← Quay lại trang sách

Chương 20

Tôi bước vào trong nhà đứng ngay sát ngưỡng cửa, cảm thấy Ben đang căng thẳng đứng bên cạnh. “Ai báo với chị là tôi sẽ đến?”

“Roz,” tiếng Maxine vang lên trong bóng tối. “Thế cô nghĩ là ai?” Cô bật công tắc và ánh sáng vàng ấm áp tràn ngập bên trong căn nhà. “Nếu cô muốn sử dụng văn khố, cô sẽ phải tới đây”.

Tôi bước thêm vài bước. Ben vẫn đứng im.

Maxine bước đến lần lượt mở những ô cửa sổ có khung hình quả trám ra, và mùi thơm của hoa hồng thoang thoảng bay vào. “Có chuyện gì vậy, Kate?”.

“Chỉ làm một vài nghiên cứu thôi mà”.

Cô quay lại, đứng ngay trước một khung cửa sổ, quan sát tôi mà như không phải vậy, theo cách của người Navajo. “Roz đến gặp cô ở nhà hát Quả cầu và bị chết ở đó trong khi nhà hát bị cháy cùng với bản Tuyển tập của mình - vào đúng ngày 29 tháng Sáu, không sớm không muộn hơn. Thứ ba, ngày 29 tháng Sáu”. Cô tựa người vào bậu cửa sổ, hai chân bắt chéo. “Hai đêm sau đó, cô xuất hiện ở đây, đúng điều như bà muốn cô làm. Trước đó, bản Tuyển tập của trường Harvrd cũng cháy thành than”. Cô nhìn thẳng vào mắt tôi. “Cả giới nghiên cứu về Shakespeare đang rung chuyển vì những vụ cháy đó, Kate. Tôi phải có đến cả trăm emali trong hộp thư tới của mình. Và cô ‘chỉ làm một vài nghiên cứu’?”

Tôi cau mặt. “Tốt hơn chị không nên hỏi những câu hỏi tôi không thể trả lời được”.

“Tôi phải hỏi một câu. Cô bật đứng dậy khỏi bậu cửa. “Cô đang làm việc cho Roz hay chống lại bà?”

Tôi chợt cảm thấy chiếc trâm nặng trĩu trên cổ. “Cho bà ấy”.

Cô gật đầu. “Thế thì được. Cô biết nơi này hoạt động như thế nào. Nếu cần giúp gì cứ cho tôi biết”.

Tôi nhìn quanh. Căn phòng tiện nghi hơn nhiều so với trong trí nhớ của tôi. Những chiếc bàn rộng kê tải rác trên sàn nhà lát đá phiến vẫn như trước, nhưng xung quanh chúng đã có thêm những chiếc ghế bành sâu và những bát hoa bằng bạc. Dọc tường vẫn kê những tủ gỗ sồi đựng thẻ tra cứu.

Maxine đưa mắt về phía bàn làm việc chính, tấm biển đồng trên đó có dòng chữ Văn khố Athenaide D. Preston về Shakespeare ở miền Tây, Đại học nam Utah . “Chúng tôi có chủ nhân mới.” Maxine giải thích. Tôi đã nghe loáng thoáng về bà Preston. Một nhà sưu tầm lập dị, không phải một học giả. Người ta kể bà ta còn giàu có hơn cả vua Midas.

Tôi đến bên tủ đựng các thẻ tra cứu. Có một tủ cho các tra cứu về tên người, một cho tên địa danh, và cả một tủ về các buổi trình diễn, một tủ nữa dành cho các mục tìm kiếm khác. Tôi đi thẳng tới tủ đựng thẻ tra cứu “Tên người”, tới ô kéo “Gl-Gy”.

Goodnight, Charles, chủ trại (đọc Shakespeare cho những người chăn bò của mình).

Grant, Ulysse S.,Tướng và Tổng thống (diễn vai Desdemona ở Texas khi còn là trung úy).

Cổ họng tôi nghẹn lại, tôi lạt sang thẻ tiếp theo.

Granville, Jeremy, người tìm vàng và con bạc (diễn vai Hamlet ở Tombstone tại nhà hát Birdcage, tháng Năm năm 1881).

