← Quay lại trang sách

Chương 13

Thư viện Widener vẫn bị bao quanh bởi xe cảnh sát và xe cứu hỏa. Đám đông nghển cổ qua hàng rào chắn cố nhìn vào trong, nhưng bên trong tòa nhà quá tối để có thể thấy được gì đó qua những khung cửa. Tôi và Ben lách qua đám đông, vòng sang tòa nhà gạch kích thước khiêm tốn hơn nhưng lại duyên dáng hơn nhiều tọa lạc ngay bên cạnh: thư viện Houghton.

Thay đổi duy nhất sau sự kiện bất hạnh tại Widener là việc tăng gấp đôi số người bảo vệ, từ một thành hai. Nghe thấy tiếng bước chân của chúng tôi, cả hai người rời khỏi tờ báo đang đọc vui vẻ ngẩng lên gật đầu chào. Một người đưa cho tôi chìa khóa ngăn đựng đồ, người kia cẩn thận kiểm tra chiếc túi của tôi. “Xin cô lưu ý không khóa ngăn đựng đồ,” người thứ nhất dặn. “Hôm nay điều đó không được phép”.

Tôi để lại mọi thứ trong một ngăn tủ hẹp, chỉ mang theo cuốn sách của Chambers và tập giấy vàng. Không có chuyện tôi để cuốn sách lại bất cứ đâu, nhất là trong một ngăn tủ không khóa. Cùng với Ben, tôi đi tới phía những cánh cửa màu xanh ở cuối sảnh và bấm chuông.

Hai giây sau, chúng tôi được phép vào trong.

Phòng đọc ở đây rất thoáng đãng, hình chữ nhật, trên tường trổ những khung cửa sổ cao cho phép ánh sáng từ bầu trời mùa hè xanh ngắt rọi vào. Những dãy bàn rộng bóng lộn được kê khắp phòng, phục vụ cho một nhóm nhỏ học giả đang cắm cúi làm việc cùng đám giấy tờ bề bộn của họ. Tôi bước tới một chiếc bàn trống và đặt giấy tờ của mình xuống. Ben ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh tôi. Ở chiếc bàn bên cạnh, một người đàn ông với khuôn mặt lệch xệ sang một bên như mặt của một chú chó Baxet ngẩng lên nhìn với vẻ thất vọng, như thể chúng tôi đã làm hỏng mất tầm nhìn của ông ta. Điền yêu cầu tìm kiếm vào phiếu - MS Am 1922. Francis J. Child. Correspondence - tôi đưa phiếu cho người đàn ông dáng vẻ khắc khổ ngồi ở bàn chính, rồi cầm lấy chiếc bút chì ngồi xuống đợi. Trước đây, mỗi khi tới chỗ này tôi đều có cảm giác đang ở một nơi trú ngụ kín đáo, một tổ kén ấm áp; còn giờ đây tôi cảm thấy như đang bị phơi ra trước cả thiên hạ. Từ những gì tôi biết, tên sát nhân chắc cũng đã có mặt sẵn trong phòng đọc này.

Ben đứng dậy đi vơ vẩn xung quanh thư viện, thỉnh thoảng lại lơ đãng ngó nhìn những cuốn sách tra cứu. Tôi nghĩ anh ta đang ghi nhận mọi chi tiết về căn phòng cũng như những người trong phòng. Tìm kiếm những dấu hiệu không hay, và chắc hẳn cả phương án rút lui an toàn. Tôi cố quay trở lại tập trung suy nghĩ về những vấn đề của chính mình. Mình đang tìm cái gì? Roz đang làm gì với đám thư từ của Child? Liệu tôi có thể nhận ra thứ cần tìm khi trông thấy nó không?

Ben biến mất vào trong dãy hành lang nối giữa Houghton và Widener, hai bên hành lang có kê các máy tính và tủ đựng phiếu tra cứu cho danh mục sách của Houghton, cả mới lẫn cũ. Tôi ngạc nhiên khi thất anh ta quay trở về với một tấm thẻ tra cứu trên tay. quay trở lại bàn chờ mượn tài liệu, anh ta ngồi xuống cạnh tôi.

Sau mười lăm phút chờ đợi căng thẳng, hai người thủ thứ, lặng lẽ và nghiêm nghị như những người hầu đứng bên linh cữu của vị vua mới băng hà, đẩy ra một chiếc xe, trên xe chất cao bốn hộp đựng tư liệu cùng đôi găng ta mỏng bằng vải bông. Ở bàn bên cạnh, người đàn ông thở dài, như thể sức nặng của những hộp tư liệu đang chờ được nghiên cứu này đang đè nặng lên ngực ông ta. Trong giây lát tôi tự hỏi liệu có phải ông ta đang theo dõi chúng tôi không. Nhưng thật ngớ ngẩn - không, tôi đã quá hoảng loạn mất rồi; ông ta đã ở đây từ trước.

