Chương 22
Ben lái xe không bật đèn nhanh hơn tôi nhiều, chỉ dựa vào ánh trăng trên cao rọi xuống cùng vài vì sao lác đác. Một lúc sau độ dốc của con đường giảm dần và chúng tôi băng qua một cao nguyên bằng phẳng với những trảng cỏ trải dài. Không cần đợi được yêu cầu, tôi ngồi quan sát con dường phía sau chúng tôi nhưng không trông thấy gì ngoài những thân cây vả tảng đá lẻ loi trông như những bóng ma.
Sau đó con đường đổ dốc đi thấp dần xuống. Cây cối thưa dần, chỉ còn loáng thoáng rồi biến mất hoàn toàn. Tới chân núi, chúng tôi rẽ về phía nam và Xa lộ số 89 và bắt đầu gặp xe cộ lưu thông, nhưng cũng không nhiều lắm. Cứ hai mươi phút, một chiếc xe con hay một xe tải xuất hiện trong tầm nhìn như muốn lao thẳng vào chúng tôi, nhưng đến phút chót lại lao vụt qua ngay bên cạnh. Đi theo chân một vách đá sa thạch dốc đứng, có cảm tưởng như chúng tôi đang đi dưới đáy một đại dương rộng mênh mông tối mịt. Về phía bắc, khe nứt của Grand Canyon còn chìm sâu hơn trong bóng tối. Tôi không còn thấy dấu vết của chiếc xe đã bám theo chúng tôi trên núi.
Đến đâu đó phía bắc Flagstaff, tôi ngủ thiếp đi.
Tôi choàng tỉnh dậy trong tiếng động lạch cạch khi chiếc xe chuyển từ mặt đường rải nhựa sang mặt đường lổn nhổn đá sỏi. Ben đã rẽ sang con đường đất, và chúng tôi đang hướng tới một cụm đồi thấp trơ trụi rải rác những cụm xương rồng và những bụi creosote. Toàn bộ mặt đất ngập trong một thứ ánh sáng màu vàng nhạt.
“Gần tới rồi” Ben nói.
Đồng hồ chỉ sáu giờ. “Chúng ta tới sớm”.
“Cũng không quá sớm đâu”.
Không thấy đường xa lộ hay đường liên bang đâu cả. Cũng không có chiếc xe nào trong tầm nhìn. Nhà cửa cũng không. “Có ai bám theo chúng ta không?”
“Tôi không thấy ai cả”.
Ben dừng xe và bước ra ngoài. Vươn vai duỗi người, tôi theo sau anh ta chui ra khỏi xe. Chúng tôi đang đứng trước một bãi đỗ xe vắng tanh được bao quanh bằng hàng rào giống như hàng rào kiểu cũ ở các bãi nhốt gia súc. Trên cổng có treo biển báo có hàng chữ đỏ: VUI LÒNG ĐỢI TUA TIẾP THEO. Ben luồn tay qua mở cổng.
Trước mặt chúng tôi, một con đường đất rộng dốc thoai thoải chạy xuống ngoặt sang phải. Những tòa nhà trống trơn, phần lớn có mái lợp tôn đã gỉ sét, nằm dọc hai bên đường. Một số được làm bằng vật liệu trông như những thanh gỗ tà vẹt đường sắt bỏ đi. Dưới chân đồi, một cụm nhà cắt ngang con đường. Sau cụm nhà nhô lên một tháp chuông. Có vẻ có ai đó đã làm vậy để che chắn nhà thờ khỏi những tội lỗi diễn ra trên con phố duy nhất của thị trấn.
Bên kia đường, ở ven sườn đồi, ngôi nhà lớn nhất thị trấn đứng đơn độc, bảng hiệu màu đỏ với những chữ có vòng xoắn trang trí ghi KHÁCH SẠN STRADFORD. Trong nhà có ánh sáng. Chúng tôi nhìn nhau và đi về phía ngôi nhà này.
Một chiếc bàn dài, hẹp chạy sâu vào trong, một phần chìm khuất trong lòng nhà tối mờ mờ. Phía trên, trần nhà căng vải muslin được dính thành từng dải. Có con gì đó phía trên vụt chạy trống lên xà nhà khi nghe tiếng bước chân của chúng tôi. Tường của căn phòng đã từng được sơn trắng, nhưng lớp sơn đã bong ra từng mảng cùng với lớp vữa trát thô. Căn phòng đầy bụi và vắng hoe.
