← Quay lại trang sách

Chương 19

Sa mạc vùn vụt lao qua ngoài cửa xe. Khi những âm thanh cuối cùng của Eroica vừa dứt, tôi chuyển sang chiếc đĩa của U2, một sự trùng hợp lạ lùng nếu nghĩ tới vật sống cao nhất mà tôi nhìn thấy có lẽ từ nhiều giờ qua là những cành cây thùa mọc thành búi lưa thưa mà Bono cùng ban nhạc của anh đã đặt tên là Cây của Joshua . “Đến lúc nào chúng ta mới quay trở lại thế giới văn minh?” tôi hỏi trong khi điệu nhạc cuãng phóng khoáng và cô độc như phong cảnh bên ngoài vang lên trong xe. “Tôi cần gọi cho Herry.”

“Liệu cô có tình cờ định thông báo cả nơi chúng ta đang có mặt không đấy?”

“Không,” tôi cau mặt đáp. “Tôi sẽ không cho ông ấy biết chúng ta đang ở đâu”.

Ben đưa điện thoại di dộng của mình cho tôi.

“Tại sao anh lại giữ điện thoại của mình lại?” tôi bực bội hỏi. “Vì đó là một chiếc BlackBerry với đủ thứ nhạc chuông và kiểu rung?”

“Cũng không sai. Ngoài ra còn lí do là sẽ chẳng ai tìm được một gã chưa bao giờ tồn tại trên đời mà tên được dùng đăng kí cho số máy này”.

Tôi bấm số di động của Herry, sốt ruột nghe tiếng reo đúp của tiếng chuông kiểu Anh. Trả lời đi, chết tiệt.

Cuối cùng, cũng có người mở máy ở đầu kia. “A, cô con gái lang bạt đây rồi,” giọng nói của Herry vang lên. “Ngoại trừ một điều là những đứa con lang bạt đều có bản năng nội tại luôn tìm đường quay trở về. Điều mà cô hoàn toàn không có. Cô, cô bé liều lĩnh, còn không buồn giữ liên lạc nữa”.

“Tôi xin lỗi…”

“Thậm chí chẳng thèm gửi lấy một tin nhắn để tôi biết cô vẫn còn sống.” Herry tiếp tục trách móc.

“Thì tôi đang gọi cho ông đây”.

“Nghĩa là cô đang cần điều gì đó,” ông khịt mũi.

Tôi không có thời gian cho việc xưng tội vào lúc này. “Kết quả kiểm tra độc chất,” tôi thú nhận.

Phải mất vài phút nịnh nọt nữa tôi mới làm Herry đủ nguôi cơn bực bội để nói cho tôi những gì ông biết. Cảnh sát đã tìm thấy thứ gì đó, nhưng là gì thì ông không rõ. Ông chỉ có thể suy đoán rằng vì thám tử chánh thanh tra Sinclair, theo như cách diễn tả của ông, đã tự thăng cấp cho mình từ Thanh tra Cau có lên Thanh tra Bực tức , bất ngờ khăng khăng một các đáng nghi ngờ rằng ông ta cần nói chuyện với tôi về Hamlet . Khi Sinclair tỏ ra giận dữ khi phát hiện ra sự vắng mặt của tôi, Herry đã cung cấp mọi lời giải thích thay tôi. Sinclair đành phải chấp nhận, nhưng cũng nói rõ Herry không phải là người thay thế cho tôi, và tôi có thể thấy câu chuyện không giúp Herry cải thiện được tính khí chút nào. Ông hẳn cảm thấy rất đắc ý.

Nếu ông không thể cho tôi biết rõ cảnh sát đã tìm thấy gì, ít nhất ông biết nhà hát Quả cầu bị mất thứ gì. Khi kể cho tôi việc cuốn Tuyển tập đã biến mất, ông cố tìm cách khiến tôi phải kêu lên ngạc nhiên một cách lộ liễu đến mức tôi cảm thấy rất thỏa mãn khi làm được điều ngược lại.

“Bản in của Harvard cũng biến mất,” tôi nói. “Tối hôm qua”.

Ông bật rủa. “Thế còn bộ sách của Chambers? Cô tìm thấy chứ?”

“Có”.

Tôi đợi ông hỏi bằng cách nào, nhưng hóa ra lần này lại đến lượt ông làm tôi ngạc nhiên. “Dù cô tìm thấy gì đi nữa, Kate, hãy giao nó cho cảnh sát. Để mặc họ tìm những cuốn Tuyển tập .” Khi tôi không trả lời, ông thở dài. “Cô không muốn cảnh sát tìm lại được chúng sao?”

“Roz không muốn thế”.