Tôi đi găng tay, mở nắp chiếc hộp thứ nhất và bắt tay vào việc.

Những bức thư đều đã được đánh số và ghi lại danh mục, nhưng trong nghiên cứu. Roz tin cả vào sự cẩn thận tỉ mỉ lẫn vận may. Bà đã không hạ cố cung cấp cho tôi bất cứ chỉ dẫn chính xác nào, tỷ như số thứ tự của lá thư chứa đựng bí mật của bà. Phần lớn học thuật đích thực, bà thường thích triết lý, cũng chuyển biến một cách chậm rãi, khoan thai như một nghi thức hoàng gia hay quá trình tiến hóa của một giống loài mới, nhưng học thuật đích thực lúc này có vẻ quá xa xỉ với tình cảnh của tôi. Tôi lần giở hết trang này qua trang khác nhanh hết mức có thể tự cho phép qua những thăng trầm trong cuộc đời của một người khác, luôn hiểu rõ khi nghe tiếng từng trang bản thảo lật qua rằng tôi không hề biết mình đang tìm kiếm điều gì. Nếu giở quá nhanh, tôi có thể dễ dàng bỏ qua điều cần tìm.

Không bức thư nào trong số này do Child viết; chúng đều là thư ông nhận được từ đồng nghiệp và cộng tác viên cho công việc không biết mệt mỏi của ông với tư cách là người sưu tầm những bản ballad dân gian: các nhà thơ Longfellow và Lowell, một trong các anh em Grimm, triết gia William James. Xen giữa chúng là những bức thư đầy những lời tâm tình vui vẻ của vợ ông, Elizabeth. Không phải là ứng cử viên nặng kí cho khám phá của Roz.

Ở bàn bên cạnh, Chó Baxet đang duỗi tay ra bẻ khớp ngón. Trên bức tường sau lưng ông ta, đồng hồ đã chỉ qua hai giờ. Tôi quay lại với cuộc tìm kiếm của mình.

Ở gần đáy chiếc hộp thứ ba, trong lúc đang lướt qua một tập thư vui vẻ sinh động thuật lại kì nghỉ hè của Elizabeth ở Maine cùng các con bà, tôi chợt bắt gặp một trang viết không có ăn nhập với các trang trước.

Bọn trẻ đang chập chững đi xung quanh, hát … một trang thư dừng lại ở đây, nhưng khi lật sang trang sau tôi đọc thấy. Tôi đã tìm thấy một thứ . Đúng những lời Roz đã nói.

Tôi ngồi thẳng dậy liếc nhìn Ben, nhưng anh ta đang bị hút vào một bản thảo có vẻ như của cuốn nhật kí nhỏ đã bị thời gian gặm nhấm.

Tôi đặt hai trang giấy cạnh nhau. Trang thứ hai không phải chứ viết của Elizabeth Child. Những chữ viết nguệch ngoạc khẳng khiu như chân nhện rất giống với chữ viết của bà, cả loại giấy và loại mực màu xanh nhạt cũng vậy. Đủ giống nhau để được coi là hai phần của cùng một bức thư, ít nhật khi xem lướt qua. Nhưng nếu nhìn kỹ hơn thì không phải vậy.

Tôi đã tìm thấy một thứ tôi tin rất thu vị với một học giả như ông, và cho dù không phải vàng lúc nào cũng lấp lánh, tôi vẫn tin chắc thứ này thậm chí có thể có giá trị lớn.

Tôi liếm đôi môi khô khốc, tiếng nói của Roz lại văng vẳng: Tôi đã tìm thấy một thứ. Và tôi cần cô giúp. Tôi đọc tiếp trang thư:

Đó là một bải thảo viết tay. Tôi tin nó được viết bằng tiếng Anh – ít nhất một vài từ tôi luận ra được ở chỗ này chỗ khác đúng là tiếng Anh, và cuốn sách cổ Don Quixote trong đó tôi tìm thấy bản thảo này kẹp vào là một bản dịch tiếng Anh. Nhưng đáng tiếc là phần lớn chữ viết của bản thảo hiện không thể đọc được nữa, kể cả ở những chỗ chữ viết không bị gạch xóa đến mức không luận ra nổi. Tuy vậy, tôi đã khôi phục lại được toàn bộ tên của bản thảo với mức độ chính xác mà tôi nghĩ có thể tin cậy được - trừ chữ cái đầu tiên, tôi phải thú nhận là chưa bao giờ trông thấy. Một hình xoáy ốc với một vạch kẻ ngang qua, tựa như thế này. Tôi cũng từng nghĩ đó có lẽ là chữ cái Hy Lạp, trừ một điều những chữ cái tiếp sau đều là chữ cái Latinh như chúng ta sử dụng.

