mang tên nó, một dãy phòng nằm trong góc tầng trên cùng của thư viện Widener. Với những nghiên cứu sinh của khoa, Child là ngôi nhà thứ hai, một nơi quen thuộc với những chiếc ghế bành cũ vải bọc đã sờn, những chiếc bàn rộng và ánh đèn ấm áp chiếu xuống những cuốn sách cũ. Khu thư viện đặc biệt này lưu giữ một bộ sưu tập có một không hai không chỉ về văn học mà cả về mọi chuyện trên trời dưới biển về cuộc đời các tác giả - những cuốn hồi ký, tự truyện, lịch sử, và thư từ. Hàng tập thư tín dày cộp.
“Ở đó chứa đầy thư” tôi rên lên.
“Của Shakespeare?” Ben hỏi.
“Nếu tìm thấy thì anh báo tôi biết nhé”.
“Child không có thư của ông ta sao?”
“Chẳng ai có hết.” Tôi đáp ngắn gọn. “Không còn bức thư nào nữa. Nhà soạn kịch nổi tiếng nhất bằng tiếng Anh - và có lẽ của mọi thứ ngôn ngữ - và chúng ta chẳng có gì hết. Không một dòng thư gửi cho vợ, hay một lá thứ phàn nàn gửi người bán sách. Thậm chí một lá thư tạ ơn khách sáo gửi cho Nữ hoàng. Về vấn đề này, chúng ta chỉ có duy nhất lá thư được viết gửi cho ông, một bức thư hỏi vay món tiền tiêu vặt, và cũng chưa bao giờ được gửi đi. Từ mức độ phổ biến như vậy, có vẻ như ông không viết thư cho ai, và cũng chẳng ai viết thư cho ông. Gần như anh có thể nghi ngờ đây là một người mù chữ”. Tôi đặt mẫu giấy nhắn của Roz vào cuốn sách đang mở và lùi lại. “Tất nhiên ông hẳn đã viết thư. Nhưng chúng không còn tới ngày nay. Một vụ điển hình về những mẩu bằng chứng rời rạc”.
Tôi đưa tay lên bóp nhẹ cổ, thoáng nghĩ đáng lẽ tôi phải bóp cổ Roz mới phải. Bà ấy muốn ám chỉ đến thư tín nào đây? Chẳng lẽ người phụ nữ này không thể đơn giản nói ra mình muốn tìm thấy nó như thế nào?”.
Ben đang xem xét mảnh giấy. “Hãy cho tôi biết chính xác cô tìm thấy nó như thế nào”.
Tôi lặng lẽ kể nhanh lại những gì tôi biết, từ lúc Roz bước vào nhà hát hóa trang thành vai hồn ma, cho tới bức thông điệp mã hóa bà để lại trong chiếc hộp và bộ thẻ tra cứu sách trong phòng đọc của bà.
“Bộ thẻ tra cứu sách?” anh ta cau mặt nói. “Cô tìm thấy mảnh giấy này trong bộ thẻ tra cứu sách?”
Tôi gật đầu.
“Nhưng tòa nhà tại Harvard được đạt theo tên người, đúng không?”
Tôi gật đầu.
“Vậy thì thư viện cô vừa nói được đặt theo tên ai vậy, cô giáo sư?”
“Đừng gọi tôi như vậy”. Nhưng vừa định nói những lời này ra, tôi chợt hiểu anh ta muốn nói gì. Roz không ám chỉ một địa điểm. “Child. Corr” là những từ viết tắt cho một tấm thẻ tra cứu. Một phiếu thư viện cho “Child. Correspondence”. Cho Child. Correspon-dence”. Thư tín của Child.
“Francis Child là một giáo sư.” Tôi nói chậm rãi. “Một giáo sư hoàn toàn có thật. Một tiền bối của Roz, trước bà vài thế hệ. Ông ta là một giáo sư Anh văn, trên thực tế là một trong những học giả lớn của Harvard. Mặc dù tôi không hiểu tại sao bà ấy lại nghiên cứu thư tín của ông ấy, hay tại sao bà lại muốn tôi làm việc này. Ông ấy chuyên nghiên cứu về những bản ballad chứ không phải Shakespeare”. Tôi chỉ vào máy tính xách tay của Ben. “Nó có nối mạng chứ?”