“Roz đã không thể ngờ bà sẽ bị giết, còn cô sẽ gặp nguy hiểm”.

Gần như để xin lỗi, tôi nói: “Tôi chỉ lần theo một đầu mối khác thôi”.

Ông thở dài. “Hãy nhớ có một tên sát nhân đang chờ đợi cô ở cuối con đường. Tôi không muốn cô làm chuyện này một mình”.

“Tôi không làm một mình”.

Đầu bên kia yên lặng một lát. “Tôi nên ghen tuông hay bật champagne đây?” ông hỏi khi đã có thể nói được.

“Cả hai, nếu ông muốn”.

“Vậy đó là một anh chàng. Ai thế?”

“Một người có ích”.

“Tôi hi vọng điều đó có nghĩa anh ta là một tay súng giỏi.” Herry buồn rầu nói. “Tôi sẽ cho cô biết ngay nếu tôi tìm được thêm điều gì khác, và cô cho tôi biết khi nào cô quay về nhà. Cho tới lúc đó, hãy bảo trọng”. Vẻ nghi ngờ trong giọng nói của ông không làm tôi phấn chấn lên được chút nào. Ông tắt máy trước khi tôi kịp chào tạm biệt.

Tôi trả lại chiếc điện thoại, cảm thấy vừa buồn vừa nhẹ nhõm. Herry đã tận tụy giúp tôi hết lần này đến lần khác, và để đổi lại, tôi đã bỏ mặc ông và không báo cho ông những gì mình biết. Tôi thoáng tự hỏi liệu thái độ của mình có thể bị coi là phản bội hay không, nhưng tôi nhanh chóng gạt bỏ ý nghĩ đó. Tôi đã không nói dối, và còn nhiều thời gian để kể cho Herry sự thật.

Nếu tôi có thể tìm ra sự thật.

“Có phải cô nói đến tôi khi kể về một người có ích không?” Ben hỏi.

“Herry nói ông ấy hi vọng anh là một tay súng giỏi. Có phải vậy không?”

“Khi cần thiết”.

“Bằng cách nào?”

“Thực hành”.

“Tôi đã kể cho anh đôi điều về tôi. Sẽ công bằng hơn nếu có đi có lại”. Anh ta vẫn im lặng, vậy là tôi tiếp tục nói một mình, thêm vào những gì tôi đã biết. “Anh sở hữu một công ty an ninh đầy mạo hiểm, và anh nói anh rất giỏi trong việc điều tra và lẩn trốn. Anh là một tay súng giỏi nhờ thực hành, nhưng anh đã phục vụ ‘không hẳn là ở trong quân đội’. Tôi không nghĩ anh đã học nghề khi làm cảnh sát; không có gì phải nghi ngờ về điểm này. Vậy là tôi phải lựa chọn câu trả lời giữa IRA và SAS đúng không?”

Cú châm chích đã đem lại một câu trả lời. “Nghe giọng tôi giống người Ireland lắm à?”

“Vài giờ trước, nghe anh giống Elvis lắm”.

“Có thể tôi chính là Elvis đấy”.

“Cựu nhân viên mật vụ Anh,” tôi lắc đầu nói. “Ít nhất là một trong những cơ quan đó. SAS hay MI6? Tôi chỉ biết tên hai cơ quan này thôi”.

“Tôi chỉ là một con chó săn,” anh ta ngâm nga, nghe thật khủng khiếp khi trộn lẫn với U2.

Vì cuộc tra hỏi chẳng đi đến đâu, tôi đành kể cho anh ta những gì Herry đã cho tôi biết về kết quả kiểm tra độc chất. Bất thần, anh ta ngừng ngâm nga. “Điều đó giải thích vì sao Sinclair muốn nhốt chặt cô lại,” anh ta tư lự. “Nếu ông ta biết đã có một vụ án mạng, điều cuối cùng mà ông ta muốn xảy ra là vụ thứ hai. Và ngay sát điều cuối cùng đó là việc một tay nghiệp dư nào đó nhsng mũi vào cuộc điều tra của ông ta.”

Gần biên giới bang Arizona, chúng tôi dừng lại đổ xăng ở thị trấn Mesquite. Tôi vào buồng vệ sinh dùng tay vốc nước rửa mặt và rửa vết thương ở bàn tay. Ở quầy thanh toán, tôi mua một sợi dây chuyền bạc rẻ tiền (Đồ thủ công chính cống của người Indian). Tôi muốn cài chiếc trâm, nhưng chiếc áo tôi đang mặc không thể chịu được sức nặng của nói, mà tôi không thể mặc áo khoác trong thời tiết này. Tôi cài chiếc trâm vào chiếc vòng sợi dây chuyền và đeo lên cổ. Chiếc trâm nằm hơi ngả sang bên một chút, và chắc sẽ làm hỏng đường viền cổ áo, nhưng tôi thích cảm thấy nó treo ở đó.