“Billy the Kid đã từng rửa bát đĩa trong căn bếp phía sau” một giọng nói khàn khàn vang lên sau lưng chúng tôi, giọng nói của một người xuất thân thượng lưu vùng New England. “Trước khi anh chàng học được sở thích bắn giết”.
Tôi quay lại và trông thấy một phụ nữ nhỏ nhắn, mái tóc bạc búi gọn gàng, mặc một bộ đồ bằng lụa màu kem với những chiếc khua đồng hình chiếc lá. Chỉ nhìn thoáng qua, ngay cả một người chẳng biết gì về thời trang cũng có thể nhận ra người phụ nữ này đã không mua bộ đồ từ một cửa hàng đồ may sẵn vô danh rẻ tiền nào đó, thậm chí cũng không phải tại Needless Markup hay Saks. Rõ ràng bộ đồ đã được may đo riêng cho bà tại một nhà may thời trang cao cấp tai Paris hay New York, và được một nhà thiết kế vẽ kiểu.
“Mặc dù có thể chính Shakespeare đã dạy anh ta biết cuộc đời thật rẻ rúng, và cái chết còn rẻ hơn” người phụ nữ tiếp tục. “Tất nhiên là thị trấn, không phải là những vở kịch”.
Bà ta đưa tay ra - bàn tay của một phụ nữ cao tuổi suốt đời sống trong cảnh giàu sang nhung lụa, làn da trắng như ngà voi với những tĩnh mạch màu xanh chạy ngang dọc, móng tay được sửa cẩn thận sơn màu phớt hồng. “Tôi là Athenaide Preston. Xin cứ gọi tôi là Athenaide. Và cô là tiến sĩ Katharine Stanley”.
“Nếu tôi gọi bà là Athenaide thì bà sẽ phải gọi tôi là Kate”.
“Hãy thỏa hiệp là Katherine”. Cái nhìn của bà chuyển sang Ben, xem xét anh ta theo cách mà tôi nghĩ rằng bà dùng để xem xét những người con nhà gia thế. “Và bạn”.
“Ben Pearl” tôi nói.
“Chào mừng anh tới Shakespeare, Benjamin Pearl. Để xem tôi còn nhớ gì về tua tham quan nào”. Bà bước vào trong phòng, chỉ tay vào góc phía sau, nơi trên tường vẫn còn một vết sẫm màu. “Một người tên là Bean Belly Smith đã giết con trai người chủ ngôi nhà này đúng tại chỗ đó, do cãi nhau về một quả trứng. Cậu con trai chủ nhà có một quả trứng cho bữa sáng cùng với bánh quy và thịt muối; Bean Belly thì không. Vài lời bình phẩm về cách cư xử của bà chủ đã khiến cậu con trai nóng mặt rút súng ra, nhưng Bean Belly còn nhanh hơn, và cậu thanh niên bị giết chết, quả trứng trong dạ dày được gia vị thêm không ít chì”. Bà quay người về phía chúng tôi, đôi lông mày được tỉa cẩn thận hơi nhướng lên cùng một nụ cười tinh quái. “Hai vị dùng bữa sáng nhé?”
“Không, cảm ơn bà” tôi đáp. “Chỉ cần được xem qua các giấy tờ của Granville là chúng tôi sẽ không quấy quả bà thêm nữa”.
“Tôi biết các nghiên cứu của cô, Katharine. Tôi thực sự rất hâm mộ chúng. Và sự bảo đảm của Maxine cũng giúp rất nhiều. Thế nhưng thực sự tôi vẫn chưa quen biết cô. Và tôi không mở cửa kho báu của mình cho những người chưa quen biết”.
Tôi định phản đối, nhưng bà đã giơ tay lên ngăn lại.
“Tôi sẽ đánh cược với cô, Katharine Stanley. Tôi sẽ hỏi cô ba câu. Trả lời cho tốt, và tôi sẽ cho cô xem thứ cô muốn”.
Bà ta nghĩ mình là ai? Một phù thủy sa mạc? Bà tiên đỡ đầu của tôi? Một nữ thần từ trên những đám mây hạ xuống? Lạy Chúa toàn năng, tại sao tôi gặp toàn những người điên rồ vậy? Nhưng tôi vẫn gật đầu.
“Vậy thì đi theo tôi” Bước ra ngoài, bà đi về phía dãy nhà xiêu vẹo ở cuối con đường.
