← Quay lại trang sách

Chương 21

“Tôi nghe thấy âm thanh đó” tôi nói khi chúng tôi lái xe về phía đông rời khỏi thành phố. “Nghe thấy hắn ta. Hắn rút dao ra”.

Ben dừng lấy sandwich ra khỏi túi, nhìn lên. “Cô chắc chứ? Họ đang đấu kiếm trên sân khấu, Kate”.

“Hắn ở đó” tôi nghiến chặt hai hàm răng lại. “Ở văn khố”.

Anh ta mời tôi một chiếc sandwich, nhưng tôi lắc đầu. Rất có thể với anh ta thức ăn cũng giống như giấc ngủ - chớp lấy bất cứ khi nào có cơ hội - nhưng đó là thứ cuối cùng tôi muốn lúc nà. Tôi im lặng lái xe đi trong khi anh ta ăn.

Con đường lượn vòng lên núi. Những cây bách xù và thông lùn những chỗ cho những cây thông, rồi những cây thông được thay thế bằng những hàng vân sam như những mũi tên đen sẫm chĩa lên trời. Rừng mỗi lúc một cao hơn, dày hơn, mọc sát hai bên rìa đường, còn con đường xa lộ ngoằn nghoèo như một dải ruy băng đen vẫn tiếp tục trườn lên cao hơn. Nhưng ngôi sao ló ra khỏi ngọn cây tỏa ra ánh sáng bàng bạc mờ mờ, nhưng con đường vẫn như một đường hầm xuyên qua màn đêm đen đặc. Khắp xung quanh chúng tôi, thế giới như dừng lại và vắng lặng lạ lùng, trừ những tiếng cành cây xào xạc, nhưng tôi vẫn không sao rũ bỏ được cảm giác bị theo dõi đang ám ảnh.

“Tôi nghĩ có lẽ hắn đang bám theo” tôi khẽ nói.

Vo viên giấy gói chiếc sandwich của mình lại, Ben quay người nhìn qua cửa sau. “Cô có thấy gì không?”

Đôi mắt anh ta dừng lại quan sat tôi một lát, rồi anh ta với tay tắt đèn pha. “Chúa ơi!” tôi thì thầm, nhấc chân khỏi bàn đạp gas.

“Tiếp tục giữ tốc độ” anh ta nói cụt lủn. “Bám lấy lằn giữa đường”.

Tháo dây an toàn, anh ta hạ cửa sổ bên mình xuống và lách nửa người trên ra ngoài. Anh ta ngồi trên ghế, đầu nhô lên sát những tán cây. Sau đó anh ta chui lại vào trong xe. Mùi vân sam lạnh buốt chen vào mùi cà phê ấm áp. “Ngoài kia chẳng có gì ngoài những cái cây”.

“Hắn đang ở ngoài đó” tôi khăng khăng.

“Có thể”. Anh ta cầm lấy cốc cà phê của mfinh, ấp hai tay vào sưởi cho ấm. “Linh tính đã cứu sống tôi hơn một lần rồi”.

Tôi đã mong anh ta bác bỏ thẳng thừng hay đùa cợt giễu tôi; vẻ nghiêm chỉnh của anh ta khiến tôi mất bình tĩnh. Mải nhìn vào gương chiếu hậu, suýt nữa tôi đã không kịp phát hiện một khúc cua trên đường; những chiếc lốp xe hơi rê trên mặt đường kếu rít lên khi tôi đánh lái đưa xe vòng qua khúc cua.

“Cô nghĩ sao nếu cô lái còn tôi quan sát?” anh ta đề nghị. Uống hết cốc cà phê, anh ta nhét chiếc cốc vào một túi giấy. “Cô thấy đói chưa?”

Khi tôi lắc đầu, anh ta cầm lấy cuốn sách của Chambers và bật một ngọn đèn đọc lên. “Hãy kể thêm cho tôi về Cordenia. Chambers viết có ai đó đã sửa lại và phóng tác”.

“ Hai sự dối trá ,” tôi gật đầu trả lời, thực sự biết ơn anh ta đã cho tôi thứ gì khác để nghĩ tới. “Vào khoảng những năm 1700”.

“Một ngàn bảy trăm hai mươi tám” anh ta đọc. “Cô biết gì về chuyện này không?”