Chúng tôi băng qua Arizona, đi ngược lên một cửa sông hẹp chảy xuyên qua núi đá vôi. Khi chúng tôi tới vùng cao nguyên hoang mạc phía nam Utah, mặt trời đã xuống thấp hơn, bóng nắng dài ra và cái nóng cũng dịu đi nhiều.

Chúng tôi đi chưa được bao xa khi chiếc xe nhảy chồm chồm quặt xuống một con dốc thoai thoải và ầm ầm rẽ vào con đường bụi mù. Chiếc xe phóng qua hàng rào ngăn gia súc và dừng lại giữa một rặng cây dương, chúng tôi được che khuất khỏi tầm nhìn từ con đường liên bang bởi một quả đồi thấp.

“Elvis sẵn sàng ròi sân khấu” Ben nói, tắt chìa khóa điện, ra khỏi chiếc xe lục lọi chiếc túi của anh ta ở băng ghế sau. “Nếu cô nghe được gì từ Paris thì cho tôi biết với nhé”. Ôm theo một bọc quần áo, anh ta đi ra sau một thân cây to.

Lần này tôi không tranh luận. Tôi tìm thấy một bộ đồ mùa hè và mấy đôi sandal trong vali. Đi ra sau một thân cây khác xuống dải đất bên bờ sông để rửa ráy qua loa, tôi lột bộ tóc giả màu bạch kim ra, sau đó cởi chiếc quần jean đã ướt mồ hôi và chiếc áo hồng bó sát cũn cỡn ra. Đồ lót của tôi cũng đã ẩm mồ hôi, và tôi cũng quẳng nốt chúng đi. Tôi đứng một hồi hoàn toàn khỏa thân trong ánh nắng chiều tà, đưa tay lên vuốt lại mái tóc và tận hưởng làn gió mát mẻ đượm mùi quả bách xù thổi qua mình. Rồi tôi nghe thấy tiếng bước chân của Ben quay trở lại xe. Tôi vội vã thay đồ.

“Thần vệ nữ xuất hiện.” Ben nói khi tôi từ dưới bờ sông quay lên.

“Ngoại trừ hiện tại chúng ta không ở giữa đại dương,” tôi chua ngoa đáp lại. “Và như tôi được biết, chưa có ai bị bắt và cắt mất của quý cho tôi có được ít bọt biển để từ đó xuất hiện”.

“Cô biết cách làm cụt hứng mọi lời khen ngợi hơn bất cứ người phụ nữ nào khác tôi từng gặp,” anh ta nói, có vẻ thú vị. “Nhưng trông cô vẫn ngon lành lắm, cho dù cô có thích hay không”.

“Đi thôi,” tôi nói.

Khi màn đêm đã hoàn toàn buông xuống, chúng tôi tới Cedar, thành phố nằm co cụm lại dưới những vách núi dốc đứng đỏ quạch giữa hai khu công viên quốc gia Bryce và Zion. Đường phố chính của thành phố hoàn toàn đặc trưng cho miền Tây, một mớ hổ lốn xấu xí các nhà nghỉ, cây xăng, và câu lạc bộ thoát y. Tuy vậy, nếu đi xa hơn một khối nhà, bạn sẽ bắt gặp khu phố Mormont trải ra thành từng dãy nhà ngăn nắp giữa những khu phố được thiết kế đúng như Brigham Young đã qui định: đủ rộng để một chiếc xe ngựa có thể quay đầu. Ở Boston, tôi mệt mỏi thầm nghĩ, những đường phố này sẽ là những con đường bốn làn xe với những dòng xe nối nhau dày đặc phóng đi với tốc độ tám mươi dặm một giờ. Ở đây, đường phố hầu như vắng tanh, hai bên là những vệ cỏ xén tỉa gọn gàng và những cây thích và cây tần bì cổ thụ cao lớn. Được xây dựng cách xa vỉa hè, những ngôi nhà mang phong cách Tudor Revival hay Craftsman Bungalow, bao quanh là những hàng hiên với giàn hồng leo. Ở hai về đường, những dòng suôi được uốn lượn từ trên núi xuống chảy trong những máng nước sâu lòng, và cả khu phố luôn vang lên tiếng nước chảy xiết.

