← Quay lại trang sách

Chương 26

“Tôi chưa bao giờ dùng từ đó”.

“Cô đã sử dụng giọng điệu đó” bà trách cứ. “Chúng ta chuyển từ ca ngợi sang kết án mới nhanh làm sao khi chạm tới niềm tin”.

Tôi định mở miệng phản đối, nhưng Athenaide đã cắt ngang. “Shakespeare, ông Pearl à, không chỉ là nghệ thuật. Đó là một tôn giáo nữa”.

“Cũng là một khoa học nữa” tôi đáp trả. “Dựa trên bằng chứng”.

“Và cô đã xem xét các bằng chứng chưa? Mọi bằng chứng?” Bà quay sang Ben “Các Stratfordian nắm trong tay các trường đại học và các trung tâm nghiên cứu như nơi này chẳng hạn. Và các trường đại học nắm trong tay sự thật. Họ không dạy về những kẻ hở, những bằng chứng phản biện, mà chỉ dạy những gì họ cho là đúng”.

“Thật không công bằng”.

“Vậy ư?”

Tôi rên lên. “Đáng ra tôi đã phải biết. Sự đam mê của bà với Hamlest đã làm tôi mất cảnh giác. Và cả Elsinore nữa”.

“Đó chính là Elsinore” bà lặp lại, tự hài lòng về mình. “Oxford - Hamlet thực sự, bên trong Elsinore, bên trong Shakespeare”.

Ben đưa mắt nhìn từ người này sang người khác giữa hai chúng tôi. “Hamlet thực sự?”

“Các Oxfordian coi phía dưới Hamlet ẩn chứa cuốn tự truyện của Oxford” tôi giải thích.

“Cô làm tôi thất vọng” Athenaide chặc lưỡi. “Người nào đó đã viết Hamlet chắc chắn đã lấy cảm hứng từ cuộc đời của Oxford với sự tương đồng đủ lạ lùng đáng để nghiên cứu sâu hơn đúng không nào?”

Tôi giật mình. Bà ta vừa trích dẫn chính luận văn của tôi. Lúc bà nó biết đến các công trình của tôi, tôi đã nghĩ bà muốn nói đến những gì tôi đã làm trong lĩnh vực sân khấu. Chẳng ai biết đến những cuốn luận văn, trừ những người đã viết ra chúng. “Tôi đã viết là kịch bản mang âm hưởng từ cuộc đời của Oxford, Athenaide. Từ đó đến một cuốn tự truyện là cả khoảng cách rất xa”.

“Làm cách nào mà anh chàng giữ ngựa, con trai của người thợ làm găng tay quê ở Stratford, lại dám động chạm tới một trong những người quyền thế nhất vương quốc? Làm thế nào anh ta biết được tất cả những chi tiết đó.”

“Mọi người đều biết những chi tiết đó. Cũng như ngày nay bất cứ ai cũng biết rõ những chi tiết xấu xa trong cuộc đời của Michael Jackson. Những người giàu có và nổi tiếng luôn phải sống trong sự soi mói, và một số người trong bọn họ đã luôn muốn phô bày cuộc sống của mình ra. Điều tôi muốn biết là tại sao? Tại sao bà - hay bất cứ ai - lại đặt Oxford và chỗ của người mà tên đã luôn xuất hiện trên trang bìa của các tác phẩm?”

“Vì tôi xếp những gì có trong vở kịch cao hơn những gì có trên trang bìa” bà trả lời. “Người đã viết những vở kịch đó có học vấn rất rộng và sâu theo cách truyền thống, và người này có thể tiếp cận những cuốn sách có giá trị một cách dễ dàng. Ông ta có cái nhìn của giới quý tộc và thói quen của giới quý tộc như đi săn và nuôi chin ưng săn; ông ta hiểu biết đồng quê nước Anh theo cách của một lãnh chúa. Ông ta không tin phụ nữ, yêu thích âm nhạc, và khinh miệt sự keo kiệt bủn xỉn. Ông ta hiểu biết tường tận về luật pháp Anh và ngành hàng hải; ông ta biết nước Ý và nói được tiếng Pháp cũng như tiếng Latinh. Trên hết, ông ta sống như một thi sĩ. Theo những gì đã được làm rõ cho tới nay - không suy diễn từ những vở kịch, mà được chứng minh qua những giấy tờ liên quan đến cuộc đời ông ta - William Shakespeare người Stratford không hề thể hiện những tính cách mà tôi vừa kể. Kết luận, ông ta không viết những vở kich đó”.