Anh ta gật đầu và đẩy cái máy về phía tôi. Tôi truy cập vào HOLLIS, danh mục thư viện trực tuyến của Harvard, gõ tên của Child vào cùng từ ‘Thư tín’.
“Francis James Child”, Ben đứng sau lưng tôi đọc to lên. “’Thư tín, 1855-1896’. Chết tiệt”. Anh ta rên rỉ. “Không gì giống với việc bị muộn ba giờ để có thể đắc thắng vì mình đã đúng”.
“Chúng ta không quá muộn”. Tôi chậm chạp lắc đầu.
“Cô có tình cờ nhận ra có cái gì đã bị bùm tối nay không? Đó là vụ nổ ở Widener”.
“Nhìn đây!” tôi nói, chỉ tay vào màn hình. “Số tra cứu của nó là MS Am1922”.
“Eureka,” Ben nói. “Nó giải thích mọi điều”.
“MS có nghĩa là ‘bản thảo’”, tôi nói trong khi đóng màn hình lại. “Có nghĩa là những lá thư này không lưu trữ ở Widener. Chúng nằm ở Houghton, thư việ lưu trữ các bản thảo viết tay và sách hiếm của Harvard”.
“Ở đâu vậy?”
“Tòa nhà gạch thấp nằm giữa Widener và Lamont”.
“Nói cách khác là sát nách Widener”. Anh ta lắc đầu. “Điều gì khiến cô nghĩ Widener hay thư viện nằm ngay bên cạnh sẽ mở cửa sáng hôm nay?”
“Đây là Harvrd; nó sẽ mở cửa lúc chín giờ.” Tôi nhìn anh ta cười ranh mãnh. “Chúng ta không quá muộn mà quá sớm”.
“Được rồi.” Ben đáp. Anh ta cúi người về phía trước, đặt tay lên tay tôi. “Cô chắc mình muốn tiếp tục chứ?”
“Anh định dọa tôi chắc?”
“Cô nên biết sợ”.
“Không có nghĩa tôi nên dừng lại”.
Anh ta gật đầu, và tôi nghĩ vừa bắt gặp một tia thán phục. Anh ta đứng dậy đi lại chỗ chiếc tủ lạnh nhỏ lấy ra một loan Red Bull. Tựa người vào tủ lạnh, anh ta bật nắp lon. “Cô ngủ trên máy bay chứ?”
“Không”.
“Thế còn tôi hôm trước nữa?”
“Không nhiều lắm”.
Anh ta nhìn vào mắt tôi. “Bài học chiến đấu số một: Sự kiệt sức khiến bạn trở nên ngu ngốc. Và sự ngu ngốc khiến bạn trở nên nguy hiểm - cho chính mình và mọi người xung quanh. Vào lúc này thì có nghĩa là tôi. Vì vậy tôi rất hoan nghênh nếu cô cố thử chợp mắt một lát”. Anh ta chỉ về phía cửa. “Phòng ngủ ở phía kia. Phòng tắm cũng vậy. Tôi sẽ chỉ quanh quẩn ở đây thôi”.
Thật quá đủ cho một đối tác làm việc. Tôi bị bắt đi ngủ như một đứa trẻ. Tôi thấy bực bội, nhưng tôi cũng đã mệt rũ. Tôi đi về phía phòng ngủ.
“Ngủ ngon, cô giáo sư”.
“Dừng ngay gọi tôi như vậy đi”. Tôi đóng sầm cửa lại mạnh hơn cần thiết. Một chiếc giường vương giả rộng rãi phủ khăn lông màu đỏ tía trước mặt tôi; những khung cửa sổ phía đối diện mở ra một khung cảnh tuyệt vời khác. Phòng tắm trông như thể một đại lục mênh mông lát toàn gạch trắng. Tôi chui vào trong đó, cố gắng để càng nhiều cánh cửa khóa trái ngăn cách mình với Ben càng tốt.