Ở bên cạnh khu trường học nam Utah, chúng tôi lái xe vào khu đậu xe dành cho Lễ hội về Shakespeare. Ben từ tốn ra khỏi xe, dụi mắt như thể khoonh tin cảnh tượng bày ra trước mắt: Phía sau những đường cong của một khán phòng xây theo phong cách những năm sáu mươi nhô lên những đầu hồi của một nhà hát kiểu thời Nữ hoàng Elizabeth. Mái nhà dốc đứng được ốp ván thay vì lợp rạ, nhưng sống động với những chiếc đèn tỏa ra ánh sáng vàng giống như những ngọn đuốc cháy trong cơn gió nhẹ.

Những băng rôn quảng cáo cho biết tối nay nhà hát trình diễn vở Romeo và Juliet. Tôi liếc nhìn tòa nhà hát chưa bị hỏa hoạn với một thoáng ghen tị, sau đó rảo bước đi vòng qua thính phòng, băng qua rặng cây vân sam cao. Màn đem đã phủ đày dưới những tán cây và thoạt đầu tôi không thể nhìn thấy gì trong bóng tối. Nhưng tôi có thể nghe tiếng cười vang lên phía trên đầu. Khi đi ra khỏi rặng cây, chúng tôi nhìn thấy một đám đông đang đứng chật một khoảng sân cỏ rộng ở phía xa của nhà hát. Người ta ngồi trên các băng ghế, ngồi bệt trên cỏ; một số thậm chí còn trèo lên cây. Vừa nhai kẹo hay bánh ngọt, họ vừa theo dõi mê mải khi một nhóm diễn viên sôi nổi mặc đồ màu xanh lục cười rộn rã trình diễn vở kịch vui ngắn về Julius Sneezer, một chiếc khăn tay bị mất, và Brute, một cái đầu đang bị cảm lạnh. Không để ý gì đến vở diễn, những cô gái trẻ mặc váy dài và áo có dây buộc sải bước giữa đám đông, mang theo những chiếc giỏ to đựng đồ ăn và rao lớn: “Bánh nướng nóng đây!” và “Hãy mua kẹo cho người yêu của bạn!”

Vở hài kịch ngắn đã đến hồi kết vui nhộn. Đón nhận những tràng vỗ tay và huýt sáo, các diễn viên bắt đầu một điệu nhảy. Một cây kèn trumpet vang lên từ phía sau, và đoàn diễn viên vừa chạy vừa nhảy qua những hàng cây, không lỡ một nhịp nhạc nào, rồi biến mất vào trong cánh cổng đang mở rộng của nhà hát. Đám đông khán giả đứng dậy theo sau.

Chỉ sau vài phút, chỉ còn chúng tôi đứng giữa bãi cỏ trong bóng tối. Tôi chỉ tay về phía ngôi nhà nhỏ nằm bên kia một thung lũng nhỏ mọc đầy cỏ. Đó là một ngôi nhà theo kiểu Tudor nguyên thủy chứ không phải Tudor Revival, một bản sao chính xác nơi Shakespeare ra đời tại Stratford-on-Avon, chính xác cho tới tận màu của tường và mái rạ. “Nó đấy!” tôi nói với Ben. “Văn khố”.

Ngôi nhà còn đẹp hơn tôi nhớ. Những bậc đá được đặt từ ngôi nhà xuống thung lũng, chạy ngang một chiếc ao nhỏ với những cây liễu rũ xuống ven bờ. Những thứ này trước đây chưa có. Cũng như những bông hoa vẫn còn có thể loáng thoáng nhận ra trong bóng đêm, luống hoa được sắp xếp theo kiểu những khu vườn bao quanh các ngôi nhà đồng quê ở nước Anh, mặc dù những loại cây được trồng đều là những loài đặc trưng của vùng miền tây Rocky Mountain - columbine, diễm thảo, phi yến. Ở mép ao, tôi thoáng thấy bóng một con cá chép koi màu vàng quẫy nước, huyền ảo như một nàng tiên cá, và tôi dừng lại.

Tôi đã luôn nóng lòng muốn chạy tới ngôi nhà nhỏ đang nằm trước mặt từ lúc tôi hình dung ra nó từ những hồi ức khi còn ở cách nơi này hai ngàn năm trăm dặm về phía đông, giữa những giá sách của cửa hàng Harvard Book Store. Nhưng lúc này, bất chợt tôi lại cảm thấy miễn cưỡng không muốn bước tiếp. Nếu tôi đứng lại đây, rất có thể câu trả lời tôi muốn tìm đang nằm ngay sau cánh cửa gỗ sồi nặng nề chỉ còn cách tôi một bãi cỏ. Nếu tôi bước vào, rất có thể tôi sẽ biết chắc nó không có ở đó.