Bà đắc thắng ngồi xuống chiếc ghế bành kê dưới một khung cửa sổ giả. “Ngược lại, Oxford đáp ứng được tất cả các tiêu chí”.

“Trừ một điểm” tôi phản kích. “Ông ta qua đời sớm mất một thập kỉ, Athenaide. Chúng ta đang tìm kiếm Cardenio , lạy Chúa. Một vở kịch được viết năm 1612. Làm thế nào mà một người đã qua đời - khi nào nhỉ? Năm 1605?”

“Năm 1604”.

“Được, 1604. Làm thế nào một người đã qua đời từ năm 1604 có thể viết một vở kịch vào năm 1612? Và Cardenio cũng không phải là vở kịch duy nhất bà sẽ phải loại bỏ. Macbeth , Othello , Lear , Cơn bão tố , Chuyện kể mùa đông , Antony và Cleopatra - hầu hết những vở kịch thời vua James đều phải loại ra. Quá nhiều để đổi lấy một nhà soạn kịch bá tước”.

“Ngày tháng” Athenaide nhún vai vẻ coi thường. “Đó sẽ là một giả thiết hời hợt nếu phải dựa vào ngày tháng. Nhất là loại ngày tháng thiếu căn cứ vững chắc mà các vị học giả ngồi trong tháp ngà nặn ra. Như cô vừa nói, Cardenio lần đầu tiên được trình diễn là vào cuối năm 1612. Nhưng điều đó không có nghĩa nó được viết ra cùng năm đó. Đây là một khả năng khác. Vào năm 1604, Oxford có thể đã thuê dịch Quixote hoặc tự làm việc này. Sau đó ông ta viết một nửa vở kịch - và qua đời. Vài năm sau, bản dịch được xuất bản. Muộn hơn nữa, bạn bè và con trai của bá tước đã ủy nhiệm cho John Fletcher hoàn tất vở kịch và công diễn trên sân khấu đúng thời điểm để gây ra nhiều bối rối nhất cho những kẻ thù cũ của Oxford, gia đình Howard”. Giọng nói của bà ta cao dần lên thách thức. “Cô cũng nhớ họ là kẻ thù chứ?”

Bà quay sang Ben. “Người cầm đầu gia đình, bá tước già Northampton, là bạn và anh em họ của Oxford, nhưng khi cần cứu bộ da Howard của mình, ông ta đã tố cáo Oxford có quan hệ tình dục với các cậu bé”.

“Athenaide” tôi bực bội lên tiếng, “thật là điên rồ. Tất cả xây dựng trên ‘có thể’ và ‘đã có thể’. Bà đang đi theo con đường quanh co rối rắm của một gã nát rượu trong khi có thể kẻ một đường thẳng băng nối các điểm lại với nhau”.

Bà khịt mũi. “Cô thà tin rằng một kẻ kém giáo dục, có thể là một kẻ quê mùa thô lỗ mũ chữ, đứa con trai khốn khổ của một người thợ làm găng tay mù chữ, đã viết những vở kịch của Shakespeare, bằng cách nào đó tự trực giác ra được luật pháp, thần học, các nghi thức triều đình, lịch sử, thực vật học, cách nuôi chim ưng và đi săn trong khi viết?”

Bà đứng lên và bắt đầu từ tốn bước quanh phòng, nhìn chăm chú vào những bức chân dung các triều thần treo trên tường. “Ver - là gốc từ Latinh cho ‘Sự thật’. Khá gần với ‘Vere’ - họ của bá tước Oxford - để tạo ra một trong những trò chơi chữ trẻ con mà người ta rất ưa thích thời Phục hưng. Và thế là các bá tước của dòng họ này đã dùng ‘Vero nihil verius’ làm câu khẩu hiệu của mình. Và tình cờ đó cũng là câu khẩu hiệu của tôi, họ thời con gái của tôi là Dever. Một sự pha tạp từ Vere: không phải không phù hợp với một nhánh gia đình xuất thân bên ngoài hôn nhân.