Tôi đứng dưới vòi hoa sen ấm áp, để cơn bực bội của mình trôi đi cùng mọi cáu bẩn tích lại trong hai ngày vừa qua. Những khung cảnh lần lượt trôi qua trong đầu tôi: lửa bò dọc theo những dãy giá sách trong phòng đọc của Harry Elkins Widener, bập bùng trên những tấm bìa da xanh và đỏ của những cuốn sách quý. Một vết rám nâu chậm chạp lan dần qua những trang sách của cuốn Tuyển tập Đầu tiên . Những cuốn sách, ý nghĩ khiến tôi đau nhói lòng. Tất cả những cuốn sách tuyệt đẹp đó.
Của đi thay người , Ben đã nói vậy.
Một khung cảnh khác xuất hiện: những tờ giấy chậm chạp lượn vòng trong không khí trong phòng đọc của Roz. Bức tượng bán thân của Shakespeare bị đập vỡ - một mảnh má của ông nằm chỏng chơ trên thảm trải sàn. Nếu tôi lao ra khỏi căn phòng đó chỉ chậm hơn hai giây thôi, rất có thể thay vào đó đã là má của tôi, tôi thầm nghĩ trong khi vặn vòi hoa sen.
Tôi quấn chiếc khăn tắm quanh người và chải qua mái tóc. Đúng là Ben cư xử với tôi như với một đứa trẻ, điều đó khiến tôi bực bội - nhưng tôi đã phản ứng lại đúng như một đứa trẻ, đùng đùng lao ra khỏi phòng. Nói nhẹ đi nữa thì tôi cũng đáng bị gọi là bất lịch sự và vô ơn; tệ nhất là gì thì tôi không dám nghĩ đến nữa.
Tôi lấy ngón chân cái gẩy vào bộ đồ của mình; chúng khét lẹt mùi đám cháy. Trừ khi muốn mặc chúng đi ngủ, tôi đành phải quay lại chỗ Ben hỏi mượn thứ gì khác. Tôi ngán ngẩm nhìn dăm đăm vào quần áo của mình. Sau đó tôi khoác lên người chiếc khăn trắng muốt to bằng chiếc khăn trải ở bãi biển và quay trở lại phòng khách.
Ngồi ở noi anh ta có được tầm nhìn tốt - và có thể cả đường ngắm chuẩn - tới cả cửa chính và các cửa sổ, Ben đã gác cả hai chân lên bàn. Đặt sẵn khẩu súng ngắn trong tầm tay với, anh taddang lần giở những trang sách của Chambers. Anh ta đã tìm cách gỡ được mảnh kính khỏi bìa sách, nhưng vết máu vẫn còn nguyên trên bìa. Nhô lên trên cuốn sách, những đường nét khuôn mặt anh ta trông thật mạnh mẽ, như thể được Michelangelo hay Rodin tạc nên vậy - cho dù anh ta mặc quá nhiều quần áo trên người để có thể giống được với một trong hai bức tượng này.
“Roz bảo tôi rằng ngôn ngữ Shakespeare phong phú giàu có đến vậy vì sân khấu của ông ta quá trống trải.” Anh ta nói, vẫn không ngước mắt lên. “Không có cảnh nền. Không có gì ngoài trang phục và vài chiếc cột chống”.
Tôi giật bắn người. Tôi không nhận ra anh ta đã trông thấy tôi. “Ông ấy đã xây dựng nên thế giới của mình bằng ngôn từ”.
“Hai người các vị đã bao giờ đọc cuốn sách này chưa?” Anh ta lật giở một trang, cau mày. “Cứ theo ông lão Chambers viết trong này, sác sân khấu ở London có thể tạo ra sương mù hay suối nước, sấm và chớp, thậm chí cả những cơn mưa hay những màn pháo hoa - tất nhiên là không phải cùng một lúc. Một nhà hát có cả khung cảnh khu rừng di động được có thể dựng lên qua một cửa sập ở sàn sân khấu. Không hẳn là George Lucas, nhưng cũng không đến nỗi trống trải. Cảnh ưa thích của tôi là Pluto được những vị thần Số Phận, nói thẳng ra là tàn bạo, mặc những chiếc áo đang bốc cháy trong khi – hãy nghe đoạn này” - ngón tay anh ta chạy dọc dòng chữ ở đầu một trang sách - “Jupiter hạ xuống một cách uy nghi dưới một cầu vồng, lưỡu tầm sét của ông gầm rít.”