Trong lúc tôi đứng bần thần, mặt trăng từ từ nhô lên trên mái rạ. Phía sau lưng, sự im lặng bao trùm lên nhà hát.

Tôi không biết mình đang chờ đợi điều gì. Có thể là một hồi kèn trumpet nữa. Điều thực sự xảy ra đơn giản hơn nhiều. Cánh cửa dẫn vào ngôi nhà mở ra, một người phụ nữ xuất hiện, mái tóc dài đen óng ánh dưới ánh trăng. Người phụ nữ quay lưng lại chúng tôi khi cô tra chìa vào ổ khóa, nhưng tôi có thể thấy nước da của cô có màu nâu đỏ như đất của vùng Utah.

“Ya’at’eeh,” tôi khẽ nói. Đây là từ tiếng Navajo ít ỏi tôi còn nhớ: Xin chào.

Người phụ nữ sững người giây lát rồi quay lại. Mang trong mình một nửa dòng máu Navajo và một nửa Paiute, Maxine Tom là một phụ nữ xinh đẹp, với đôi gò má cao và khuôn miệng luôn tươi cười. Mặc chiếc váy sáng màu, áo bó sát có khóa kéo duyên dáng và đôi giày đế mềm rất hợp mốt, cô có vẻ ngoài hoàn toàn hòa đồng với bất cứ nơi nào trong số những địa điểm sành điệu nhất ở Manhattan vào tuần đó, nhưng cô luôn cảm thấy lạc lõng ở bất cứ đâu ngoài nơi này, nơi có sự giao thoa kì lạ giữa Shakespeare và hoang mạc vùng tây nam.

Maxine dường như luôn mang theo vô số những giao hòa kì lạ theo mình tới bất cứ nơi nào. Tôi gặp Maxine khi cô đang học năm cuối ở Harvard còn tôi mới bắt đầu năm thứ nhất. Tôi đã coi cô là hiện thân của tất cả những gì đáng gọi là xuất sắc, và tôi không phải là người duy nhất. Những lời đề nghị làm việc tới tấp đến với cô với một cường độ khó tin, nếu tính đến thực tế là những công việc đó có liên quan đến Shakespeare thường rất hiếm. Từ cơn mưa những lời chào mời đó, cô đã lựa chọn công việc mình muốn: trợ giảng Anh văn và giám đốc một thư viện văn khố nhỏ nằm giữa những ngọn núi đỏ và những cây bách xù của miền cao nguyên hoang mạc vùng Utah.

Roz đã rất không vui. Tôi đang làm việc ngay bên ngoài văn phòng của bà khi Maxine đến báo tin. Sau một thoáng yên lặng nặng nề, tôi nghe thấy Roz nói: “Cô có thể tới Yale hay Stanford. Tại sao lại lãng phí bản thân mình ở miền nam Utah?”

Nhưng miền nam Utah là tất cả những gì Maxine mong muốn. Cô thường nói cô thuộc về nơi này, hay ít nhất là nơi gần nhất có thể với những người đồng bào Paiute của cha cô ở ngay phía nam thành phố, và những người cùng dòng máu với mẹ cô ở Dinetah - vùng đất dành cho người Navajo - trong khi vẫn có thể làm việc suốt ngày với Shakespeare và các sinh viên, trong số đó có cả những người gốc Indian. Sau đó, cánh cửa đã đóng sập lại, và tôi không nghe được gì thêm. Một sự im lặng chẳng lành, giống như sự yên lặng của những con chim trước một cơn bão. Khi ra đi, Maxine đã ném lại cho tôi một lời khuyên giống như những đồng xu được vãi ra trong lễ cưới, mặc dù nụ cười của cô không giấu được vẻ buồn rầu: Đừng để họ thuyết phục cô đánh mất đi linh hồn của chính mình .

Giờ đây cô nhìn lên, đôi mắt mở tô ngạc nhiên. “Kate Stanley!” cô khẽ nói.

Tiếng hò reo vang lên từ trong nhà hát, tiếp theo là tiếng đao kiếm chạm nhau: đôi mắt cô liếc nhìn về hướng đó. “Vào trong này đi,” cô nói. Sau đó Maxine quay lại, mở cánh cửa cô vừa mới khóa rồi bước vào trong. “Tôi đang đợi cô,” cô nói trong khi biến mất vào bóng tối phía trong ngôi nhà.

Đến ngưỡng cửa, tôi chợt do dự. Đợi? Ai đã báo cho cô biết tôi sẽ tới?

Tôi liesc nhìn Ben và thấy anh ta thản nhiên nhét khẩu súng của mình vào túi.

Hít một hơi thật sâu, tôi theo sau cô vào trong nhà.