Tôi nghĩ tên của bản thảo là - ardeno, hay có thể là - ardonia?

Tôi cau mày, ký tự lạ lùng đó không phải là chữ cái Hy Lạp, đó là một chữ cái Latinh thông thường: một chữ C hoa viết theo kiểu chữ thảo thời Elizabeth, được gọi là kiểu Thư Ký. Như vậy tên của bản thảo là Cardeno hay Cardonia.

Tôi đã từng nhìn thấy từ này, tôi dám chắc. Đã đọc thấy ở đâu đó… Đây là một cái tên. Nhưng tên của cái gì? Một người, hay một địa điểm? Tôi càng cố lục sâu vào trí nhớ của mình, hồi ức lờ mờ càng chìm sâu vào màn sương mù của sự lãng quên. Biết đâu lá thư có thể giải thích tất cả. Tôi lướt vội tới phần cuối trang giấy.

Tôi đã cất giữ bản thảo này ở một nơi an toàn. Chính nơi bản thảo đã sống sót không ai nhìn thấy và tôi tin nó đã không bị quấy rầy kể từ lần đâu tiên bị thất lạc không lâu sau khi được viết ra. Đây là tình thế khó xử của tôi. Tôi muốn mang tới cho một chuyên gia xem xét. Nhưng tôi không biết tên hay địa chỉ của bất cứ chuyên gia nào như vậy ở nơi nằm bên rìa nền văn minh nhân loại này. Tôi cũng không biết phải làm thế nào để tách bản thảo ra khỏi chỗ nó dính vào hiện nay mà không phá hủy nó - bản thảo này rất mong manh, và tôi sợ một chuyến đi nhọc nhằn trên lưng ngựa và đường sắt sẽ phá hủy nó hoàn toàn. Một chuyến vượt biển còn nguy hiểm hơn thế.

Ở đây một trong các chàng trai tự nhận đã từng - “từ lâu lắm rồi” - là một sinh viên hăng hái của ông, và anh ta nói với tôi ông có hiểu biết thực sự vô bờ, đặc biệt trong việc giải quyết những vấn đề hóc búa có liên quan đến văn chương. Tôi sẽ mãi mãi biết ơn ông về bất cứ lời khuyên nào ông có thể đưa ra cho trường hợp của tôi. Nếu thêm vào đó, ông không ngại đặt cược nếu cuối cùng tất cả công sức bỏ ra có cửa thắng hay không thì như người ta vẫn nói, tôi luôn sẵn sàng “lắng nghe”.

Nhưng có lẽ ông không phải là người thích đánh bạc.

Để thể hiện sự trân trọng của tôi với thời gian ông đã dành cho, tôi xin gửi kèm đây một bản ballad. Một bản biến tấu tại Tân Thế Giới của một giai điệu Scotland cổ, tôi tin vậy. Tôi đã phải mất không ít thời gian phân loại những giai điệu phổ biến trong các khu trại ở đây để tìm được một tác phẩm có lẽ sẽ không làm giấy mực chuyển tải nó phải xấu hổ, nhưng tôi tin thứ tôi gửi kèm đây sẽ thành công.

Rất hân hạnh được làm quen với ông. Jeremy Granville.

Lời chào cuối thư và chữ ký, tất cả đều chạy ngoằn ngoèo thành một hàng ở sát rìa dưới tờ giấy trông chỉ như một dòng thư nữa. Tôi nhìn sang trang bản thảo tiếp theo.

... mâm xôi, Elizabeth viết. Trong khi em, như anh có thể mường tượng ra, lại đang nghĩ ngợi vẩn vơ !

Đã rõ là giáo sư Child sưu tầm những bản ballad. Tôi quay lại với bức thư của Granville. Có phải đây là thứ Roz đã phát hiện ra không?

Chỉ có thể là nó.

Tôi kiểm tra nhanh phần còn lại của chiếc hộp, nhưng không thấy gì bất thường. Hơn nữa, phần còn lại của bức thư do Jeremy Granville viết không có ở đây. Tôi kiểm tra danh mục và thậm chí không tìm thấy dòng nào đả động đến sự tồn tại của nó. Có vẻ như một trang thư duy nhất đã rơi lẫn vào những bức thư của Elizabeth một cách tình cờ, có thể ngay ở phòng làm việc của giáo sư Child. Dù sao đi nữa các thủ thư làm danh mục đã không phát hiện ra sai sót này.