“Tôi nay anh đã cứu mạng tôi đúng không?”
Ngón tay anh dừng lại trên trang sách. “Nghe như Elton John”.
“Tôi nghiêm chỉnh đấy”.
“Tôi cố không tỏ ra quá nghiêm túc”.
“Được, vậy hãy thử cố nghiêm túc đi. Chỉ một lần thôi. Vì cô của anh, nếu không phải vì tôi.”
Rời mắt khỏi cuốn sách, anh ta ngả lưng ra sau, hai tay đan sau đầu. Đôi mắt anh ta lười nhác quan sát tôi, làm tôi chợt nghĩ đến cảnh con báo ngắm nhìn con linh dương trong khi đang thoải mái nằm trên cây.
“Cô sẵn sàng cởi chiếc khăn ra chứ?”
Tôi lập tức cảm thấy toàn bộ chiếc khăn tăm đang áp vào cơ thể mình, từng nếp gấp, từng sợi vải đang cọ vào da thịt. “Chưa phải lúc này”.
“Vậy thì đó cũng là câu trả lời của tôi. Chưa phải lúc này”.
Tôi kéo chiếc khăn sát hơn vào người. “Dù sao cũng cám ơn anh. Vì đã cố cứu nó cho tới lúc này.”
“Chúc cô có những giấc mơ ngọt ngào, giáo sư”, anh ta khẽ mỉm cười, quay lại với cuốn sách.
“Đồ đểu!”, tôi trả miếng rồi quay trở lại phòng ngủ. Vừa ngồi xuống giường, tôi chợt ngẩn người. Tôi đã định mượn anh ta một chiếc áo thun; tôi không hề hứng thú với ý tưởng khỏa thân nằm ngủ trong khi một người đàn ông tôi hầu như chẳng biết gì ở ngay phòng bên cạnh, cho dù anh ta có là cháu của ai đi nữa. Nhưng nếu tôi quay trở ra thì coi như tôi đã bị kết án, nhất là khi phải đề cập đến tình trạng trần như nhộng của mình hiện tại, cho dù chỉ một cách bóng gió. Gỡ chiếc khăn tắm ra, tôi chui vào dưới chăn và ngủ thiếp đi lập tức, khi đầu vừa chạm gối.
Tôi chợt bừng tỉnh giữa khung cảnh mà tôi biết ngay là một giấc mơ. Ánh sáng lạnh giá, u ám nặng mùi biển; một bức tường đá chạy xa tít. Cách tôi một quãng ngắn ở phía dưới, một tấm thảm thêu hình Venus và Adonis treo xiêu vẹo, mặt thảm bị rạch nát và thấm đầy máu. Phía dưới tấm thảm, một vị vua mái tóc bạn trắng đội vương miện đang nằm bất động trên mặt đất. Tôi cúi xuống nhìn. Ông ta đã chết. Gió thổi qua làm bề mặt tấm thảm gợn sóng lên từng đợt. Đôi mắt ông vua đã chết bật mở, những ngón tay xương xẩu chộp lấy tôi. “Trả thù…”, ông ta rít lên. Trước khi tôi kịp cử động, một bóng đen từ phía sau lướt tới ập xuống người tôi, và một lưỡi dao mỏng sắc lẻm, nóng bỏng cắt ngang qua cổ họng tôi.
Tôi giật mình ngồi bật dậy. Hẳn tôi đã hét lên, vì đúng lúc đó Ben xuất hiện trên khung cửa. “Cô không sao chứ?”
“Ổn cả.” Tôi run rẩy mỉm cười trả lời. “Một cơn ác mộng thôi. Hamlet ”.
“Thật chứ?” Anh ta nhìn tôi nghi ngờ. “Cô nằm mơ thấy cả một vở bi kịch năm hồi?”
“Một bộ phim kinh dị loại B thì đúng hơn”.