“Cha tôi bám sát lấy điểm này khi đặt tên cho tôi. Athenaide. Một biến thể của Athena mắt sắng, vị nữ thần cầm khiên và giáo”. Bà nói ra những câu sau cùng với vẻ nhẹ nhõm dành cho Ben. “Bá tước Oxford, một nhà vô địch trong các cuộc đấu thương, nổi tiếng được coi là người được Athena bảo trợ - và rất giống nữ thần. ‘ Đôi mắt ông lóe sáng, cái nhìn làm rung những cây thương ’”

“Đó là một cách dịch sai, và bà biết rõ” tôi nổi cáu. ‘Vultus tela vibrat: ‘Đôi mắt người lóe sáng, cái nhìn của người làm những cây phi tiêu rơi xuống’.

“Cô đúng là biết rõ các bằng chứng” bà nói với vẻ khâm phục. “Mặc dù chính cô cũng đã giải nghĩa sai - ‘làm những mũi tên phóng tới’ thì còn có thể. Nhưng ‘làm những cây phi tiêu rơi xuống’ thì không. Cô làm nó nghe giống một đoạn quảng cáo hơn một cuộc đấu thương thời Elizabeth”.

“Được. Nhưng cũng không phải ‘làm rung những cây thương’”

Bà nhún vai. “Vậy telum là một từ chung cho các loại ‘lãnh tiễn’, không phải là từ riêng cho ‘thương’. Nhưng vibrat có nghĩa là ‘rung’. Cũng giống như ‘vibrate’ trong tiếng Anh vậy. Tôi có cần chỉ rõ là người ta không thể ‘rung’ một mũi tên? Hay một chiếc thương. Một cách cụ thể, Athena rung cây thương của mình, và đã làm như vậy kể từ khi có một người kể chuyện nào đó hát những bản anh hùng ca đầu tiên của Homer, gần ba ngàn năm trước, trong đó vị nữ thần mắt xám nhảy ra từ đầu thần Zeus, rung cây thương nhọn hoắt của mình cho tới khi cả Olympus run rẩy, mặt đất rên rỉ than khóc, và những con sóng vùng lên mãnh liệt trên mặt biển đỏ sậm màu rượu vang”.

“Một đứa trẻ khó tính” Ben nói, và tôi phải cố nhịn cười.

Athenaide tảng lờ cả hai chúng tôi. “Trên hết” bà tiếp tục, “vào thời Phục hưng trong các tự điển Latinh - Anh vultus còn được giải nghĩa là ‘will’ bên cạnh ‘glance’ hay ‘expression’. Từ đó có thể dịch Vultus tela vibrat sang tiếng Anh, như các vị sẽ thấy, là ‘will shakes spears’”. Bà nhìn quanh với vẻ đắc thắng.

“Thật vậy sao?” Ben hỏi.

“Đúng vậy” bà đáp với nụ cười tinh quái. “Một câu chơi chữ Latinh nho nhỏ, dành cho một người đàn ông có khẩu hiệu của gia đình cũng là một câu chơi chữ”.

Vẻ ngỡ ngàng của Ben làm tôi thấy khó chịu. “Một câu Latinh khó hiểu có thể là một câu chơi chữ mà cũng có thể không phải, được nói ra một thập kỉ trước khi Shakespeare công diễn vở kịch trên sân khấu, và mười lăm năm trước khi tên của ông xuất hiện trên một trang bìa, không phải là một bằng chứng. Đó chỉ là một sự trùng hợp”.

“Tôi không tin vào những sự trùng hợp” Athenaide nói, đi tới dừng lại trước bức chân dung Nữ hoàng. “Mặc dù, nếu nói tới sự trùng hợp, câu chơi chữ mà cô vừa bác bỏ đã được đọc to trước sự chứng kiến của Nữ hoàng tại Audley End. Dinh thự của gia đình Howard mà chúng ta đang tò mò muốn tìm hiểu”.