“Không nhiều lắm” tôi nhấp một ngụm cà phê. “Đó là tác phẩm của một người có tên là Lewis Theobald, nổi tiếng trước hết do đã có mâu thuẫn với nhà thơ Alexander Pope. Theobald đã nói ấn bản Shakespeare của Pope chứa đầy lỗi - diều này thì đúng - và Pope đã phản kích lại nhằm vào một khía cạnh của con người Theobald, coi ông này là một kẻ mô phạm chán ngắt chẳng bao giờ nhận ra được một câu chuyện hay đang nằm ngay cạnh mình cho dù bản thân ông ta trải qua cả mười năm của cuộc chiến thành Troy - điều này cũng lại đúng. Pope viết cả một trường ca đả kích, Dunciad , trong đó gọi Thoebald là Vua của những kẻ đần độn ”.

Ben bật cười. “Ngòi bút mạnh hơn thanh kiếm?”

“Với Pope thì mạnh hơn cả một lữ đoàn thiết giáp. Cộng thêm một hay hai thiết giáp hạm thêm vào cho cán cân bớt chênh lệch”.

“Ông Pope này có vẻ không phải là một lựa chọn khôn ngoan khi tìm kiếm kẻ thù. Cô chưa bao giờ đọc vở kịch đó sao?”

“Chưa. Đó là một vở kịch rất hiếm. Tôi ước gì được biết từ trước để có thể tìm kiếm Internet khi chúng ta còn ở Harvard. Tôi nghĩ có thể tìm thấy trên mạng. Cộng đồng nghiên cứu về thế kỉ mười tám là một trong những người đầu tiên bắt đầu đưa mọi thứ họ chạm được tay vào lên web. Và cộng đồng nghiên cứu Shakespeare cũng không chậm chân hơn bao nhiêu”.

Ben soài người ra băng ghế sau và cầm lên một chiếc laptop.

“Anh nghĩ ở đây được phủ mạng không dây à?” Chúng tôi đi qua một khúc đèo, con đường co lại thành một dải hẹp bám lấy lưng chừng núi. Phía bên trái, rừng cây mọc cheo leo theo sườn dốc xuống phía chúng tôi từ một đỉnh núi cao trơ trụi. Bên phải, cây cối mọc gần như theo phương thẳng đứng. Chúng tôi vẫn tắt đèn pha; khắp xung quanh trong tầm nhin không có lấy một ánh đèn điện hay một đốm lửa. Ngoài con đường, không còn dấu vết gì chứng tỏ con người từng có mặt ở đây.

“Qua vệ tinh thì có đấy” Ben bấm vài phím, và chiếc laptop vang lên một giai điệu ngắn và sống dậy, tỏa ra trong xe quầng sáng xanh. Tôi nghe anh ta gõ thêm vài phím nữa, và quầng sáng chuyển từ xanh sang trắng khi một trang khác mở ra. “Hãy xem chúng ta có gì ở đấy” Ben nói. “Hai sự dối trá, hay Những người tình đau khổ ”. Anh ta gõ thêm vài phím nữa. “Cô muốn gì đầu tiên nào? Vở kịch, hay những thứ đã xuất hiện trước nó? Lời đề tặng, lời tựa của người biên soạn, vĩ thanh?”

“Lời tựa” tôi nói, hai tay bất giác nắm chặt vô lăng, hai mắt dán chặt vào lằn giữa đường sáng mờ mờ trong đêm.

“Xem ra vua Theobald đã phải thủ thế ngay khi vừa ra khỏi cổng. Nghe này: Thật khó tin nhưng người ta ngờ rằng một tác phẩm đáng xem như thế này đã bị che giấu và biến mất khỏi thế giới trong hơn một thế kỉ ”.

“Đến bây giờ thì là gần bốn thế kỉ” tôi nói.

Ben tiếp tục đọc lướt. “Này!” anh ta bất ngờ kêu lên khiến tôi giật mình. “Cô có biết Shakespeare có một cô con gái ngoài giá thú không?”

Tôi cau mày.

“Tôi coi câu trả lời là không” Ben nói.

“Một đứa con gái như vậy không có trong tư liệu”.

“Trừ khi cô coi đây cũng là một tư liệu”.

Tôi lắc đầu. Tôi đã bỏ ra hàng năm nghiên cứu về Shakespeare, và tôi chưa bao giờ thấy đề cập đến chuyện này.