Trang thư lẻ loi này không có ngày tháng, không đề cập rõ ràng đến một địa điểm - không có gì ngoài một chữ ký và sự có mặt của nó giữa đám thư từ của Child cho phép ước đoán thời điểm nó được viết ra. Ngoại lệ duy nhất là việc nhắc đến một bản in cũ của Don Quixote . Tôi sực nhớ ra đã thấy cả một dãy các bản in Don Quixote trên giá sách của Roz tối hôm trước. Nhưng điều đó nói lên cái gì? Quan tâm đến Don Quixote cũng chẳng khác gì quan tâm đến Illiad hay Chiến tranh và Hòa bình . Điều đó sẽ khiến bạn được coi là có học thức, một điều làm bạn thích thú, nhưng không hề là chuyện gì đặc biệt đến mức độc nhất vô nhị.

Dẫu vậy chi tiết này có thể giúp xác định thời gian Granville tìm thấy bản thảo ông ta nhắc tới. Don Quixote lần đầu tiên xuất hiện bằng tiếng Tây Ban Nha vào đầu thế kỷ mười bảy, cận khoảng thời gian nữ hoàng Elizabeth qua đời. Trong vòng một thập kỷ, tác phẩm này đã được dịch sang tiếng Anh. Vậy thì “cuốn sách cổ Don Quixote” của Granville - cùng với bản thảo ông ta tìm thấy bên trong - không thể xuất hiện sớm hơn thời điểm này. Mặt khác, cuốn sách đó cũng không thể xuất hiện muộn hơn thời điểm giáo sư Child qua đời - vào cuối thế kỷ mười chín, nếu tôi nhớ không nhầm, tôi thầm rên lên. Một sự giúp đỡ mới lớn lao làm sao: hai mốc thời gian đó giới hạn một khoảng thời gian gần ba thế kỷ.

Tôi đưa mắt nhìn cuốn sách của Chambers đang nằm lặng lẽ trên mặt bàn trước mặt. Ít nhất phần đầu tiên của khoảng thời gian đó được Chambers nghiên cứu, và bên cạnh những vở kịch, ông còn viết về nhiều điều khác trong cuốn sách của mình. Tôi kéo cuốn sách lại gần, lật phần cuối ra, rồi thở dài thất vọng. Không có phần danh mục theo chủ đề. Rồi tôi chợt nhớ. Bản danh mục cho cả bộ sách nằm ở tập cuối - tập này tôi đã để lại trên giá sách của Roz. Tôi mở trang sách Roz đã đánh dấu ra và đọc lại.

Bất thần, ánh sáng từ những ngọn đèn như dài ra và hắt lên cao khi tôi hiểu ra ý nghĩa những từ Granville đã viết. Tôi quay lại với bức thư. Có thể tôi đã mơ. Không, trong bức thư viết đúng như tôi nhớ.

Tôi vội vã lấy một tờ giấy vàng và bắt đầu chép lại bức thư, tay tôi lướt trên tờ giấy. Chó Baxet nhìn lên buồn bã, như thể ghen tức vì người khác đã tìm thấy thứ gì đó đáng để sao chép lại. Tôi có thể cảm thấy cái nhìn chăm chú của Ben đang làm da tôi nóng lên, mặc dù anh ta vẫn ngồi im. “Một hình xoáy ốc với một vạch kẻ ngang qua. Tôi cũng từng nghĩ có lẽ là chữ cái Hy Lạp…” Tôi viết, rồi thêm một ghi chú của chính mình: “Không phải chữ cái Hy Lạp. Tiếng Anh. Chữ C hoa thời Elizabeth”.

Tôi đưa tờ giấy vừa ghi cho Ben. Anh ta đọc và ngẩng đầu lên có vẻ bối rối. Để trả lời, tôi đẩy cuốn sách sang phía anh ta, gõ vào đoạn cần đọc.

Đó chính là trang sách tôi đã đọc tối hôm trước, liệt kê những kiệt tác thời vua James của Shakespeare, sau mỗi tên tác phẩm là một đoạn mô tả. Nhưng ở cuối trang có một phần nữa tôi đã luôn bỏ sót trước đó. Tôi cảm thấy hơi thở của Ben khi anh ta đọc tới đó, và trong đầu tôi lại hiện lên rõ ràng đoạn sách đó trong lúc anh ta lướt qua nó.

“Những vở kịch đã mất”, trong sách viết như vậy. Dưới dòng chữ này có hai tên tác phẩm. Vở kịch thứ nhất là Love’s Labour’s Won . Và vở thứ hai là The History of Cardenio .

Anh ta ngẩng lên nhìn tôi. “Đã mất?”

“Chúng ta biết được tên của chúng, những buổi trình diễn của chúng được đề cập trong lịch của triều đình. Chúng ta biết chúng đã từng tồn tại. Nhưng chưa có ai từng thấy dù chỉ một phần nhỏ của một trong hai vở kịch này - cho dù chỉ gồm hai từ dính cạnh nhau - trong suốt nhiều thế kỷ qua”. Giọng nói của tôi trở nên căng thẳng. “ Trừ Jeremy Granville”.