Điện thoại di động của bà lại đổ chuông, và bà lấy máy ra trả lời. “Oi, vì Chúa” tay bà nắm chặt lại. “Tôi sẽ tới ngay”. Bà tắt máy.

“Có chuyện gì vậy?”

“Giáo sư North đã không hề lên chuyến bay của mình. Nếu hai người thứ lõi, tôi phải ra ngoài một chút. Tôi sẽ quay lại trước khi Nicholas kịp trở lại đây”.

Ben vẫn đứng im trước cửa. “Lần sau nhớ quay lại một mình” anh ta dặn.

Đôi mắt bà quắc lên. “Tôi ý thức được sai lầm của mình, ông Pearl. Và sẽ không lặp lại. Tôi gửi lại những cuốn sách của cô trên bàn, Katharine. Cô có thể cảm ơn sau khi tôi quay lại”.

Anh ta dịch người sang bên, và bà bước ra ngoài.

“Cô biết gì về tay North này?” Ben vừa khóa cửa vừa hỏi.

“Ông ta viết một cuốn sách chứng minh rằng Oxford chính là Shakespeare. Ngoài ra tôi cũng không biết gì hơn những điều anh cũng đã nghe Matthew nói”.

“Nhưng ông ta là một giáo sư về Shakespeare?”

“Phải”.

“Vậy theo cô vì sao ông ta vắng mặt? Liệu có phải chỉ do tính nhút nhát không?”

“Nghe có vẻ phù hợp với mô tả về ông ta”.

“Và cũng phù hợp với những gì đã xảy ra với những giáo sư khác về Shakespeare”

Tôi ngồi phịch xuống ghế. “Anh nghĩ ông ta có thể là nạn nhân tiếp theo?”

“Tôi nghĩ cần phải xem xét tới khả năng này”. Anh ta nhấn mạnh. “Nhưng không phải chúng ta, Kate. Chúng ta cần phải suy nghĩ xem tiếp theo phải đi tới đâu. Cô có nghĩ đích đến tiếp theo sẽ là Henley-in-Arden không?” Nhà của Ophelia?”

“Có lẽ vậy. Nếu không chính xác là Henley thì cũng đâu đó trên đất Anh. Nhưng tôi chỉ có thể biết rõ sau khi xem những thứ tiến sĩ Sanderson đang đi lấy”.

“Nước Anh có nghĩa là hộ chiếu. Danh tính mới. Tất cả nguy hiểm tại sân bày. Sẽ không dễ đâu”.

“Nhưng có thể?”

“Tôi cần chút thời gian”.

“Nhưng dù sao tôi vẫn cần xem qua lá thư”.

“Cô thấy sao nếu tôi để cô ở đây một lúc trong khi tôi đi thu xếp những thứ cần thiết?”

“Tôi không cần bảo mẫu hai mươi bốn giờ mỗi ngày và bảy ngày trong tuần. Nhưng anh có thể ra ngoài rồi quay trở lại không?”

“Nếu không phải tha theo cô thì có”.

“Vậy hãy đi đi”.

Anh ta đứng trước mặt tôi. “Không được mở cửa, Kate. Không mở cho Athenaide, Matthew cũng không, và tiến sĩ Sanderson cũng không”.

“Không mở cho ai hết” tôi đáp như một con vẹt.

“Cô có thể mở cho tôi” Anh ta mỉm cười.

“Nhưng làm thế nào tôi biết đó là anh?”

“Hai lần gõ chậm, ba lần gõ nhanh. Trừ khi cô có cách gõ cửa bí mật kiểu Shakespeare”.

“Hay ghê nhỉ”.

“Tôi sẽ quay lại ngay”. Thận trọng hé mở cánh cửa, anh ta lách ra ngoài.

