← Quay lại trang sách

Chương 24

“Chúng ta sẽ cần đôi giày của cô” Athenaide nói.

“Tại sao?”

“Một trò trốn tìm nho nhỏ” bà trả lời. “Chiếc trực thăng này cho thấy cảnh sát không chỉ hạ cố tới đây để chuyện vãn. Tôi nghĩ họ nghi ngờ tôi đang bị một kẻ sát nhân từ Utah tới hỏi thăm. Nếu FBI đã biết vụ này và liên hệ giữa cái chết của Maxine với những vụ cháy liên quan tới Shakespeare, có thể họ sẽ lần ra tên hai người. Trong bất cứ trường hợp nào, chắc chắn đang có ai đó ở đây. Bắt đầu với chiếc xe của hai người, mặc dù tôi đã mạo muội cho lấy hết vật dụng riêng của hai người ra khỏi xe”.

Những cuốn sách, tôi giật mình nghĩ.

“Hai người sẽ được nhận lại đồ của mình” bà chủ nhà khô khan nói tiếp. “Chúng tôi sẽ báo cho cảnh sát về vài kẻ vãng lai đáng ngờ” bà tiếp tục, “Và cảnh sát sẽ tìm thấy dấu vết dẫn ra sa mạc, hướng tới một nơi mà thỉnh thoảng đám sói đồng cỏ vẫn vớ được những kẻ ngoài vòng pháp luật. Nếu may mắn, màn kịch này sẽ giúp giữ chân cuộc điều tra quanh quẩn trong vùng ít nhất một thời gian”.

“Trong lúc đó chúng ta chỉ việc đàng hoàng bước qua cửa chính thôi sao?” Ben hỏi.

“Nhà tôi có rất nhiều cửa, ông Pearl” Athenaide trả lời với nụ cười trịch thượng.

Tôi nghe có tiếng cót két nhẹ, và Graciela xuất hiện, lững thững như một người khổng lồ ngay bên trong chiếc lò sưởi khổng lồ. Đằng sau lưng cô ta, nơi trước đó là vách sau lò sưởi, tôi chỉ nhìn thấy tối đen. Cô ta chỉ vào chân chúng tôi. “Los zapatos” cô ta ra lệnh. “Dasmelos”.

Tôi ngạc nhiên thấy Ben tháo giày ra, cầm lên đưa cho cô gái. Tôi cũng làm theo và cô ta biến mất vào trong bóng tối.

Ben dợm chân định bước lên.

“Đợi đã” Athenaide nói. “Cô ta sẽ quay lại ngay”.

Bên ngoài, tiếng động cơ trực thăng vang lên gần hơn.

Ben cúi xuống xem xét chiếc lỗ trống trên bức tường phía trong lò sưởi. “Quả là không ngoan” anh ta nói.

“Bản gốc của nó đã được tạo ra để giấu các tu sĩ” Athenaide nói.

“Một phòng kín để giấu tu sĩ?” Tôi đã được xem một vài căn phòng như vậy, những khoảng trống chật hẹp được bố trí giấu dưới gầm cầu thang hay dưới mái nhà, tất cả đều đã được mở ra trưng bày sau khung thủy tinh hữu cơ trong những ngôi nhà cổ của nước Anh. Nhưng tôi chưa từng được xem một căn phòng kín như vậy còn hoạt động.

Vào thời Shakespeare, nước Anh là một quốc gia Tin lành theo mệnh lệnh hoàng gia; những người Anh trở thành tu sĩ Thiên chúa giáo hay những gia đình Anh chứa chấp các tu sĩ đều bị coi là phạm trọng tội. Vào đầu thời gian trị vì của mình, Elizabeth đã kêu gọi khoan dung từ cả hai phía, nhưng các triều thần của bà đã lo ngại những người Thiên chúa giáo đang tìm cách ám sát Nữ hoàng. Khi một vài người bị bắt trong khi đang tìm cách hành thích Nữ hoàng, đàn chó săn của Elizabeth bắt đầu săn lùng không thương tiếc những kẻ họ cho là thủ phạm: các tu sĩ. Về phía mình, những người Anh Thiên chúa giáo tìm cách che giấu những người chăm sóc phần hồn của họ trong những bức tường được đục rỗng và những căn phòng bí mật lạ lùng, giống như con gái của Pharaoh trong bụi cỏ chỉ.