Hamlet! Ông ta đã diễn Hamlet! Đột nhiên, Granville trở nên gần gũi, gần gũi đến mức như thể nếu quay đầu lại thật nhanh tôi có thể thoáng nhìn thấy ông ta đứng sau lưng mình, mơ hồ và mờ ảo, như một khuôn mặt hiện ra trong một phép màu, nhưng thực sự đang có mặt ở đó.

Tôi quay lại, nhưng không nhìn thấy gì ngoài những ô cửa sổ mở ra phía nhà hát ở bên kia bãi cỏ.

Bên cạnh bàn, Ben đang trò chuyện với Maxine bằng giọng thì thào khe khẽ của những người muốn trao đổi điều gì trong thư viện. Cô bật cười, một tràng cười giòn tan hoàn toàn chẳng có chút gì thư viện cả. Có vẻ khá thân mật, nhưng tôi có thể thấy ngay trong khi Maxine đang cười, Ben vẫn quan sát cửa ra vào và các cửa sổ, đồng thời luôn để mắt đến Maxine.

Nhấc chiếc thẻ của Granville khỏi ô kéo, tôi lấy một tờ “mượn ra” màu hồng cài vào thẻ. Hamlet . Hẳn đó là chi tiết đầu tiên khiến Roz chú ý đến Granville. Nhưng từ đó bà đã đi tiếp tới đâu? Tôi nhìn xuống tấm thẻ.

Biểu diễn ở New Mexico và Arizona, từ khoảng 1870-1881. Ở vùng mỏ thuộc Arizona: Cordelia, Ophelia, Hoàng tử Maroc, Timon thành Athens; ở New Mexico: Cleopatra, Winking Cupid.

Đúng là Granville không lại gì Shakespeare: Cordelia, Ophelia, và Cleopatra là những tên nhân vật khá rõ ràng trong kịch Shakespeare, được những người đào vàng khắp miền Tây ưa thích. Nhưng tôi không hiểu vì sao ông ta chọn vai Timon - cho tới nay có thể đoán Shakespeare đang ở trong tâm trạng rõ ràng là bực bội khi ông viết vở kịch đó, và kết quả là chẳng ai chọn đọc nó trước đám đông cả. Còn về “Winking Cupid”, có vẻ không gợi lên điều gì rõ rệt liên quan tới Shakespeare, nhưng tôi cần phải kiểm tra để chắc chắn. Tôi thực sự để ý nhất tới hoàng tử Maroc, không phải vì có gì khó hiểu, mà chính là từ sự có mặt của nhân vật này trong danh sách được dẫn ra.

Trong Người lái buôn thành Venice , hoàng tử Maroc phải lựa chọn một trong ba chiếc hộp bằng vàng, bạc và chì. Nếu anh ta mở được chiếc hộp có chân dung của nhân vật chính, anh ta sẽ được quyền thành hôn với nàng. Vị hoàng tử đã chọn chiếc hộp vàng, để rồi thấy nó rỗng tuếch với một lời nhắn châm biếm: “Cái gì lấp lánh cũng không phải là vàng”. Đây cũng là câu thoại mà Granville đã cải biến đi đôi chút trong bức thư gửi giáo sư Child. Arizona và New Mexico không phải là những vùng của cuộc đổ xô đi tìm vàng, nhưng tôi đã đúng. Ý nghĩ đến vàng không phải chỉ thoáng qua trong tâm tưởng của quý ông Granville.

Tấm thẻ dẫn ra tham khảo một số thông báo trong Tomstone Epitaph . Dòng cuối cùng ghi: tưởng niệm: Tomstone Epitaph , 20 tháng Tám năm 1881 .

Vậy là bức thư gửi giáo sư Child phải được viết trước thời điểm này.

“Tìm thấy thứ cô cần chưa?” Maxine hỏi làm tôi giật nảy mình. Cả cô và Ben đều đang đứng sau lưng tôi. Thật là quan tâm quá mức.

“Hẳn rồi”, tôi ghi lại ngày tháng của thông báo đó vào một tờ yêu cầu tìm kiếm trong tờ Epitaph. Maxine biến mất vào một căn phòng phía sau rồi quay ra mang theo hai chiếc hộp đựng vi phim, lần lượt có ghi nhãn “Tháng Một - Tháng Sáu năm 1881” và Tháng Bảy - Tháng Mười hai” cùng năm. Tôi cầm lấy chiếc hộp có ghi “Thánh Bảy - Tháng Mười hai” đưa cho Ben. “Anh đã đọc vi phim bao giờ kia?”