Tôi đến bên những cuốn sách Athenaide đã mang tới. Chỉ có hai cuốn: bản sách bìa mềm in bắt chước bản gốc của cuốn Tuyển tập và tập sách của Chambers của thư viện Widener. Những lá thư vẫn ở yên chỗ tôi kẹp chúng vào - ngoại trừ việc có thêm một lá thư nữa. Athenaide đã kẹp vào thêm lá thư của Ophelia gửi cho Jem. Tôi lấy nó ra.

Ophelia có thể nói gì với Emily Folger? Tiến sĩ Sanderson bây giờ đang ở đâu? Sẽ mất bao lâu để kiểm kê xong cả bảy mươi chín bản sách? Bồn chồn không yên, tôi đành ngồi đọc lại những lá thư một lần nữa.

Tôi đang đắm mình vào câu chuyện về nhà Howard thì tiếng gõ cửa vang lên khiên tôi giật thót. Chỉ có một tiếng gõ duy nhất. Không phải ám hiệu rắc rối của Ben.

“Kate Stanley!” một giọng nam giới điềm tĩnh khẽ vang lên, và tim tôi đập như đánh trống. Đó là thám tử chánh thanh tra Sinclair.

Vội vàng kẹp những lá thư trở lại cuốn sách của Chambers, tôi cầm cuốn sách lên và lùi ra xa cửa.

“Tôi biết cô ở trong đó”.

Tôi hốt hoảng nhìn quanh. Cánh cửa trong góc đã được khóa trái. Cách duy nhất để thoát ra là cửa sổ, nhưng chúng không mở. Tôi cần phải phá vỡ một trong số chúng.

“Hãy nghe tôi nói đây, cô Stanley” Sinclair nói. “Tôi biết cô không phải là tên sát nhân, nhưng FBI nghĩ khác. Họ đang truy tìm cô, và trước hết họ sẽ tóm lấy cô trói gô lại rồi mới hỏi chuyện sau. Nhưng nếu cô hợp tác với tôi, tôi sẽ để cô tự do tìm kiếm thứ cô đang muốn tìm”.

“Bằng cách nào?” tôi hoảng hốt nhận ra mình đã vô thức hét to lên.

“Bây giờ hãy đi với tôi, và tôi sẽ đưa cô lên một chiếc máy bay tới Anh trong nửa giờ nữa”.

Nước Anh. Đúng nơi tôi cần phải tới. Tới Henley-in-Arden, gần Stratford. Nhưng tôi không thể chắc chắn cho tới khi tiến sĩ Sanderson quay lại với lá thư. Ông ta đang ở đâu?

“Tôi sẽ đảm bảo chắc chắn cho sự hợp tác của cô, Kate”.

Sinclair không có quyền tư pháp nào trên đất Mỹ. Ông ta không thể đảm bảo cho những lời hứa hay tạo sức nặng cho những lời đe dọa của mình. Tất nhiên nếu đó không phải là một trò bịp. Và nếu đúng vậy, điều ông ta đang đề nghị chắc chắn vừa bất hợp pháp vừa trái nguyên tắc, phá hoại một cuộc điều tra tội phạm trên lãnh thổ chủ quyền của một quốc gia khác. Điều gì khiến ông ta đưa ra một đề nghị như vậy? Điều gì khiến ông ta cần đến thế? “Giá của ông là gì?” tôi hỏi.

“Gã khốn kiếp đó đã đốt cháy một di sản quốc gia vào đúng phiên trực của tôi” ông ta bực bội đáp. “Tôi muốn tóm hắn. Cô giúp tôi, và tôi sẽ giúp cô”.

Tôi liếc nhìn cánh cửa ở góc. Tiến sĩ Sanderson đang ở đâu? Ben đang ở đâu? “Tôi cần một chút thời gian”.

“Cô không còn thời gian đâu. FBI vẫn đang truy lùng cô ở New Mexico. Nhưng khi họ chấm dứt cuộc điều tra đó, họ sẽ đi đến cùng một kết luận như tôi – cô đã bằng cách nào đó lên chiếc máy bay của bà Preston”.

“Không” không có lá thư tôi sẽ không đi đâu hết.