“Những căn phòng được thiết kế tốt nhất không thể bị phát hiện bằng cách dò nghe tìm hốc trống hay tìm những khe hở. Chỉ có cách là biết rõ vị trí của chúng và cửa vào được mở ra như thế nào. Và tôi đã tạo ra căn phòng này theo một trong những mẫu xuất sắc nhất” Athnaide nói. “Bản gốc được xây dựng khéo đến mức bạn có thể đốt lửa mà không lo vị tu sĩ bị nướng chín”.

“Còn căn phòng này?” Ben hỏi.

“Chúng tôi chưa bao giờ thử. Cho đến giờ”.

“Bà đã làm điều này trước đây” anh ta hỏi, “hay đây chỉ là sự ứng biến tức thời?”

“Một đề tài và các biến thể” Athenaide nói.

Graciela lại xuất hiện khi tiếng động cơ gầm rú bên ngoài đột ngột im bặt. “Sisganme” cô ta ra lệnh. Chẳng cần phải biết tiếng Tây Ban Nha để hiểu cô ta muốn nói gì. “Theo tôi”.

“Au revoir” Athenaide nói.

Chúng tôi chui vào trong, và cánh cửa đóng lại sau lưng. Chúng tôi đứng trong bóng tối hoàn toàn một lát. Rồi một luồng sáng vàng lặng lẽ bật sáng chiếu về một bên và Graciela hối hả lao nhanh xuống đường hầm. Với khổ người của mình, cô ta nhanh nhẹn đến mức đáng ngạc nhiên. Tôi đã phải gần như chạy để theo kịp.

Tôi không rõ mình đã chờ đợi trông thấy gì - có lẽ không phải là dơi, nhện, những bức tường ướt át trơn nhẫy, những sợi dây xích kêu lanh canh treo trên tường - nhưng tôi cũng không ngờ tới điều mình trông thấy: một hành lang bằng đá hẹp khá dài, đủ cao để Ben có thể đi thẳng người. Hệ thống chiếu sáng hoạt động theo sự điều khiển của cảm biến chuyển động, bật sáng khi chúng tôi tới nơi rồi lập tức tắt đi khi chúng tôi đi khỏi, vì vậy nếu không có những cánh cửa trổ ra trên bức tường đá thỉnh thoảng lại xuất hiện, tôi đã có thể nhầm mình đang dậm chân tại chỗ.

Chúng tôi tiếp tục băng qua những cánh cửa giống hệt nhau được lắp cả hai bên tường. Lối đi đầu tiên dốc xuống, sau đó ngược lên theo những bậc thang thấp. Sau một hồi, đường hầm vòng sang phải. Chúng tôi có lẽ đã đi được một phần tư dặm Anh khi đến đầu tận cùng của đường hầm với một cánh cửa. Trên cửa không có dấu vết gì, ngoài một bảng khóa điện tử.

Graciela bấm mật mã, và cánh cửa bật mở.

Tôi đứng nháy mắt liên hồi dưới ánh sáng chói chang bên ngoài. “Athenaide” Graciela nói, đẩy chúng tôi lên phía trước. Chúng tôi lách qua khe giữa cánh cửa và bức tường. “Adios” cô ta nói. Trước khi chúng tôi kịp làm gì, cánh cửa đã đóng sập lại, một tảng đá trượt về chỗ cũ che kín cửa.

Tôi đưa tay lên che nắng, nheo mắt dưới ánh nắng chói chang. Có vẻ chúng tôi đang ở dưới một lòng suối cạn khá nông, đứng trên một rìa đá tựa trên những tảng đá cuội lớn. Bên bờ suối, chỉ cao chừng vài gang tay, mọc một hàng cây mesquite. Bên cạnh rìa đá có đặt hai đôi giày. Của Ben và tôi. Bên cạnh là khẩu súng của Ben.

Đúng lúc đó chúng tôi nghe tiếng động cơ xe hơi.

Xỏ giày vào chân, chúng tôi leo lên trên bờ suối và nấp sau những cây mesquite, nằm mọp sát đất. Một chiếc xe thể thao đa năng sơn màu đồng lắp kính màu xuất hiện, chậm chạp bò đi trên bốn bánh. Khi nó tròng trành đi xuống lòng suối cạn và dừng cạnh rìa đá, tôi nhận ra đó là chiếc Cadillac Escalade.

Khung cửa kính ở chỗ lái xe hạ xuống.

“Ollie, Ollie, ai đi miễn phí nào!” Athenaide gọi như hát.

Vài phút sau, chúng tôi đã lên tới con đường lát đá và lái xe qua bên cạnh một khu nhà tiền chế và những bức tranh thánh bằng plastic đã mờ có hình Đức Mẹ đồng trinh và Thánh Francis.