“Phải thú thực là không hay gặp lắm trong công việc của tôi”.

“Thế thì cơ hội đây”. Có hai chiếc máy đọc vi phim. Tôi hướng dẫn anh ta cách lắp cuộn vi phim vào máy đọc và bật đèn lên. “Buổi tưởng niệm Granville nằm đâu đó trong số báo ngày 20 tháng Tám năm 1881”.

Trong lúc đó, tôi đi tìm những bài báo nhó về sự khởi đầu của ông ta trong vai Hamlet. Những trang báo vùn vụt lướt qua khi tôi tua nhanh tới tháng Năm sau đó chậm dần lại. Đây rồi:

MỘT VỤ CÁ CƯỢC THÚ VỊ - Sáng nay chúng tôi được biết một người đàn ông trong thị trấn chúng ta, vốn rất quen thuộc trong các cuộc đỏ đen, sẽ trình diễn trên sân khấu lần đầu tiên trong vai Hamlet vào tối thứ Bảy tuần sau tại nhà hát Bird Cage. Quý ông này thực hiện vai diễn trên theo một cuộc cá cược lớn tới một trăm đô la với lời thách thức rằng ông sẽ không thể học thuộc lời thoại của vai diễn (một trong những vai lớn nhất của vở diễn) trong vòng ba ngày. Người ta nói rằng việc tập vai diễn sẽ bắt đầu chiều nay tại một phòng khách có tiếng tăm. Hãy chờ đợi một sự kiện thú vị.

Bài báo không nói rõ tên Granville, nhưng đã ám chỉ ông ta là một tay cờ bạc, và không phải chỉ đỏ đen nhỏ lẻ. Một trăm đô la hẳn phải là một khoản không nhỏ vào năm 1881, ít nhất cũng phải ngang với hàng ngàn, thậm chí hàng chục ngàn đô la thời này. Nhưng điều làm tôi chú ý còn hơn cả khoản tiền đó là thời hạn ba ngày. Hamlet là vai diễn có lời thoại dài nhất và cũng khó nhất trong tất cả các vai kịch của Shakespeare. Phần lớn diễn viên chuyên nghiệp mà tôi biết không thể học thuộc được vai diễn này trong vòng ba ngày. Muốn làm được điều này phải là một người biết rõ Shakespeare, đã quen thuộc với nhịp điệu và âm hưởng ngôn ngữ của nhân vật. Một người vốn đã có khả năng của một người kể chuyện có tài, và một chút gì đó của một… Hoặc là vậy, hoặc là một bộ nhớ tuyệt luân với từ ngữ.

Tôi bấm nút “copy” và chiếc máy rù rù hoạt động.

Tiếng người hò reo vọng vào qua cửa sổ, tiếp theo là tiếng đao kiếm va nhau loảng xoảng. Mercutio và Tybalt hẳn đang giao tranh trên sân khấu, có nghĩa là cả hai đều sắp chết. Tôi cố tập trung chú ý vào màn hình, tiếp tục cho cuộn vi phim chạy đi.

Trong ba ngày tiếp theo, tờ báo đăng những bản tin ngắn về tiến triển của Granville dưới những con mắt hiếu kì ngày càng tăng lên của cư dân thị trấn trong phòng khách của quý cô Marie-Pearl Dumont, tại dinh thự riêng của cô có tên Versaille. Có vẻ ông ta đã tập vai diễn tại một nhà thổ Pháp.

Cuối cùng tôi tìm thấy bài bình luận với ngôn ngữ trang nhã đáng ngạc nhiên của tờ báo được phát hành tại một trong những thành phố bạo lực vô chính phủ nhất trong lịch sử miền tây Hoa Kì.

Nhà hát Bird Cage - Màn trình diễn của J. Granville trong vở Hamlet tại nhà hát vào tối thứ Bảy vừa qua là một màn trình diễn đáng ca ngợi mà thị trấn chúng ta có thể tự hào. Không những không làm hỏng mất những dòng cảm xúc mãnh liệt của chàng hoàng tử Đan Mạch, ông đã thể hiện chúng với sự nhuần nhuyễn đáng khâm phục. Đúng là caviar, vâng, là cả champagne nữa, nhưng với hương vị mà đông đảo công chúng có thể thưởng thức. Dưới sự trình diễn của Granville, người hùng của vở kịch không phải là một bông hoa huệ ủ rũ vẫn thường thấy ở các bang miền đông, mà là một tâm hồn mạnh mẽ khiến cả những người khó tính nhất trong khán giả vùng Arizona cũng tán thưởng. Với học vấn và sự luyện tập, tất cả chúng ta đều tin Granville có thể trở thành một diễn viên lớn, nhưng chúng tôi cho rằng ông thích quan sát và cầu nguyện hơn.