Ben đặt tay lên vai tôi. “Kate. Có thể chúng ta đang đi thẳng vào bẫy đấy”.
“Anh nói không có ai bám theo”.
“Tôi nói tôi không trông thấy ai”.
“Nếu anh muốn coi như hợp đồng của anh bị phá vỡ và muốn ra đi, thì cứ đi đi. Như anh đã nói với tôi, đó là nguyên tắc. Nhưng tôi cần phải nhìn thấy giấy tờ của Granville”. Tôi quay người vội vã bám theo Athenaide. Sau lưng, tôi nghe thấy Ben thở dài và đi theo.
Đến cuối con đường, Athenaide quay người rẽ vào bên cạnh ngôi nhà dài, đi xuống một con đường mòn chạy qua mấy bụi cây mesquite. Và con đường mòn thu gọn lại thành một lối đi lát đá phiến. Rồi chúng tôi đột ngột rẽ vào một khoảng sân có đặt những bình đất nung lớn trồng hoa giấy đang ra hoa đỏ thắm. Cả khoảng sân chìm trong tiếng róc rách nhẹ nhàng của nước phun lên rơi xuống từ hai đài phun nước kiểu Italia.
Nhưng chính tầm nhìn khiến tôi bất giác ngỡ ngàng nín thở. Khoảng sân đổ xuống một bờ dốc đứng, khoảng đất bằng phía dưới trải rộng ra phía ngoài xa phải đên năm mươi dặm Anh thành một tấm thảm gợn sóng màu vàng sẫm, nâu và hồng, đôi chỗ điểm xuyến những cụm màu xanh lục nhạt mờ mờ. Những làn hơi nóng đã bắt đầu run rẩy bốc lên bầu trời xanh ngắt. Phía đường chân trời một dãy đồi nhỏ như đội đất chui lên chạy dài từ trái sang phải, như thể một quái vật khổng lồ đang bới đất chui lên để vồ lấy mặt trời.
“Cô có thể nói xem mình đang ở đâu không?” Athenaide hỏi. Bà gật đầu. “Câu trả lời chính xác là không phải ở New Mexico”.
Tôi quay lại nhìn ngôi nhà. Từ phía này, tòa nhà khác hoàn toàn phần mặt tiền xập xệ mà chúng tôi đã nhìn thấy từ phía đường phố. Đây thực sự là một cung điện thu nhỏ theo phong cách baroque.
“Vậy mặt tiền trông ra đường là đồ giả sao?”
Athenaide cười. “Cả thị trấn này đều là đồ giả. Chắc cô phải biết chứ? Khi ra đời nó được đặt tên là Ralston, theo họ thống đốc ngân hàng California, rồi bị suy tàn sau một vụ lừa đảo về mỏ kim cương đã khiến nhiều tay triệu phú nhảy lầu. Một vụ làm chấn động cả nước và có ảnh hưởng tới quốc tế. Đại tá William Boyle mua lại thị trấn năm 1879 và đổi tên nó để có thể lừa gạt một cách chắc chắn hơn, dù ít ngoạn mục hơn, cả công chúng miền đông lẫn đám dân khai mỏ miền tây. Ông ta muốn một cái tên có đẳng cấp và văn hóa, và chọn Shakespeare. Một cách ít nhiều lôi cuốn… nhưng, phải, mặt tiền trông ra phố là đồ giả. Nhưng những ngôi nhà còn lại dọc phố Stratford đều là đồ thật, nếu ý cô muốn nói chúng là một phần nguyên bản của thị trấn lừa gạt này”.
“Vậy tại sao bà lại mua thị trấn mà bà khinh miệt là trò lừa gạt?” Ben hỏi.
“Cha mẹ tôi là nghề thiết kế trang phục sống trong thời hoàng kim của Hollywood. Họ đã may đồ cho những ngôi sao lớn, và tôi thường quan sát họ làm việc. Một lần Bette Davis đã nói với tôi tất cả những người đàn bà nổi tiếng đều là những kẻ lừa gạt”. Bà mở rộng hai cánh tay ra. “Tôi ngưỡng mộ những trò lừa gạt”.