Hai mắt anh ta mở to. “Ở đâu?”

Tôi lắc đầu. Trang đầu tiên của bức thư đã bị mất. Trong trang thư còn lại, tác giả đã hầu như không cung cấp thông tin định danh chính xác nào. “Tôi không biết”.

Nhưng Roz đã biết, tôi chợt cảm thấy chắc chắn như vậy. “ Tôi đã tìm thấy một thứ, cô bé đáng yêu ạ. Một thứ rất lớn lao ”. Bà đã nói thế. Lớn hơn đạo diễn Hamlet ở nhà hát Quả cầu, bà đã nhấn mạnh điều đó trong khi đôi mắt màu xanh lục sáng lên. Và tôi đã chế nhạo bà một cách thiển cận.

Cửa ra vào lại kêu lên rầm rì, và tôi giật nảy mình.

Khi cánh cửa mỏ, một giọng nói mà tôi biết rõ vọng vào rõ ràng đến lạ thường.

Thám tử, chánh thanh tra Sinclair.

KHOẢNG NGƯNG

Mùa xuân năm 1598

Đến bên khung cửa có treo một tấm thảm ở đầu một cầu thang bí mật, cô gái dừng lại, vuốt cho phẳng phiu bộ xiêm y bằng lục màu xanh lục làm nổi bật mái tóc và đôi mắt sẫm màu. Cô đưa một tay lên khẽ vén tấm rèm vừa đủ để lách người vào. Trong căn phòng, một chàng trai trẻ đang quỳ xuống nhiệt thành cầu nguyện trước ban thờ, không hề biết sự có mặt của cô.

Cô gái dừng lại. Được nhìn thấy chàng trai đã trở thành một sự cần thiết, giống như ngắm nhìn một ngọn lửa. Mái tóc vàng như một vầng hào quang tỏa ra trên thân hình duyên dáng một cách hoang dã. Cô gái rùng mình. Cô không nên gọi chàng là “cậu bé” nữa. Nếu chàng trai chưa hoàn toàn trở thành một người đàn ông, ít nhất câu ta đã là một thanh niên. Will, cô cả quyết thầm nói với chính mình.

Chính người đàn ông thứ hai mà cô yêu đã gợi ý cô gọi cậu thanh niên bằng cái tên mà họ cùng chia sẻ.

“Vậy em sẽ gọi anh thế nào?” cô đã hỏi lại.

“Bằng họ của anh,” người ấy đã mỉm cười trả lời. “Shakespeare”. Và rồi người ấy còn có một ý tưởng khác, một ý tưởng sau đó ít lâu sẽ tìm đường đi vào thi ca. “Will” sẽ lấp đầy kho báu tình yêu của nàng, sau đó người ấy đã viết. Nàng có “Will” của nàng, “Will” để phụng sự nàng, và “Will” vô bờ bến.

Vài tháng trước, chính người ấy đã yêu cầu cô quyến rũ chàng trai. Người ấy đã cầu xin cô làm vậy. Yêu cầu đó đã làm cô choáng váng ngồi im lặng, để mặc người đàn ông đi đi lại lại trước mặt cô, cố tìm mọi cách từ đòi hỏi đến nịnh nọt tán tỉnh, cho tới một màn cao trào nạt nộ trước khi lùi bước xuống tận van nài.

Đó là một việc không phải không thú vị, cô nhớ lúc đó đã thầm nghĩ như vậy. Cậu thanh niên - Will - rõ ràng rất đẹp trai - với mái tóc vàng và làn da của một thiên thần, tính tình hoạt bát. Cô đã để ý đến cậu ta ngay từ lần đầu tiên chàng thanh niên xuất hiện tại đoàn kịch của Shakespeare, nhận ra ánh mắt của người đàn ông lớn tuổi hơn luôn dõi theo cậu, và cô đã nghĩ có thể anh chàng Will trẻ tuổi là bà con, người được bảo trợ hay thậm chí là tình nhân của người ấy, cô không rõ và cũng không hỏi. Nhưng rõ ràng người ấy yêu mến cậu thanh niên.

“Tại sao?” cô đã hỏi, khi chàng thi sĩ xuống nước van nài. Không phải cô muốn hỏi, “Tại sao anh muốn em làm điều đó?” mà chỉ là “Tại sao lại là em?”

Vì Will chưa bao giờ để ý đến cô. Cô đã quá quen với những đôi mắt đàn ông chăm chú nhìn mình; thậm chí cả những người đàn ông chỉ ham muốn những người đàn ông khác cũng phải thừa nhận cô là một tuyệt tác của tạo hóa. Nhưng William Shelton thì khác. Anh ta đã nhìn thấy cô, cô biết chắc điều này. Họ đã nói chuyện với nhau một hai lần. Nhưng cậu thanh niên chưa bao giờ để ý đến cô.