Tôi cũng copy lại cả trang này. Quan sát và cầu nguyện. Liệu Granville bên cạnh là một con bạc, một tay đào vàng còn là một kẻ bịp bợm nữa? Tôi cảm thấy khó tin. Liệu ông ta có lừa Child về bản thảo nọ, và qua đó lừa cả Roz và tôi?

“Tôi đã tìm thấy cáo phó,” Ben nói.

“Copy lại đi,” tôi nói, quay sang nhìn qua vai anh ta.

Nhà hát Bird Cage - Thứ Bảy vừa qua, bạn hữu và những người hâm mộ Jereny Granville, một người đã từng sống ở thị trấn chúng ta, đã tài trợ cho đoàn kịch của ông Macready thực hiện một buổi trình diễn Hamlet để tưởng niệm Granville. Ông này đã rời thị trấn cách đấy hai tháng, dự định vắng mặt trong một tuần, nhưng từ đó tới nay không có tin tức gì. Những tin đồn về một mạch vàng đã làm nhiều bạn hữu cũ mới tìm kiếm ông khắp sa mạc, nhưng đều vô hiệu.

Theo những người thân nhất với ông ta, Granville không phải là một người quá quan tâm đến tang lễ, cho dù ông ý thức được mình có thể đang đi tìm cái chết khi rời khỏi thị trấn đi theo một hướng không rõ, nhất là với những người Apache đang muốn gây chiến. Chúng tôi không lặp lại ở đây bản chất chính xác bản đề nghị của ông, nhưng đại thể trong đó có nói rõ ràng tất cả những từ ngữ một ngày nào đso được sử dụng để tưởng nhớ hay vĩnh biệt ông phải từ những tác phẩm của Shakespeare, và được một diễn viên diễn xuất chứ không sử dụng những bài trong sách cầu nguyện do một tu sĩ đọc. Về điểm này, bằng hữu của ông nghĩ tốt nhất là làm theo ý nguyện của ông. Theo nhận xét chung, đoàn kịch của ông Macready đã dành cho ông một sự tưởng niệm tuyệt vời đến mức có lẽ điều tiếc nuối lớn nhất của ông Granville sẽ là việc đã lỡ mất buổi trình diễn.

“Hãy nhìn ngày tháng này.” Ben lắc đầu nói. “Hai tháng trước vụ đọ súng ở OK Corral. Quả là một cách để làm mình bị quên lãng, tin đồn về mỏ vàng và tất cả những chuyện khác”.

“Tombstone nằm ở vùng mỏ bạc, không phải là vùng khai thác vàng, và những người khôn ngoan hơn xung quanh ông ta hẳn biết điều đó. Nếu thực sự có khả năng có một mạch vàng nằm đâu đó quanh nơi này thì lời đồn đã không chìm xuống nhanh như thế, cho dù có OK Corral hay không… Tôi không nghĩ vàng của ông ta là vàng theo nghĩa đen”.

Đôi mắt anh ta sáng lên. “Vậy cô cho rằng đó là nghĩa bóng?”

“Ông ta đã chuyển Tất cả những thứ lấp lánh đều không phải là vàng thành Không phải những gì là vàng đều lấp lánh. Tôi dám cược ông ta biết chính xác thứ mình tìm thấy trong bản thảo và đã có một số ý tưởng về giá trị của nó… Nếu thứ này không phải là tưởng tượng”. Tôi cho anh xem bài báo có đoạn “quan sát và cầu nguyện”.

Ben lắc đầu. “Nếu ông ta muốn bịp Child, tại sao lại bỏ đi trước khi tiếp cận được giáo sư? Không thể có chuyện đó sau khi đã giăng bẫy kì công đến vậy. Tôi nghĩ bản thảo này có thật. Vậy câu hỏi ở đây là chuyện gì đã xảy ra với nó?”