Cánh cửa hơi rung lên, và tôi lại lùi lại. Đặt những cuốn sách lên bệ một cửa sổ, tôi lấy chiếc ghế kê cạnh bàn, sẵn sàng ném. Nếu bất cứ ai lao qua cửa, ít nhất tôi sẽ thử cố thoát qua cửa sổ.

“Cô không thể tự mình chạy trốn mãi” Sinclair nói. “Theo nhìn nhận của tôi, cô và tên sát nhân đang lần theo cùng một thứ, có nghĩa là mối đe dọa từ hắn ta với cô còn nguy hiểm hơn từ cảnh sát”.

“Tôi biết, cảm ơn ông. Hắn ta ít nhiều cũng đã bảo tôi như vậy”.

“Cô đã nói chuyện với hắn?” Giọng ông ta thoáng vẻ tò mò.

“Hắn đã nói với tôi”.

“Cô nhận ra hắn không?”

“Không”.

Bên ngoài im lặng một lát. “Thế cô biết anh chàng đang đồng hành với mình nhiều đến đâu?”

“Đủ để biết hắn không phải là anh ta, nếu đó là điều ông muốn nói”.

Vẻ gấp gáp của ông ta càng khẩn trương hơn. “Vậy thì còn ai khác có thể gây ra vụ ở Utah?”

“Kẻ nào đó đã bám theo chúng tôi”.

“Cô thấy ai à?”

Trong góc, tôi nghe thấy cánh cửa mà tiến sĩ Sanderson dùng để rời khỏi phòng được mở khóa và thấy nó mở ra với cảm giác vừa sợ hãi vừa hi vọng. Liệu có phải là Sanderson không? Hay FBI? Tôi siết chặt lấy chiếc ghế đang cầm trên tay.

Đó là Athenaide. Đặt ngón tay lên miệng ra dấu im lặng, bà vẫy tôi đi theo.

Phía bên ngoài cánh cửa trước, Sinclair tiếp tục: “Đó là một người có thể quan sát cô từ rất gần, Kate. Chắc chắn là một người mà cô biết”

Không, tôi nghĩ. Tôi không tin điều đó. Và tôi theo Athenaide đi qua cửa.

Đằng sau khung cửa đó là phòng làm việc bày đầy đồ cổ của tiến sĩ Sanderson. Chân dung của những người đàn ông mặc áo chẽn treo kín ba bức tường. Trên bức tường còn lại, những khung cửa cao gần bằng những chiếc cửa ra vào kiểu Pháp mở sang một căn phòng kính hẹp bày đầy cây và dụng cụ trồng và chăm sóc chậu cây cảnh. Cửa sổ ở giữa mở toang.

Bên ngoài sảnh, tôi nghe thấy tiếng đập rầm rầm lên cửa phòng Các sáng lập viên.

“Đến lúc phải đi rồi” Athenaide nói. Bà trèo qua cửa sổ, hướng tới một khung cửa nhỏ nằm trên bức tường đối diện của căn phòng trồng cây. Tôi theo sau.

Cánh cửa mở ra, và trong chớp mắt tôi đứng trước một hành lang với những chiếc tủ đựng thẻ tra cứu xếp thành hàng. Bên tay trái tôi, một đám đông đang nhộn nhọp cung li chúc tụng, và mất một lúc tôi không biết mình đang ở đâu. Rồi tôi để ý thấy thảm trải màu xanh rêu và chợt nhận ra.

Chúng tôi đang ở trong hành lang nối giữa hai nửa của phòng đọc chính, phòng cũ và phòng mới. Không những chưa rời xa được thư viện mà tôi đã chui sâu và đúng nơi được bảo vệ chặt chẽ nhất.

Đám đông khiến tôi bật lùi lại. Và tôi nhận ra chuyện gì đang diễn ra. Buổi tiếp tân của hội nghị đã bắt đầu.

“Đi thôi” Athenaide thì thầm. “Hãy tận dụng đám đông”.

“Nhưng còn tiến sĩ Sanderson” tôi phản đối. “Bức thư”.