“Tại sao?” cô hỏi lại lần nữa.

Shakespeare đứng lại bên cửa sổ, tay nắm chặt lấy khung cửa. “Cậu ấy muốn trở thành một tu sĩ”. Ông quay lại nhìn, và chỉ đến lúc này cô gái mới nhìn thấy sự tuyệt vọng trong mắt ông. “Một tu sĩ Công giáo. Một tu sĩ của dòng Jesuit”.

Cô gái bất giác rùng mình. Chỉ phải trả lời trực tiếp trước Giáo hoàng, dòng tu Jesuit coi mình là những chiến sĩ của Chúa, hiến thân mình để mang đức tin tới những nơi nguy hiểm nhất của thế giới ngoại đạo. Trong đó có nước Anh, chừng nào nước Anh và nữ hoàng dị giáo của nó vẫn khăng khăng theo đạo Tin lành. Các triều thần của Nữ hoàng Elizabeth lại có cái nhìn khác hẳn. Họ căm ghét dòng tu Jesuit, coi là hang ổ của những kẻ cuồng tín, không ngừng âm mưu sát hại nữ hoàng, tìm cách khôi phục một vương triều Thiên chúa giáo trên ngai vàng nước Anh, và kéo cả dân tộc Anh vào ngọn lửa địa ngục của tòa án dị giáo, với những lưỡi gươm Tây Ban Nha kề lên cổ họ.

Một tu sĩ Jesuit chỉ cần đặt chân lên đất Anh là phạm tội đại nghịch. Thế nhưng họ vẫn cứ đến. Họ bị săn lùng không thương tiếc, và khi bị bắt, họ bị tra tấn bằng tất cả những hình thức ghê tởm nhất mà những pháp quan của nữ hoàng có thể nghĩ ra. Những gì còn lại từ thân thể của họ bị trao cho đao phủ để hành hình.

Ý nghĩ vẻ đẹp tươi trẻ của chành thanh niên bị đày đọa như vậy khiến cô lạnh người.

Trong những gia đình Ireland có nhiều con trai, việc một trong số đó đi vào các dòng tu không phải chuyện hiếm. Nhưng các anh trai của Will, Shakespeare cay đắng nói, đã thổi vào tâm hồn non trẻ của cậu thanh niên khao khát được trở thành người tử vì đạo, và họ cũng đang ở vị thế có thể giúp cậu hoàn thành ý nguyện này. Tất cả đám anh em của Will đều là tay chân của gia đình Howard, và cho dù luôn lớn tiếng tuyên bố công khai mình là tín đồ Tin lành khi cần thiết để cứu vớt lấy phần xác của mình, một cách kín đáo gia đình Howard được biết vẫn theo Công giáo để cứu vớt phần hồn của họ. Theo những lời dồn đại, dưới sự chỉ huy của bá tước Northampton nham hiểm và người cháu của ông ta, bá tước Suffolk, những người của gia đình này đang phụng sự vua Tây Ban Nha. Nếu có ai có thể giúp một thanh niên Anh tìm đường tới nước Tây Ban Nha thù địch một cách an toàn để vào một tu viện của dòng Jesuit, thì đó chính là gia đình Howard, những người này chuộc tôi cho sự đạo đức giả về phần hồn của chính họ bằng cách giúp đỡ cho sự mộ đạo nhiệt thành của những người khác.

Không trách Shakespeare tỏ ra tuyệt vọng đến vậy. Cô bước lại gần đặt tay lên vai ông thương hại. Ông đưa một ngón tay lên vuốt nhẹ từ má cô xuống chỗ hõm ở cổ. “Em có thể dạy cậu ấy đam mê một điều gì khác” ông đã nói vậy.

Thách thức này làm cô thấy hứng thú. Cô đã từng đối đầu với những bà vợ, với những cô nhân tình, với những anh chàng mới lớn và với những người đàn ông để giành lấy trái tim người mà họ yêu - và hầu như lúc nào cô cũng thắng. Nhưng cô chưa từng đối đầu với Chúa trời. Đúng lúc định đồng ý thì cô chợt nhận ra yêu cầu của ông đi xa tới đâu. Shakespeare không chỉ yêu cầu cô quyến rũ cậu thanh niên. Ông còn muốn cô thỏa mãn cậu ta.