“Chào mừng tới sân bay Lordsburg Municipal” Athenaide nsoi trong khi lái xe qua chiếc cổng nằm giữa một hàng rào mắt cáo. “Charles Lindberg đã hạ cánh ở đây. Nơi này còn lâu đời hơn các sân bay JFK và O’Hare”.

“Mức độ trưởng thành thì chậm hơn một chút” Ben nhận xét.

“Sân bay này chủ yếu phục vụ những chiếc Cessna của các chủ trại địa phương và các phi công tự do thích lang thang từ sân bay này sang sân bay khác trên khắp đất nước” Athenaide nói. “Ít nhất cho tới năm ngoái”.

Chúng tôi dừng lại bên đường băng, và tôi trông thấy chiếc máy bay của Athenaide. Đó là một chiếc phản lực cỡ tiêu chuẩn - một chiếc Gulfstream V, Ben thì thầm vào tai tôi - và động cơ của chiếc máy bay đã khởi động sẵn sàng.

“Đường băng cần được nối dài thêm” Athenaide hét lên hào hứng.

Trong khoang chính của chiếc máy bay, Athenaide đặt cặp tài liệu có chứa lá thư của Granville xuống một chiếc bàn họp. Tôi tìm thấy những cuốn sách của mình được xếp thành chồng trong một chiếc giỏ gắn vào bàn. Việc đầu tiên tôi làm là kiểm tra xem tập sách của Chambers, chiếc thẻ của Roz, bức thư Granville gửi cho Child, và bản copy những bài báo có còn đó không.

Ngay cả một chiếc phản lực cỡ tiêu chuẩn cũng phải mất bốn giờ bay để tới được D. C. từ New Mexico. Ben đọc qua câu chuyện về Cardenio trong Don Quixote , sau đó, anh ta đi ngủ. Tôi chỉ cho Athenaide cách tải Hai sự dối trá về laptop của bà; và khi Ben thức dậy, bà đổi sang Don Quixote .

Cuốn sách của Chambers đặt trong lòng, tôi nhìn qua cửa sổ và bồn chồn nghĩ ngợi. Delia Bacon cũng chỉ là một chú thích nhỏ trong luận văn của tôi, nhưng chỉ chút ít hiểu biết về bà cũng khiến tôi tò mò. Khi tôi nói với Roz muốn viết một cuốn tiểu sử về Delia, Roz đã thuyết phục tôi từ bỏ ý định của mình bằng một cuộc nói chuyện nghiêm túc về sự nghiệp. Có một sự khác biệt giữa hiểu biết và sự điên rồ, bà đã nói vậy, và người ta có thể sẽ bắt đầu băn khoăn không biết tôi có bất bình thường như chính chủ để tôi lựa chọn không.

Tại sao Roz đã kéo tôi rời xa Delia, để rồi chính bà lại lao vào chủ đề này? Và bà đã tìm hiểu về nó được bao lâu rồi? Tôi có thể cảm thấy sự oán hận ghen tức sục sôi đang dần hiện lên theo hướng này. Tập trung vào Ophelia, tôi tự nói với mình.

Ngoài cách nhắm mắt phóng phi tiêu cầu may vào một tấm bản đồ, tôi không còn cách nào khác để tìm dấu vết của Ophelia và những lá thư của Granville - mong chúng vẫn còn tồn tại - cho tới khi chúng tôi tới thư viện Folger.

Thế còn về gia đình Howard? Tôi đã nói với Athenaide rằng câu chuyện về gia đình Howard không phù hợp - và đúng vậy chừng nào chúng tôi còn đi tìm vở kịch. Nhưng khi chúng tôi tìm thấy… nếu chúng tôi tìm thấy… lúc đó thì sao?

Nếu đó là một vở kịch hay, sẽ chẳng quan trọng chuyện tại sao nó đã được viết ra, hay viết ra cho ai. Nó có thể ngu ngốc, tàn nhẫn, hay đẹp đẽ, tất cả nằm trong bản thân vở kịch. Cho dù nếu vở kịch không xuất sắc đến vậy - kể cả khi nó cũng dở không kém gì Hai sự dối trá - nhưng mối liên quan đên những trang sử kinh hoàng vẫn có thể làm một câu chuyện được kể một cách vụng về trở nên đáng quan tâm.