“ Có một truyền thuyết ” anh ta đọc, “( mà tôi được biết từ con người cao quý đã cung cấp cho tôi một trong những bản thảo mà tôi có )”.

“Một?” tôi nghi ngờ hỏi lại. “Một trong những bản thảo mà ông ta có, số nhiều?”

“Ông ta tuyên bố có trong tay ba bản”.

Tôi khẽ cười trong khi Ben tiếp tục. “ Có một truyền thuyết (mà tôi được biết từ con người cao quý đã cung cấp cho tôi một trong những bản thảo mà tôi có) cho rằng vở kịch này đã được tác giả tặng cho một người con gái ngoài giá thú của ông như một món quà có giá trị khi ông rút lui khỏi sân khấu. Tại sao những đứa con ngoài giá thú lại bị coi là ‘con hoang’? Có thực những đứa con được coi là trong giá thú là ‘không hoang’ không? Có gì đáng buồn cười trong chuyện này cơ chứ? ”.

Tôi lắc đầu. “Sự thật là ngoài việc Shakespeare đã được sinh ra đời và đã qua đời, không có nhiều điều thật sự chắc chắn chúng ta biết về ông. Và anh mới vừa làm rối tinh lên một nửa trong số đó”. Tôi tiếp tục: “ Cardenio là vở kịch đã thất lạc, không có bản thảo nào do chính tay Shakespeare viết, và cho dù ông ta có vẻ không thường xuyên đến thăm giường ngủ của người vợ chính thức, nhưng khi ông ta làm điều đó thì luôn có kết quả: Ông có ba con, cả ba đều hợp pháp… và đột nhiên chúng ta nói về ba bản thảo của Cardenio và một đứa con hoang thêm vào đó”.

Ben đang chăm chú nhìn vào màn hình như thể hi vọng nó có thể nói được. “Cô có nghĩ bản thảo của Granville là một trong những bản thảo của Theobald không? Có thể ông ta kiếm được một trong những bản thảo đó và mang chúng về phía tây”.

“Có thể” tôi hoài nghi trả lời. “Nhưng Granville nói ông ta nghĩ bản thảo đã nằm ở nơi ông ta tìm thấy nó từ ngay sau khi được tạo ra không lâu”.

“Cô có thấy điều này có nghĩa gì không?”

“Không. Nhưng nếu thế không điều gì trong tất cả những điều này có nghĩa”.

Ben chuyển từ lời tựa sang nội dung vở kịch, và điều đầu teein tôi nhận thấy là giọng đọc của anh ta thật hay, dễ dàng chuyển tải nhịp điệu của những câu thơ. Đồng thời tôi cũng nhận ra vở kịch này quả là một thất bại thảm hại. Vào lúc bình phẩm quá đáng, Herry có lẽ sẽ gọi nó là một đống rác mỹ lệ; Roz chắc sẽ quăng ngay đi cho khuất mắt.

Không thấy bóng dáng của Quixote và Sancho Panza đâu nữa. Những nhân vật khác có thể nhận ra được, mặc dù Theobald đã thay đổi tên tất cả. Sự hoán đổi lộn xộn đến mức chẳng bao lâu sau Ben phải quay lại với những cái tên do Cervantes đặt. Nhưng anh ta cũng không lấp hết những lỗ hổng trong kịch bản.

Cứ như thể gián đã nhấm mất một phần vở kịch trong khoảng thời gian từ năm 1728 đến nay. Có lẽ phải là cá sấu mới đúng. Những phần tội lỗi đã bị lược đi hết cả, nhưng không chỉ có thế - hầu như toàn bộ hành động cũng bị lược đi như vậy, kịch bản chỉ còn chỗ cho các nhân vật đứng trơ ra nói suông thuật lại những sự kiện mà khán giả đành phải tự hình dung ra: một vụ cưỡng bức, một cuộc ẩu đả giữa lễ thành hôn, một vụ bắt cóc từ một nhà tu nữ. Tôi bực bội nghĩ thầm, nếu ông Theobald này dựng kịch, chắc hẳn ông ta sẽ giữ lại toàn bộ cuộc đối thoại giữa Eva và Con Rắn, nhưng sẽ cắt bỏ cảnh ăn trái cấm, việc dùng lá cây che thân, và chuyện Adam và Eva bị đuổi khỏi vườn địa đàng. Về mặt này, chắc ông ta sẽ gộp hai cuộc đối thoại của Eva với Con Rắn và Thượng đế làm một, vừa tiết kiệm thời gian, lại đỡ được một diễn viên. Vở kịch sẽ trở nên vô nghĩa không đầu không đuôi, nhưng xem ra đây không phải là điều làm Theobald bận tâm.