Trong giây lát, cô đã định đi ra và không bao giờ quay trở lại. Cô không phải là một ả điếm, mà thỉnh thoảng ông có thể sử dụng thân xác để mua vui cho mình bằng cách trả tiền. Cô cũng không phải là một người vợ mà ông đã mua quyền sở hữu lâu dài một cách trân trọng hơn, và có thể cho mình quyền được nhường lại. Cô là người phụ nữ độc lập, và nếu cô thiasch vui đùa - và sẵn sàng bán thứ này để đổi lấy một món trang sức quý giá hay một bộ xiêm y mới - thì tình yêu của cô là để trao, chứ không phải để bán. Cô cảm thấy bị sỉ nhục khi ông lo sợ cho vẻ đẹp nguyên sơ của cậu thanh niên đến mức yêu cầu cô bán thân.

Trong sâu thẳm tâm hồn mình, cô cảm thấy khao khát trả thù đang từ từ lớn dần lên. Được, cô sẽ quyến rũ Will, nhưng cô sẽ không dừng lại ở đó. Cùng lúc, cô sẽ quyến rũ chiếm lại Shakespeare, cho đến khi cả thi sĩ lẫn chàng thanh niên phải đam mê cô với ngọn lửa dục vọng không gì dập tắt nổi. Và khi thời gian đã đủ chín muồi, cô sẽ cho cả hai người bọn họ biết điều đó.

Và cô đã khoác lên mình lụa là, ngọc trai, chải mái tóc đen thành những lọn dài óng ánh, và từ chỗ thi sĩ cô đã tới gặp chàng thanh niên, lôi cuốn Will vào mê cung của âm nhạc, những đêm vũ hội tưng bừng dưới ánh nến, vào nỗi nhớ nhung, với tất cả cung bậc ngọt ngào cay đắng, cho tới khi chàng thanh niên bọ trói chặt. Đồng thời, cô hoàn toàn biết rõ Shakespeare đang ngồi trong chiếc ghế dựa lưng cao trong gian sảnh bên dưới, đôi mắt thẫn thờ nhìn chằm chằm vào ngọn lửa trong lò sưởi.

Đó là những gì diễn ra mấy tháng trước.

Qua kẽ hở của tấm rèm, cô nhìn thấy Will đang làm dấu thánh, và làn da ngực trắng muốt của cô chợt ửng đỏ.

Mới hôm qua thôi, trong lúc lang thang đi qua phòng của Shakespeare ở tầng dưới, cô tình cờ nhìn thấy một bài thơ, và trước khi biết đó là gì, cô đã đọc hết dòng đầu tiên. Hai tình yêu mang đến cho tôi an ủi và tuyệt vọng . Cô bật lùi lại như bị đốt. Cô không thích đọc thơ của ông mà không hỏi trước. Cô có cảm giác như đó là một sự vi phạm.

Rất có thể nếu ông không bắt cô phải đợi, cô đã không bị sưh tò mò tiếp tục cám dỗ. Nhưng dòng thơ cứ vang lên nhức nhối trong tâm trí cô. Không nghi ngờ gì nữa, ông muốn ám chỉ chính mình qua nhân vật “Tôi” đang hoang mang đó, nhưng tình cảnh của nhân vật này cũng hợp cả với cô. Vậy là khi ông không tới, cô đọc tiếp:

Hai tình yêu mang đến cho tôi an ủi và tuyệt vọng.

Như hai tâm hồn vẫn đang thì thầm vào tai tôi

Một thiên thần là chàng trai thánh thiện

Một ác quỷ là người đàn bà đen tối.

Đôi má cô nóng bèng. Ông đang nói về cô, nhưng không phải cho cô. Đen tối? Ác quỷ? Đó là những gì ông nhìn nhận về cô ư?

Cô nhìn lại bài thơ.

Người đàn bà ma quỷ sẽ sớm đưa tôi xuống địa ngục

Khi quyến rũ thiên thần rời xa tôi

Và biến thiên thần của tôi thành quỷ dữ

Theo đuổi sự trong sáng của chàng bằng nhan sắc kiêu kỳ của ả.

Đó chính là điều cô muốn, cô tự nói với mình, sự bùng cháy của ngọn lửa ghen tuông và sự bối rối. Điều cô không hề lường trước là chính cô cũng đang mắc vào tấm lưới do mình giăng ra. Cô đã không lường trước sẽ yêu Will.

Và cho dù thiên thần của tôi bị biến thành ác quỷ

Tôi chỉ biết thầm nghi ngờ mà không dám nói ra

Với cả tôi, với mỗi người, hỡi bạn

Tôi đoán có một thiên thần trong địa ngục của người khác

Bài sonnet - nếu đúng là như vậy - vẫn còn dang dở, thiếu đôi câu kết. Cô bật cười vừa đắc thắng vừa chua chát. Nếu Shakespeare chưa viết nốt, đó là vì ông không thể. Ông không biết câu chuyện sẽ kết thúc ra sao. Cô có thể bị bẫy như mọt con ruồi tội nghiệp trong chính tấm mạng nhện của mình, nhưng ít nhất cô biết kịch bản của màn kịch. Cô không cần phải đoán như ông.