Thoáng biến mất sau khung cửa trong chốc lát, anh ta xuất hiện và đưa tôi một chiếc áo thun. “Đến lúc cô nên dậy rồi. Bữa sáng ở ngoài này.” Anh ta nói thêm và lại quay trở ra, đóng sập cửa lại. Chiếc áo thun anh ta đưa tôi màu xám trơn, không có hình vẽ gì khác, thân áo hằn lên thành nếp ở những chỗ gấp gọn ghẽ. Tôi mặc vào người; chiếc áo có vẻ sạch, như thể đã được đem phơi khô trong một khu vườn trên núi. Chiếc áo được kéo xuống đến đâu, tôi cảm thấy hơi ấm trở lại tới đó, và giấc mơ vừa qua lui dần như một đợt thủy triều vừa khẽ rì rầm vừa chầm chậm rút đi.
Ngoài phòng khách, tôi thấy ti vi đang được bật nhưng tắt tiếng, một bản nhạc của Vivaldi đang khe khẽ vang lên từ giàn máy nghe nhạc, còn từ chiếc bàn ăn tỏa ra mùi thịt muối và quế. Ben ngồi ở phía dãy cửa sổ, đang chăm chú nhìn xuống dòng sống Charles.
“Bánh mì nướng kiểu Pháp với quả việt quất hoặc món trứng Benedict.” Anh ta lên tiếng. “Nếu cô thích thịt bò thái lát sốt kem đặt trên bánh quy thì chúng ta phải yêu cầu lại”.
“Anh đùa tôi chắc.” Tôi nhăn mặt. “Chẳng lẽ khách sạn này lại có cả món ‘cứt ngồi trên đĩa’?”
Anh ta quay lại. “Ngay cả trong quân đội người ta cũng tránh dùng cái tên mất ngon này khi có mặt phụ nữ đấy”.
“Anh từng đi lính à?”
“Không hẳn”.
Tôi chờ xem anh ta có cung cấp thêm thông tin gì không. Không hề.
“Nếu vậy,” tôi nói, “anh nghĩ sao nêu chúng ta chia đôi món trứng và bánh mì Pháp?”
“Rất ngoại giao”. Anh ta gạt một phần trứng Benedict vào dĩa của tôi. “Tôi cũng đã tìm cách chuyển hành lý của cô đến đây”.
Không sai, chiếc túi màu đen nhỏ có bánh xe Herry chuẩn bị cho tôi đang nằm bên cửa.
“Anh đã nói tôi không nên quay lại đó”.
“Cô không thể. Nhưng không có nghĩa những người khác không thể lẻn vào khách sạn đó rồi chuồn ra mà không bị ai phát hiện”.
“Anh đánh cắp hành lý của tôi?” tôi hỏi, chiếc dĩa xúc đầy trứng dừng lại giữa đường khi sắp được đưa tới miệng.
“Tôi đòi lại một món nợ cũ. Chúng ta có thể gửi trở lại nếu cô không thích”.
“Không” tôi lúng túng nói trong khi miệng đang đầy trứng và nước sốt Hà Lan. “Quần áo sạch là một mục đích hoàn toàn đủ để biện minh cho bất cứ phương tiện nào”.
“Nói đến những hoạt động mờ ám, chúng ta có thể thấy trên toàn bộ bản tin sáng. Không chỉ các kênh địa phương. Mà là ông lớn của tin tức: CNN. Chương trình Ngày hôm nay. Good morning America”.
“Người ta cho chúng ta biết gì mới mẻ sao?”
“Họ thậm chí còn không nói đến những điều chúng ta đã biết - ngoại trừ những gì mà bất cứ ai ở trong vòng bán kính chín dặm đều thấy rõ mồn một”. Anh ta nhìn tôi giễu cợt. “Cô chắc muốn tiếp tục vụ này chứ? Giờ nó đã nóng bỏng rồi và hứa hẹn sẽ còn nóng hơn nữa”.
“Anh muốn nói đến nguy hiểm?”