“Chính ông ta nhờ tôi đến tìm cô” Athenaide nói. “Cô cần gặp ông ta trong nửa giờ nửa, cách đây hai khối nhà về phía tây. Ông ta nói chỗ đó có tầm nhìn rất đẹp theo hướng tây. Cô sẽ biết khi tự mình trông thấy”.

“Tuyệt lắm, Athenaide. Tất cả những gì tôi phải làm là rảo bước qua vành đai sắt của FBI”.

“Tôi khuyên cô nên dùng cửa trước” bà ta nháy mắt nói. “Vì cô đã gây ra ầm ĩ ở đằng sau. Có các nhân viên phục vụ mặc trang phục thời Phục hưng đang phục vụ champagbe ngoài bãi cỏ. Cô sẽ tìm thấy một dãy trang phục bày gần lối vào chính ở đại sảnh. Hãy mượn một bộ”.

“Nhưng còn Ben…”

“Tôi sẽ cho anh ta biết cô ở đâu. Giờ hãy đi đi”.

Bà ta khẽ đẩy tôi, và tôi bước vào phòng đọc cũ. Trong đó không chỉ có một đám đông, mà đúng ra là nhồi chật ních người.

Trên đầu đám đông, ánh sáng chiếu xuống được lọc qua thủy tinh màu. Nhiều giọng tiếng Anh khác nhau vang lên, bên cạnh những câu tiếng Đức, Nhật, Pháp, và Nga. Ở đâu đó một nhóm tứ tấu đang hát những bản madrigal. Tôi xô phải một người mặc đồ phù thủy - có thể là vị phù thủy tối cao - và tiếp tục đi.

Từ phía bên kia căn phòng có ai đó gọi tên tôi.

Lao lên trước tôi, Athenaide nhanh nhẹn chạy lên một dãy lan can chạy vòng quanh cả căn phòng. Cúi người qua lan can, bà bấm một chiếc chuông với tiếng kêu chói tai.

Mọi người cùng dừng lại ngước nhìn lên.

“Tôi muốn chào mừng tất cả quý vị” bà bắt đầu nói.

Nhẹ nhàng luồn lách qua đám đông, tôi đi về phía một lò sưởi cao chạm trổ. Qua lò sưởi, tôi tới cửa ra vào kiểu Pháp dẫn sang đại sảnh đối diện và lách qua. Cũng được ốp ván gỗ như phòng đọc chính, khu sảnh có diện tích rộng hơn chừng năm sáu lần, với trần cao có vòm chống. Bình thường, đây là khu trưng bày - phần thư viện mở tự do cho công chúng. Nhưng tối hôm đó xả sảnh kê đầy những chiếc bàn phục vụ cho bữa tối thịnh soạn. Tôi băng qua chúng về phía cửa hàng bán đồ lưu niệm và cửa mở ra đường.

Ở góc xa, đúng như Athenaide đã nói, có một dãy manocanh mặc trang phục thời Shakespeare. Không phải trang phục thời Phục hưng thực sự, nhưng là trang phục sử dụng trong vài tuyệt phẩm của Hollywood dựa theo tác phẩm của Shakespeare. “Từ bộ sưu tập của Athenaide Dever Preston” biển hiệu ghi như vậy.

Ở giữa phía trước là một manocanh mặc trang phục Hamlet. Cần một cú giật nhanh để lôi chiếc áo khoác Đan Mạch đen như mực từ vai manocanh và một động tác nhẹ nhàng nữa để quàng nó lên vai tôi. Tôi ló đầu qua cửa. Ở bên trái, phía cuối sảnh chính, căn phòng Các sáng lập viên đang đông chật người.

Kẹp chặt lấy mấy cuốn sách, tôi quay sang phải, đẩy cánh cửa kính bước ra sân cỏ, nơi những người mặc trang phục thế kỉ mười sáu đang mang champagne để trên khay bạc đi phục vụ những người của thế kỉ hai mươi mốt. Quấn chiếc áo khoác quanh mình, tôi đi xuyên qua đám đông. Vừa lúc đó có một nhóm người đi qua trước thư viện, tôi bước tới gia nhập vào họ, rảo bước nhanh nhất có thể hướng tới đườn Capitol.