“Nhiều rác rưởi hơn là Shakespeare.” Ben nhận xét. Về đại thể, anh ta nói không sai. Tuy nhiên, vẫn có những đoạn thơ vang lên thật ngọt ngào:

Liệu ngài đã từng trông thấy chim phượng hoàng

Loài chim của thiên đường?

Ta đã thấy: và đã biết nơi loài chim này hay lui tới,

Và nơi chúng dựng tổ ấm huy hoàng: thế nhưng, như một gã ngốc cả tin

Ta đã dẫn một người bạn tin tưởng nhất tới kho báu đó

Và y đã cướp đi tất cả khỏi tay ta.

Tôi gần như có thể nhìn thấy những chiếc lông màu đỏ ánh vàng thấp thoáng qua các cành cây đan nhau chằng chịt, giử thấy mùi hương hoa nhài và mùi gỗ thơm thoang thoảng trong gió, nghe thấy tiếng một trái tim đang tan vỡ. Có lẽ Ben cũng có cùng cảm giác vì anh ta chợt lặng yên.

“Vấn đề là ở chỗ” anh ta lên tiếng sau một hồi im lặng, “đây không chỉ là những câu thơ rất đẹp. Đặt những câu thơ vào vở kịch, chúng sẽ rất buồn cười. Tôi đọc đoạn thơ này như thể một đoạn độc thoại, nhưng thực ra không phải thế. Cardenio đang nói chuyện với một mục đồng. Anh chàng tội nghiệp này có lẽ trong cả đời mình chưa từng trông thấy thứ gì lạ lùng hơn một con cừu lông đốm, và bây giờ phải tiếp chuyện một gã khùng lảm nhảm về chim phượng hoàng và những tổ ấm huy hoàng… Nhìn này, hãy thử một chút nhé. Cô đóng vai mục đồng”.

“Tôi nghĩ anh muốn tôi lái xe”.

“Cô chỉ cần làm ra vẻ lúng túng, và khi tôi ra hiệu thì nói. Nói thực thì không, thưa ngài . Cô làm được chứ?”

“ Nói thực thì không, thưa ngài ”.

“Tuyệt lắm. Chú mục đồng thật thà… Tôi thấy khoái công việc đạo diễn này rồi đấy. Rất tuyệt để tận hưởng cảm giác chỉ huy và làm chủ. Để bắt đầu trình diễn tôi phải nói thế nào nhỉ?”

“Thưa quý bà quý ông, nếu quý vị đã sẵn sàng”. Tôi bất chợt nhận ra mình thấy thiếu vắng sân khấu đến thế nào.

“Được rồi… Thưa quý bà quý ông, nếu quý vị đã sẵn sàng”. Tự lặp lại lời giới thiệu, anh ta tiếp tục lời thoại của cảnh kịch.

Ngài có hiểu biết thực sự vô bờ

Và chắc đã nghiên cứu uyên thâm tri thức

Liệu ngài đã từng trông thấy chịm phượng hoàng.

Một tia sáng chợt lóe lên trong trí nhớ tôi, giống như khi ta nhậ ra điều gì đó quen thuộc. “Anh nói gì cơ?”.

“Đó không phải là câu thoại của cô”.

“Vứt béng nó đi. Đọc lại mấy câu anh vừa đọc đi”.

“ Ngài có hiểu biết thực sự vô bờ ”.

Tôi đạp thắng gấp đến mức đuôi chiếc xe rê đi một đoạn giống như khi dừng xe đột ngột giữa đoạn đường ngoặt vòng cung. “Bức thư!”, tôi kêu lên. “Bức thư của Granville. Nó đâu rồi?” Tôi quay lại lục loik giữa đám đồ để ở băng sau.

Ben lôi chiếc túi đựng sách của tôi từ sau ghế của anh ta và lấy lá thứ của Granville ra. Tôi lướt qua lá thư cho tới khi tìm thấy điều muốn tìm, và đưa lá thư cho anh ta, chỉ vào chỗ muốn anh ta đọc.

“Ngài có hiểu biết thực sự vô bờ”, anh ta đọc.