Tôi lắc đầu. “Theo các tài liệu, mùa hè năm đó những vụ tấn công của người Apache tăng vọt. Rất có thể họ đã giết ông ta, mà cũng có thể là đám Clanton hay đám cướp Mexico. Nếu ông ta chỉ lộ ra chút phong phanh về một mạch vàng, rất có thể có đến ba phần tư cư dân thị trấn sẽ kéo theo sau lưng ông ta. Nếu ông ta đã chết trên đường tới “nơi đó”, cho dù “nơi đó” ở đâu, chứ không phải trên đường quay về thì có thể coi như chúng ta gặp may, vì có khả năng bản thảo vẫn còn nguyên ở chỗ ông ta tìm thấy nó”.

“Cô nghĩ chúng ta có thể lần ra dấu vết của ông ta trong khi bạn bè của ông ta đã không thể làm được điều đó?”

“Roz nghĩ bà có thể”.

“Tombstone cách đây bao xa?”

“Năm trăm dặm Anh. Có thể là sáu trăm”.

Anh ta cau mày. “Kate, chúng ta cần thức ăn trước khi thử làm một cuộc hành trình kiểu này”.

“Có một cửa hàng bán sandwich cách đây hai khối nhà. Tên là Pastry Pub. Tới Utah hãy yên tâm với một cửa hàng Ireland bán sandwich bất kể giờ nào. Anh đi mua đồ ăn, và tôi sẽ kết thúc việc tìm kiếm ở đây - vẫn còn một tài liệu tham khảo nữa ở phía cuối mà tôi muốn kiểm tra”.

Anh ta ngần ngừ.

“Đi đi”. Tôi bước đến gần cửa. “Tôi tin Maxine, và không còn ai biết chúng ta ở đây. Anh cứ đi đi. Chúng ta sẽ có một sự khởi đầu mới nữa”.

Anh ta đứng lên. “Vậy tôi quay lại sau mười phút nữa. Đợi tôi ở đây”.

Ben đi ra ngoài, còn tôi lại lấy tấm thẻ của Granville trong tủ tra cứu ra, lấy một tờ “mượn ra” màu hồng được cài vào thẻ, rồi đưa cả chiếc thẻ cho Maxine.

“Granville à?” cô nói, rời mắt khỏi màn hình máy tính nhìn lên tấm thẻ.

Tôi chỉ xuống dòng dưới cùng: Ảnh 23.1875; PE: PC 437. “Hình như ở đây có một tấm ảnh. Tôi có thể xem nó được không?”

“Đơn giản thôi”. Cô đi đến bên một giá sách có ghi “Những người bạn của thư viện”. Lấy một cuốn sách từ trên giá, cô đặt nó vào tay tôi. Cuốn sách của Roz.

“Vâng, Jeremy Granville,” cô chỉ tay vào bức ảnh trên bìa sách, bức ảnh một người đàn ông đội mũ cao bồi, hai tay đang cầm cái sọ người. Lật bìa sách, cô chỉ vào phần chú thích nguồn gốc được in đúng vào chỗ vạt trong chiếc áo jacket bụi bặm người đàn ông trong ảnh đang mặc: “Ảnh chụp Jeremy Granville trong vai Hamlet, Tombstone, Arizona, 1881. Do Văn khố Shakespeare Utah, Đại học nam Utah cung cấp”.

“Đó là tên gọi trước khi chúng tôi có tên mới hiện nay” cô giải thích.

Tôi nhìn kĩ khuôn mặt nằm dưới chiếc mũ cao bồi. Khoảng ngoài bốn mươi tuổi, tôi đoán. Một nghệ sĩ nào đó đã tô màu bức ảnh, cho ông ta bộ râu quai nón màu hoe và hai gò máu hồng đào. Nhưng đôi mắt trầm tư và khuôn miệng hơi mệt mỏi hoàn toàn là của Granville.

Maxine nhìn lại phần chú dẫn trên thẻ. “PE nghĩa là Tài sản cá nhân . Quần áo, đồng hồ, sách, giấy tờ. Ông ta là một nghệ sĩ; rất có thể còn có một hai áp phích quảng cáo cho các vở diễn có ông tham gia. Và rất nhiều người đào vàng có bản đồ”.

Dường như có ai đó vừa đột ngột rút hết dưỡng khí trong căn phòng. “Bản đồ?”