Tôi đọc lại cả hai bức thư - thư của Granville gửi cho Child và của Ophelia gửi cho Granville - một lần nữa. Gộp lại cùng nhau, chúng có vẻ rất rõ ràng. Jeremy Granville đã tìm thấy một bản thảo của Cardenio, và có cái gì đó trong bản thảo khiến ông ta cho rằng vở kịch có liên quan tới gia đình Howard và bá tước Somerset. Ông ta cũng cho rằng nhà soạn kịch có liên hệ với ‘nữ bá tước” - một quý bà mà Ophelia Fayrer Granville cho là Frances Howard, nữ bá tước Somerset.

Shakespeare đã từng là một trong những người mơ mộng vĩ đại nhất xuất hiện trên trái đất, thế nhưng hầu như chúng ta chẳng biết gì về ông. Ít nhất là khía cạnh con người mơ mộng. Không phải như một người kể chuyện. Bốn thế kỉ tìm kiếm nghiên cứu chỉ cho biết ông đã được sinh ra đời, đã thành hôn một cách vội vã, đã có ba người con với một người vợ mà ông hiếm khi trông thấy mặt, đã đầu tư vào bất động sản, đã từng trốn thuế, đã có lần kiện hàng xóm và cũng từng bị hàng xóm kiện, và đã qua đời. Ở đâu đó giữa những sự kiện này, ông đã công bố hơn ba mươi vở kịch - một số trong số đó nằm trong số những vở kịch tuyệt vời nhất, cho dù bằng ngôn ngữ nào, vào bất cứ thời đại nào - và một số bài thơ tuyệt tác.

Nhưng văn phong của những tác phẩm này, bất chấp ấn tượng mạnh mẽ, lại vắng bóng tính cách cá nhân một cách kì lạ, như thể tác giả đã cố ý căng ra một tấm màn đen hiếm khi được vén lên chắn giữa công chúng và những giấc mơ riêng tư của mình. Bạn có thể nhậ ra những điểm quen thuộc chúng: một dòng quan tâm chuyển từ những câu chuyện tình trẻ trung trong gia đoạn đầu cho tới những câu chuyện về phản bội và cay đắng khi bước vào tuổi trung niên, cuối cùng là những câu chuyện về những người cha và con gái, sự chuộc tội và những cuộc gặp lại khi ông tới gần đoạn cuối cuộc đời. Vô số cuốn sách và bài báo đã đưa ra những mối liên hệ giữa Hamlet và cái chết của người con trai còn trẻ Hamler của Shakespeare, cha ông, và vị nữ hoàng đã trị vì nước Anh từ trước khi ông ra đời. Thậm chí còn nhiều tác phẩm hơn tuyên bố Tuyển tập sonnet của ông về một cuộc tình tay ba giữa một thi sĩ, một người đẹp tóc đen và một chàng trai trẻ tóc vàng là sự hồi tưởng lại câu chuyện xen lẫn ngọt ngào và cay đắng mà chính ông đã trải qua. Nhưng tất cả chỉ là sự suy đoán. Nếu nghệ thuật, như lời Hamlet, là một tấm gương phản chiếu tự nhiên, thì những tác phẩm của Shakespeare nhiều nhất cũng chỉ phản chiếu một cách mờ nhạt con người ông.

Nhưng nếu bản thảo Granville tìm thấy không chỉ là một vở kịch đã mất thì sao? Nếu bản thảo đó cho chúng ta một cái nhìn về con người của nhà soạn kịch?

Nói cho cùng, chúng ta chẳng biết gì về những người mà ông yêu, hay ông bày tỏ tình cảm của mình với họ ra sao. Ông đã cùng phá lên cười với những người bạn về chuyện gì? Điều gì làm ông bực bội, hay làm đôi mắt ông ứa lệ, hay thêm một giọt hạnh phúc ngọt ngào sưởi ấm dòng máu chảy trong người ông? Trong thế giới phồn hoa, kiêu kì của London thời Elizabeth, Shakespeare bằng cách nào đó đã trở nên nổi tiếng trong khi vẫn gần như hoàn toàn vô hình. Tìm thấy một vở kịch lôi kéo ông vào một trong những vụ tai tiếng tình ái và án mạng khủng khiếp nhất vào thời của mình - không chỉ như một người quan sát đứng ngoài cuộc, mà trực tiếp tham gia vào vụ việc, cho dù chỉ là vai phụ - cũng sẽ gây tiếng vang không kém gì màn pháo hoa vào đêm không trăng.

Không thể nào.

Thật không?

Chắc tôi đã ngủ gật, vì tôi bừng tinht khi được Athenaide vỗ nhẹ lên vai đánh thức. Đến lúc thay đồ rồi, bà nói. Đó là lúc tôi phát hiện ra bằng cách nào đó bà đã chuyển từ xe của chúng tôi lên máy bay không chỉ những cuốn sách mà toàn bộ hành lí của chúng tôi, và không những tôi có đồ sạch mà có sẵn căn phòng riêng để thay.