Rồi một ý nghĩ khác chợt đến. Có phải bài thơ cố ý bị bỏ dở, có phải cô được ở một mình, chỉ để cô nhìn thấy nó? Có phải Shakespeare đang gián tiếp yêu cầu một câu trả lời? Dùng thơ để tìm kiếm sự thật?

Một chiếc bút và lọ mực nằm ngay gần đó. Cô đi đi lại lại trước cửa sổ, chiếc váy cô đang mặc thỉnh thoảng lại sột soạt cọ lên mặt thảm trải sàn. Cô đã luôn dự định sẽ cho Shakespeare biết sự thật. Nhưng cô không thể mạo hiểm chia tay với ông. Không phải lúc này. Cho tới khi cô chắc chắn mình có thể khiến Will dửng dưng với ảnh hưởng của những người anh trai cũng như những đề nghị của gia đình Howard. Vậy thì câu trả lời của cô phải thật ăn nhập với phần còn lại của bài thơ.

Cuối cùng cô cầm lấy bút, thận trọng nín thở đặt bút lên mặt giấy:

Sự thật tôi sẽ không bao giờ biết, chỉ sống trong nghi ngờ…

Cô nghe thấy tiếng động bên ngoài cánh cửa. Đặt bút xuống, cô đi đến bên cửa sổ, vuốt lại xiêm y cho ngay ngắn, vờ đưa mắt ngắm khu vườn bên dưới.

Nếu ngay từ cái liếc mắt đầu tiên Shakespeare đã nhìn thấy điều cô vừa làm, ít nhất ông không nói gì. Chiều hôm đó họ làm tình với nhau với sự mãnh liệt khác thường, hết lần này tới lần khác, từ lúc chiều muộn trong khi bóng tối chầm chậm buồn bã buông dần xuống, mùi hoa violet thoang thoảng bay vào qua khung cửa sổ để ngỏ.

Ông đã hoàn thành bài thơ lúc nào, cô không biết. Ông hầu như không rời khỏi cô, trừ những lúc đi lấy rượu vang và mang rượu vang vừa rót còn sủi bọt trong một chiếc cốc bạc đến cho cô trong khi cô mệt rã rời nằm trên giường.

Nhưng khi cô đi ra, trong ánh nến phía dưới câu thơ của cô đã xuất hiện một câu nữa, và bài sonnet đã hoàn tất.

Cho tới khi ác quỷ xấu xa của tôi phóng vọt thiên thần ra.

Câu thơ như một cái đập vào tay cô, nếu không phải là một cái tát rát bỏng trên má, với vẻ tục tĩu bông lơn. Một sự từ chối, viết bằng nét chữ to bay bướm, nhìn nhận nghiêm túc bài thơ, tình yêu của cô - tất cả, trừ Will.

Lúc này, nhìn cậu thanh niên quỳ trước ban thờ, cô chợt nhận ra đó cũng là sự thừa nhận. Shakespeare đã không hề đoán có một thiên thần trong “địa ngục” của người khác. Ông đã biết. Ông chỉ từ chối thừa nhận, và sẽ tiếp tục làm như vậy cho tới khi tất cả kết thúc: rằng ông sẽ còn lại cùng chiến lợi phẩm.

Chính vào khoảnh khắc đó cô biết mình cần phải làm gì. Bằng bất cứ giá nào cô phải chiến thắng. Để có được trái tim của Will Shelton, cô phải qua mặt Shakespeare, gia đình Howard, và cả Chúa.

Gạt sang bên tấm thảm treo trên khung cửa nhà nguyện, cô bước vào trong.

Nghe thấy tiếng bước chân của cô, Will đứng dậy, đưa tay nắm lấy chuôi kiếm, nhưng đôi mắt chàng trai vụt sáng lên khi nhận ra cô. “Tiểu thư” chàng thanh niên cúi người chào.

“Cậu bất cẩn quá,” cô nói. “Tôi có thể là bất cứ ai”.

“Nhà nguyện này được che giấu rất kín đáo”.

“Tôi đã tìm ra cậu” cô nhướng một bên mày lên quan sát.

“Nhưng tôi không trốn tránh cô”, chàng trai đáp.

Cô để cho chàng thanh niên nồng nhiệt hôn tay cô đến bầm tím các ngón tay, rồi cúi xuống gần hơn. “Có một họa sĩ đợi cậu dưới nhà”, cô thì thầm. “Sau đó, nếu ông ta không quấy rầy cậu lâu quá, cậu có thể tìm thấy một người khác đang chờ cậu trong vườn”. Với một nụ cười hứa hẹn, cô quay ra ngoài, để chàng trai lại một mình với mùi hương violet cùng cảm giác khao khát vừa bùng cháy.

PHẦN HAI