“PC có nghĩa là ‘Sưu tập tư nhân’. Tôi có thể gọi điện cho chủ nhân vào ngày mai, nếu cô muốn”.

“ Ngay tối nay ,” tôi nói. “Xin chị đấy”.

Maxine thở dài. Cầm lấy tấm thẻ từ tay tôi, cô gõ từ khóa vào máy tính. Vừa nhìn vào màn hình, cô vừa với lấy điện thoại. “Tôi là giáo sư Maxine Tom, từ Văn khố Preston. Tôi rất xin lỗi đã làm phiền bà muộn thế này, nhưng tôi có một đề nghị yêu cầu được xem bộ sưu tập về Granville. Một việc khá gấp”. Cô ngừng lại. “Vâng, tôi hiểu. Vâng. Vâng. Không. Tuyệt quá. Vâng, cảm ơn bà. Xin bà cho gửi lời chào ông Jimenez”.

Cô đặt ống nghe xuống.

“Tôi có thể xem bộ sưu tập được không?”.

“Không”. Cô cau mày nhìn chiếc điện thoại.

“Tại sao?”.

“Họ bán nó rồi”.

Tôi rủa thầm. “Bán cho ai?”

“Athenaide Preston. Đừng nói với tôi là cô muốn tôi gọi cho cả bà ta nữa.”

“Tôi xin chị, Maxine,” tôi nài nỉ. “Vì Roz”.

“Được” cô nói. “Tôi sẽ gọi cho bà ta vì Roz. Nhưng cô sẽ là người mang nợ tôi”. Tôi nghe tiếng đường dây được nối, sau đó là tiếng nhận máy trả lời ở đầu bên kia.

“Xin chào, bà Preston phải không ạ? Tôi là giáo sư Maxine Tom, từ Văn khố”.

Giọng nói ở đầu bên kia vang lên the thé, nhưng tôi không luận ra được là đang nói gì, nhất là Maxine che ống nghe lại và lừ mắt nhìn tôi. Sau đó cô trả lời điện thoại.

“Vâng, thứ bà. Tôi xin lỗi vì đã gọi muộn như vậy, nhưng ở đây có người muốn xem bộ sưu tập về Granville. Bà Jimenez nói đã bán nó cho bà ba ngày trước - tôi có thể đảm bảo về người này; chúng tôi đã học cùng nhau ở đại học. Tên cô ấy là Katharine Stanley. Vâng, thưa bà. Cô ấy đang ở đây. Đang đứng ngay trước mặt tôi. Không, thưa bà. Tất nhiên. Tôi sẽ cho cô ấy biết. Cảm ơn bà rất nhiều. Chúc bà ngủ ngon”.

Maxine dập mạnh điện thoại xuống. “Hi vọng cô đánh giá cao những vết răng còn hằn trên tai tôi” cô nhìn tôi với vẻ giễu cợt. “Bà ta đã đùng đùng lên cơn điên cho tới khi nghe thấy tên cô. Nói là biết các nghiên cứu của cô và chấp nhận tiếp cô. Nhưng cô phải có mặt ở chỗ bà ta lúc bảy giờ sáng. Bà ta sẽ đi vắng lúc chín giờ”.

“Bà ấy sống ở đâu?”

“Bà ta sở hữu cả một thị trấn. Một thị trấn ma, nhưng dù sao bà ta vẫn là chủ của thị trấn chết tiệt đó. Ở New Mexico, bên ngoài thành phố Lordburg xinh đẹp. Có tên là Shakespeare”.

Tôi sững người.

“Lái xe vòng vèo khắp vùng cho Roz từng ấy thời gian mà cô không biết điều đó?”

“Tôi chỉ có một tháng. Khi tôi rời khỏi đây chúng tôi mới chỉ kịp lướt qua sơ sơ”.

“Nó được ghi lại trong cuốn sách mà”.

Tôi ngây người nhìn cô.

“Cô chưa đọc cuốn sách đó đúng không?” Cô vươn người qua bàn lật giở cuốn sách tôi đang cầm, lần này lướt qua trang có in tựa sách, tới một trang hầu như bỏ trắng.

Tặng Kate , tôi đọc. Và ngay dưới đó, có một dòng nữa, in nghiêng. Tất cả những người con gái của tôi .