Tôi mặc kệ họ huyên thuyên và tập trung quan sát ngôi nhà. Ngôi nhà xây dựng bằng đá được đẽo gọt cẩn thận, dường như đang nhìn chằm chằm vào khung cảnh phía trước với những khung cửa sổ cao. Ba đầu hồi trang trí hình vỏ sò nhô ra khỏi mái nhà dốc lợp ngói đen. Ở hai đầu nhô lên hai tòa tháp màu đòng chuyển thành xanh lục trên nền trời. Ở giữa, nơi tôi đã tưởng là tháp chuông nhà thờ, là một tập hợp mái vòm và cột trụ, những hình trạm trổ, trên cùng là một chóp nhọn. Phía dưới, một cổng vòm dẫn vào sân trong được viền quanh bằng những bức tượng Neptune đang giơ cao cây đinh ba và Herrmes đi đôi sandal có cánh.
Tôi nhắm mắt lại. “Tôi biết nơi này”.
“Tôi cũng nghĩ vậy” Athenaide nói.
“Cô đã từng ở đây?” Ben hỏi.
“Không” Athenaide trả lời hộ tôi. “Nhưng tôi dám cược cô ấy đã từng tới nơi cùng tên với nó”.
Tôi mở mắt ra. “Elsinore”.
Bà mỉm cười. “Chính xác hơn là lâu đài Kronborg, tại Helsinggor, trên đảo Oresund”. Bà phát âm những nguyên âm vùng Scandinavia như một người bản địa.
“Đan Mạch” tôi nói với Ben.
“Ngôi nhà của Hamlet” Athenaide nói. Bà bước vào trong sân, và tôi đi theo.
“Bà xây dựng một bản sao của Elsinore giữa sa mạc New Mexico?” tôi ngỡ ngàng hỏi.
Dừng bước trước một cánh cửa chạm trổ lộng lẫy đang hé mở, bà tặc lưỡi.
“Không phải một bản sao mà chỉ là một sự kính trọng nhỏ”.
“Tại sao?”
“Người Đan Mạch không bao giờ chấp nhận bán bản gốc”. Bà ra hiệu cho tôi vào trong. “Mời cô”.
Một lần nữa Ben lại nắm lấy tay tôi, nhưng tôi gạt tay anh ta ra rồi bước vào trong.
Chúng tôi đang đứng trong một hành lang dài lát đá cẩm thạch màu trắng và đen như bàn cờ. Ở một bên, trên bức tường trắng treo những bức tranh khổ lớn có vẻ của những họa sĩ bậc thầy. Phía đối diện là những khuôn cửa kính chia thành ô quả trám được lắp vào những cửa vòm trổ sâu trong tường.
“Đi thẳng, rồi rẽ phải” Athenaide chỉ đường. “Dừng lại” bà nói. Tôi quay lại thấy bà đang đứng khoanh tay tựa lưng vào một khung cửa hai cánh. “Câu hỏi thứ nhất đã xong, bây giờ là câu thứ hai. Tại sao cô muốn xem kỉ vật của Jeremy Granville, một người đã từng sống ở Tombstone, và muốn gấp đến mức sẵn sàng lái xe bảy trăm dặm trong đêm với tốc độ không cảnh sát nào chấp nhận được?”
Tôi phải nói gì đây? Vì Roz quan tâm đến chúng, và bây giờ bà đã chết? Tôi hắng giọng. “Tôi quan tâm tới những người từng đóng Hamlet, và ông ta đã một lần diễn Hamlet trong một vụ cá cược”.
“Một câu trả lời chấp nhận được, mặc dù không được trung thực lắm. Cũng là hơn một nửa lí do lúc đầu đã khiến tôi mua kỉ vật của ông ta. Tôi cũng là một người bị Hamlet mê hoặc. Tất nhiên đây không phải là lí do khiến cho chúng ta quan tâm tới những kỉ vật đó vào lúc này. Nhưng câu trả lời này có thể chấp nhận được”. Quay người lại, bà đẩy mở cửa bằng một cử chỉ kiêu kì. “Chào mừng cô tới đại sảnh”.
Đại sảnh này quả thực là quá lớn, kể cả với một cung điện. Căn phòng là một khoảng không gian mênh mông hình vuông được chia đôi bởi một cung vòm khổng lồ, những tảng đá của cung vòm được chạm trổ viền răng cưa. Ngay dưới trần nhà lát gỗ, những cung vòm nhỏ hơn mở sang một hành lang chạy bao quanh sảnh. Ánh sáng vàng chiếu xuống thành từng luồng đặc như mật ong. Ở tầng trệt, nhiều cửa sổ được trổ vào tường, nhưng những khung cửa sổ này rất hẹp cộng với bức tường dày nên bóng tối vẫn ngự trị trên khoảng tường giữa các ô cửa có treo thảm thêu hình unicorn màu trắng và các phu nhân đội mũ cao có chóp nhọn.