“Anh đã nói đúng lúc ở cửa hàng sách, anh chàng đào vàng ấy đã không tự nghĩ ra câu này”.

Ben ngước nhìn lên. “Cô nghĩ Granville biết vở kịch của Theobald?”

Máu chảy giần giật hai bên thái dương tôi. “Không có vẻ vậy”. Vở kịch của Theobald đã bị lãng quên từ lâu khi Granville chào đời. Và Granville không có Internet trong tay để tìm kiếm những bản thảo hiếm.

“Nhưng nếu ông ta không biết đến “ Hai sự dối trá ” Ben chậm rãi nói, “Thì nơi duy nhất ông ta có thể tìm thấy câu này là trong bản thảo ông ta đã phát hiện ra. Có nghĩa là…”

“Nghĩa là câu thoại này không phải do Theobald sáng tác ra”.

Không ai trong hai chúng tôi dám nói to lên điều mình nghĩ: Đây là lời thoại gốc của Shakespeare.

Tôi ra khỏi xe, bước lại bên rìa vách đá. Chắc hẳn người ta đã tạo khoảng nhô ra này để những người lái xe dừng lại ngắm cảnh. Chúng tôi đứng trên rìa cao của vách đá, như một khán đài tự nhiên nhìn xuống thung lũng sâu, bao quanh là những đỉnh núi sẫm màu nổi lên trên màn đêm. Phía dưới chúng tôi ba trăm mét, toàn bộ đáy thung lũng được phủ một tấm thảm cây dày. Xa hơn về phía nam, những vách đá của đỉnh Zion hiện lên trắng mờ dưới ánh trăng, trông giống như tấm màn khổng lồ che khuất cánh cổng dẫn sang một thế giới khác.

“Có thể là Fletcher” Ben nói cộc lốc. “Chambers đã viết vở kịch là một sự hợp tác”.

“Có thể” tôi thừa nhận. “Nhưng chính anh đã chỉ ra chất thơ ở đây bị lấn át bởi chất hài kịch - và đây là một thủ thuật ưa thích của Shakespeare. Hầu như không có vần thơ bay bổng nào trong các tác phẩm của ông lại không ẩn chứa một hàm ý hài hước hay châm biếm sâu sắc. Như thể ông không tin vào cái đẹp”.

“Theobald đã có vở kịch trong tay” Ben nói. Rồi lắc đầu. “Thử nghĩ mà xem. Ông ta có vàng trong tay, và lại biến nó thành rác rưởi”.

“Và sau đó ông ta đánh mất những gì còn lại” tôi mỉa mai. “Tất cả bản thảo của ông ta đều bị mất. Người ta cho là chúng biến mất trong đám cháy đã phá hủy nhà hát của ông ta”.

“Quá nhiều hỏa hoạn dính dáng đến Shakespeare”. Ben nói.

Nhưng tâm trí tôi đang tập trung cả vào Granville không còn chỗ để nghĩ tới Theobald. Nếu Granville có thể đọc được câu thoại ông ta đã trích dẫn, chắc chắn ông ta cũng có thể đọc toàn bộ nội dung của bản thảo viết bằng kiểu chữ Thư kí rắc rối. Và nếu ông ta đọc được kiểu chữ này, thì điều tôi bắt đầu nghi ngờ khi còn ở văn khố chắc chắn đúng. Granville biết chính xác ông ta có gì trong tay khi viết thư cho giáo sư Child.

Ông ta là ai, một tay đào vàng liều lĩnh đồng thời hiểu rõ cả những góc khuất sâu kín nhất của văn học Anh thời Phục hưng? Vậy tại sao ông ta lại vờ như không biết gì?

Tôi quay sang Ben, nhưng anh ta đang cau mày nhìn về phía chúng tôi vừa đi qua. Vài giây sau, tôi nhận ra điều anh ta đang quan sát. Một quầng sáng lóe lên cách chúng tôi chừng nửa dặm.

“Cái gì vây?”

“Một chiếc xe” anh ta khẽ nói, cả người căng cứng.

Tôi nhìn lại lần nữa - ánh trăng phản chiếu trên thép. Rồi tôi nhân ra cái tôi chưa nhìn thấy: ánh đèn pha.

“Vào đi” Ben nói, quay người mở cửa dành cho hành khách.

Tôi im lặng làm theo.