Tôi nín thở nhì chăm chăm vào dòng chữ đó.

Maxine nhìn tôi thương hại. “Giận dữ hay hối hận?”.

“Cả hai” tôi thì thầm.

“Hãy để quá khứ qua đi, Kate. Hãy để Roz yên nghỉ”.

Tôi nhìn vào đôi mắt cô. “Tôi không thể. Chưa thể”.

Cô lắc đầu. “Cô muốn gặp bà Preston thì tốt hơn chuẩn bị lên đường đi. Shakespeare cách đây mười một giờ chạy xe, nếu cô tuân thủ giới hạn tốc độ, và bây giờ cô chỉ còn chín giờ rưỡi nữa - một sự trái khoáy mà tôi chắc chắn bà Preston biết rõ. Tôi nghĩ đây là một thử thách xem cô cần thứ mà cô đang theo đuổi, cho dù đó là thứ gì, đến mức nào”.

Cô giở một tấm bản đồ ra và chỉ đường cho tôi: một con đường dài, hình chữ J xoay ngược chạy xuống dọc Arizona rồi lượn vòng về phía đông tại Tucson để chạy sang New Mexico. “Bây giờ nếu cô không phiền tôi muốn về nhà. Tôi có một đứa con trai nhỏ thích được nghe mẹ kể chuyện trước khi đi ngủ”.

Tôi gật đầu liền hai cái. “Đúng rồi. Tôi quên khuấy mất”.

“Cũng muộn rồi” cô nhje giọng nói.

Cô liếc nhìn đồng hồ. Theo lời hẹn Ben sắp quay lại bất cứ lúc nào. Chắc tôi sẽ gặp anh ta trên đường ra xe. Tôi miễn cưỡng sắp xếp những bản copy của mình lại. Maxine dứt khoát không nhận tiền, tôi đành đi ra cửa. “Cảm ơn” tôi lúng túng nói.

“Cẩn thận, Kate” Maxine nói.

Ra ngoài, tôi bước xuống thung lũng nhỏ tối đen, quay lại phía nhà hát và bãi đỗ xe phía sau. Tôi tới lối đi dẫn vòng qua nhà hát tới bãi đỗ xe và dừng lại một lát, nghe ngóng, nhưng tôi chỉ nghe thấy tiếng thì thầm khe khẽ. Rất có thể đang đến đoạn Romeo và Juliet thức giấc và nhớ ra họ phải chia tay. hoặc Juliet đang uống thuốc độc giúp nàng giả chết.

Tôi bước ba bước xuống theo lối đi thì nghe thấy có tiếng sột soạt từ phía hàng cây dưới thung lũng sau lưng. Tôi ngoái lại nhìn. Những khung cửa sổ thư viện đã tối om; những dải mây mỏng chậm chạp trôi qua mặt trăng làm những ô kính hình quả trám lóe lên từng vệt sáng uốn lượn như da rắn. Dưới rặng liễu, mặt ao đen sẫm tối om. Tôi đứng im, cố gắng tìm xem tiếng động phát ra từ đâu.

Ở đâu đó phía dưới, tôi cảm thấy những con mắt hung tợn đang theo dõi tôi. Tôi quay lại lối đi dẫn ra xe, hi vọng thấy Ben đang quay về tìm toi. Và tôi lại nghe thấy đúng âm thanh đã làm tôi kinh hãi bên bờ sông Thames: tiếng lưỡi dao được rút ra khỏi vỏ.

Tôi vùng chạy, băng qua lùm cây vân sa, cho tới khi lao vào vùng ánh sáng chiếu ra từ bãi đỗ xe. Không thấy Ben đâu. tôi chạy tới chiếc xe, nhưng cửa xe đã bị khóa.

Tôi nhìn lại phía sau. Một người đàn ông xuất hiện trong vùng ánh sáng và bắt đầu chạy về phía tôi.

Tôi chạy vòng ra phía sau xe để nấp. Rồi đèn xe bật sáng, và tôi nghe thấy tiếng cửa xe được mở khóa - và tôi nhận ra người đàn ông vừa chạy tới chính là Ben, mang theo một chiếc túi và hai chiếc cốc giấy cao.

“Có chuyện gì thế?” anh ta hỏi.

“Tôi sẽ lái” tôi vừa thở hổn hển vừa mở cửa xe. “Lên xe đi”.