“Sẽ có vẻ hấp dẫn hơn nếu cô nói là ‘nóng’”. Anh ta mirmg cười. “Mặc dù cùng là một ý”. Anh ta đẩy dĩa sang bên. “Chỉ còn là vấn đề thời gian thôi, Kate, trước khi một ai đó ngoài chúng ta sẽ nhìn ra mối liên hệ giữa đám cháy ở Harvard với vụ hỏa hoạn ở nhà hát Quả cầu, và khi đó, tất cả những kẻ săn tin sốt dẻo trên thế giới sẽ theo cô sát gót, chưa kể tới lực lượng cảnh sát của hai quốc gia”.
Tôi cầm tách cà phê đến bên cửa sổ. Điều tôi muốn làm đã quá rõ ràng. Dù bị theo đuôi hay không. Với tôi, câu hỏi đáng quan tâm nhất, che đậy những câu trả lời mơ hồ, là tại sao? Trả thù , ông vua già đã kêu lên như vậy trong giấc mơ của tôi. Nhưng trả thù cho ai?
Cho Roz, tất nhiên rồi. Bà chính là ông vua; tôi biết điều mà ai cũng biết về những giấc mơ, nơi một người hoàn toàn xa lạ chính là mẹ bạn, người yêu của bạn, hay chú chó cưng của bạn thời thơ ấu. Bạn chỉ đơn giản biết như vậy, với niềm tin sắt đá của một vị thánh, hay ít nhất cũng của một người mộ đạo nhiệt tình. Nhưng chính cổ họng của tôi đã bị cắt đứt. Và trong thư viện, tên sát nhân cũng đã gí một lưỡi dao hoàn toàn có thực vào cổ họng tôi.
Tôi không có chút ảo tưởng nào về khả năng lần theo kẻ sát nhân để tự mình thực thi công lý theo kiểu ân đền oán trả. Hay đưa hắn ra trước công lý một cách hợp pháp. Nghĩa là trả thù hắn.
Hắn sẵn sàng đốt, thậm chí giết để ngăn không cho điều Roz tìm thấy, cho dù đó là điều gì, được đưa ra ánh sáng. Tôi chỉ muốn đảm bảo chắc chắn hắn sẽ không đạt được mục đích.
Nhưng báo thù không phải là toàn bộ câu chuyện. Tôi nhấp một ngụm cà phê, ngắm nhìn những con chim mòng biển đang chao liệng trên sóng. Chiếc hộp bọc giấy vàng Roz đưa cho tôi cũng có thể chính là một chiếc hộp của Pandora. Vì Roz, đúng là tôi muốn báo thù. Để cho mình, điều tôi muốn đơn giản và cũng ích kỷ hơn. Tôi muốn biết. Tôi muốn biết Roz đã tìm thấy gì.
Với Ben, bà đã huyên thuyên về Sự Thật và Cái Đẹp. Với tôi, bà đã nói: Nếu cô mở chiếc hộp, cô phải đi tới nói nó dẫn cô . Tôi uống nốt tách cà phê và quay lại. “Tôi đã hứa. Còn anh không câng phải đến.”
“Nhưng có đấy.” Anh ta mỉm cười nhìn tôi. “Tôi cũng đã hứa”.
Chúng tôi thay nhau đi tắm. Một lần nữa, tôi phải thừa nhận thật tuyệt khi mặc lên người bộ quần áo sạch sẽ bà Barnes đóng gói cho tôi, mặc dù bà đã cho vào hành lý - chắc hẳn do sự yêu cầu của Herry - cả những thứ tôi chưa bao giờ tưởng tượng ra mình sẽ mặc. Tôi chọn cho mình chiếc quần Capri màu be và áo không tay màu da báo có cổ chữ V khoét sâu. Trong khi đợi Ben, tôi chuyển chiếc trâm sang chiếc áo mới.
Anh ta xuất hiện với chiếc áo cổ tròn màu xanh ôliu và quần kaki.
“Sẵn sàng rồi chứ?” tôi hỏi, nhét cuốn sách và vài tờ giấy vào túi.
Anh ta khoác dây đeo vai vào người, nhét súng vào đó rồi khoác ra ngoài chiếc áo Jacket da lộ. “Sẵn sàng”.
Chúng tôi ra ngoài, đi tới Houghton.