“Cái này không giống Elsinore” tôi nói.
“Không”.
Dưới chân chúng tôi, sàn gỗ bóng nhoáng được rải hoa oải hương và hương thảo làm mỗi bước đi đều thoang thoảng mùi thơm.
Athenaide dừng lại bên phải tôi nhìn lên bức tường. Tôi quay lại xem bà đang ngắm nhìn vật gì. Phía trên một lò sưởi khổng lồ, đủ to để đốt cả một cây sequoia, có treo một bức tranh nổi bật lên màu xanh lục và vàng dưới ánh sáng thật kì lạ. Một phụ nữ mặc áo dài thêu kim tuyến đang nằm ngửa nổi lập lờ dưới một dòng suối bờ cao, khuôn mặt trắng bệch, mặt nước rải rác những bông hoa màu đỏ và tím. Một bức tranh vẽ Ophelia khi chết của John Everett Millais.
Đó là một bức tranh sơn dầu, không phải một bản in, và trông thật tinh tế, chiếc khung tranh có hình dạng lạ lùng được thếp vàng, chạm trổ cầu kì. Đẹp đến mức tôi thoáng nghĩ không lẽ Athenaide đã bằng cách nào đó có được bản gốc.
“Tôi luôn yêu thích bức tranh này”.
Tôi bước lại gần, nhắm mắt lại. Tôi cũng vậy. Cô gái - tôi vẫn thường nghĩ tới bức tranh như thể đó chính là Ophelia - là một trong những kiệt tác lớn của nghệ thuật thời Tiền Raphael. Nhưng bức tranh được biết hiện đang nằm ở bảo tàng Tate, tại London. Tôi biết điều đó. Từ khi bắt đầu công việc đạo diễn vở Hamlet, tôi thường xuyên tới ngắm nhìn bức tranh, đi bộ theo con đường rowpjbosng cây bên sông Thames, bước vào căn phòng dài có màu của hoa hồng vào lúc chạng vạng, nơi bức tranh nằm giữa hai bức chân dung của những người phụ nữ mặc bộ xiêm y màu xanh lạ lùng. Bản thân Ophelia lại vô sắc đến bất thường, gần như đã bắt đầu trở nên trong suốt, nhưng làn nước nâng vô nổi lên lại tỏa ra một màu xanh lục sáng chói, thách thức.
Tôi nghe tiếng cánh cửa mở phía bên cạnh. Tôi ngạc nhiên quay sang; tôi đã không thấy cánh cửa nào ngoài lối vào chính. Những tấm thảm lay động, và một phụ nữ gốc Tây Ban Nha vóc người chắc nịch xuất hiện từ phía sau chúng, bưng chiếc khay bày bộ đồ cà phê bằng bạc.
“À, Graciela” Athenaide nói. “Mang quà tới rồi đây”.
Graciela bước qua sảnh, đặt chiếc khay xuống bàn. Khi cô ta quay lại, tay phải cô ta đã giơ lên chĩa thẳng vào tôi. Bàn ta to thô của cô ta cầm một khẩu súng ngắn nhỏ có nòng hơi vểnh trông như một món đồ chơi trẻ con.
Tôi chớp mắt. Cả Ben cũng đã chĩa súng của mình ra. Nhưng anh ta không nhằm vào Graciela; khẩu súng ngắn của anh ta chĩa thẳng vào ngực Athenaide.
“Bỏ súng xuống, ông Pearl” bà ta nói.
Anh ta không cử động.
“Testosterone”. Athenaide thở dài. “Một hormon chán ngắt. Giờ đến estrogen: Các vị không bao giờ biết trước nó sẽ gây ra chuyện gì đâu. Tôi e là tôi đang gí một khẩu Glock 22 vào sườn Katharine”.
Với vẻ kinh tởm, Ben từ từ cúi người đặt khẩu súng xuống sàn nhà.
“Cảm ơn” Athenaide nói. Graciela nhặt khẩu súng lên. Và Athenaide hỏi câu hỏi thứ ba.
“Có phải các người đã giết Maxine Tom không?”