Trong ngăn trên chiếc vali của mình, tôi tìm thấy một chiếc váy đen và một chiếc áo trắng được gấp gọ gàng. Phía dưới vali có mấy đôi giày đế thấp mà tôi nghĩ mình đi khá hợp. Thay xong trang phục, tôi buộc tóc ra sau gáy, gài cây trâm của Roz lên vai áo, rồi quay ra cabin chính.

“Lorenzo” Athenaide nói, “đang chờ thêm hai người cho đội phục vụ tối nay. Con gái một người bạn, và bạn trai của cô này, tôi đã nói với ông ta như vậy. Susan Quinn và Jude Hall”.

Tôi bật cười khúc khích.

“Cái gì?” Ben hỏi. Anh ta đã đổi sang diện quần đen và sơmi trắng.

“Những người con gái của Shakespeare” tôi giải thích. “Susanna và Judith - Susan và Jude. Susanna đã lập gia đình với ông Hall, còn Judith thành hôn một ông Quiney. Từ đó ta có Hall và Quinn. Ít nhất bà ấy đã giữ đúng họ”.

“Không phải một ý kiến hay” Ben nói.

“Thử tỏ ra hài hước một chút nào, ông Pearl” Athenaide rầy rà “Mối liên hệ đó anh đã không hề nhận ra”.

“Nhưng Kate thì có”.

“Người duy nhất kiểm tra danh sách họ tên nhân viên của Lorenzo sẽ là nhân viên an ninh gác cổng sau”.

“Gần như chắc chắn là người của FBI” Ben bực bội đáp.

“Trong trường hợp đó thì khuôn mặt của hai người sẽ gây ra nhiều rắc rối hơn hai cái tên. Nhất là khuôn mặt của Katharine”.

“Đây không phải là một trò chơi” Ben căng thẳng nói.

“Có thể không” Athenaide nói. “Nhưng cười vào mặt hiểm nguy cũng là một dấu hiệu của lòng can đảm”.

“Nghiêm túc sẽ cho tỉ lệ sống sót cao hơn” Ben đáp.

Vài phút sau, chúng tôi đã tiếp đất ở sân bay Dulles, tại đây một chiếc Limousine đen đợi sẵn. Sau New Mexico, D. C. quả là một thiên đường xanh, đáng để tán dương là Thành phố Ngọc lục bảo. Tuy vậy không khí lại thật ngột ngạt khó chịu, còn đường chân trời ùn đầy lên những đám mây nặng nề sũng nước màu xám chì tầng tầng lớp lớp, chỉ để lộ ra một khoảng trời xanh nhỏ xíu ngay trên đầu chúng tôi.

Bốn mươi lăm phút sau, chúng tôi được thả xuống ở khu chế biến thức ăn của công ty cung cấp thực phẩm. Tôi đành phải để những cuốn sách của mình lại chỗ Athenaide. “Tôi sẽ trông coi chúng cẩn thận” bà hứa. “Cô nên tập trung vào việc làm thế nào lọt được vào trong”.

Người cung cấp thực phẩm cho bữa tiệc là một người đàn ông cường tráng với mái tóc hoa râm, hàng ria xén tỉa cẩn thận và tiếng cười sảng khoái. Đưa cho chúng tôi những chiếc áo choàng trắng, ông dẫn chúng tôi đến gặp những người còn lại trong đội nhân viên phục vụ, và tất cả chúng tôi cùng được xếp lên một chiếc xe tải lớn. Một lúc sau, chiếc xe dừng lại trước khu tiền sảnh theo phong cách nghệ thuật trang trí của thư viện về Shakespeare Folger, mặt tiền lát cẩm thạch trắng của gian sảnh được trang trí những cảnh trích từ các vở kịch. Đi vòng quanh tòa nhà, chúng tôi tới một lối vào ở đằng sau.

Dỡ đồ từ trên xe xuống, tôi nhấc lấy tay cầm phía sau của một chiếc xe đẩy dùng để xếp đồ ăn, kéo giật lùi qua cửa phục vụ. Nhân viên bảo vệ chẳng để ý đến khuôn mặt tôi nhiều hơn chiếc áo choàng trắng hay chiếc gáy của tôi. Anh ta kiểm tra bảng tên - Susan Quinn - một cách hờ hững qua loa. Vài giây sau tôi nghe anh ta gọi tên Jude Hall tới kiểm tra. Thế là chúng tôi đã vào được bên trong.