Chương 27
Hôm đó là một ngày nóng và ẩm. Vào lúc nhá nhem, cái nóng vẫn còn oi bức khó chịu, nhưng ít nhất vẫn có một làn gió nhẹ thổi hây hẩy. Nhưng dươi chiếc áo choàng, trang phục của tôi ẩm ướt dính sát vào người.
Đầu cúi xuống, tôi căng tai ra nghe xem có tiếng bước chân bám theo không. Về bên trái, tôi đã đi qua thư viện Quốc hội, tương ứng với tòa án tối cao ở bên tay phải. Tôi không nghe thấy ai theo sau. Gỡ chiếc áo choàng khỏi vai, tôi nhìn lên. Trước mặt tôi là một khoảng không rộng mênh mông với những bãi cỏ xanh, những công trình bằng đá cẩm thạch và các rào chắn an ninh, đằng sau nhô lên mái vòm của tòa nhà Quốc hội.
Cách hai khối nhà về phía tây, tiến sĩ Sanderson đã nói với Athenaide như vậy. Tầm nhìn rất đẹp theo hướng Tây. Tôi chợt cảm thấy có thiện cảm với ông ta trong lúc đi quanh theo mặt nam tòa nhà Quốc hội, vội vã đi dọc lối đi bằng xi măng có rắc sỏi dưới những tán cây du và cây thích. Không khí ở đây mát mẻ hơn, hay ít nhất tôi cũng cảm thấy như vậy khi lắng nghe tiếng gió luồn qua tán cây xào xạc.
Từ mặt trước của nhà Quốc hội nhìn về phía tây là một trong những tầm nhìn đẹp nhất Washington. Cây cột của Washington Monument màu trắng nổi bật trên đường chân trời, trong khi mặt trời xuống thấp mờ dần. Những giai điệu của Sousa vui vẻ vọng đến từ một ban nhạc bên kia mặt nước. Dù sao tôi vẫn thích hơn khung cảnh ồn ào huyên náo của New York hay Lodon, nơi sự hỗn độn của hiện tại va chạm một cách vui vẻ với quá khứ, thay vì đứng yên lặng. Nhưng tôi cũng phải thừa nhận rằng đại lộ Mall thật duyên dáng trong sự yên ả của một buổi hoàng hôn mùa hè.
Tôi nhìn qua những khối cẩm thạch và dải vỉa hè phía trước nhà Quốc hội. Với một chiều cuối tuần đúng dịp mồng 4 tháng Bảy quang cảnh xung quanh vắng lặng lạ thường, ngoại trừ vài cặp yêu nhau đang đi dạo, và vài người khác vội vã chạy đi đâu đó, đầu cúi gằm. Nhưng giờ này đã quá muộn cho những tua tham quan, còn phần lớn các công chức đã trở về nhà. Và vẫn còn quá sớm - và quá nóng - cho phần lớn hoạt động của cuộc sống về đêm. Những người ít ỏi có mặt đang xúm quanh một ban nhạc.
Không thấy tiến sĩ Sanderson đâu, nhưng tôi đến hơi sớm. Tôi quay lại bước lên các bậc thang giữa những cây cọ trồng trong chậu, ngước mắt nhìn lên mái vòm màu trắng ngự trị trên đỉnh đồi. Đến bậc thang cuối cùng, tôi quay lại ngắm nhìn thành phố với hai gam màu chủ đạo xanh lục và trắng.
Bên dưới, về phía trái, dưới hàng lan can, bóng tối bắt đầu lan ra dưới những khóm mộc lan mọc bên sườn đồi – một vài đóa hoa nở muộn vẫn còn lưu lại như những mặt trăng nhỏ xíu trên nền thẫm của lá cây. Tôi bước xuống cầu thang về phía những lùm cây. Được nửa đường, có gì đó động đậy ở lùm dương xỉ diều hâu phía dưới làm tôi chú ý.
Tôi bước một bước lại phía đó, rồi một bước nữa. Phía xa bên dưới, trên nền đất tối sẫm như thể dưới đáy hố sâu, có một người đang nằm sõng soài ra giữa lùm dương xỉ.
“Xin chào?”
Không có ai trả lời. Tôi vội vã chạy xuống, vòng theo dãy lan can bằng cẩm thạch, rón rén bước lên sườn dốc vào bóng tối dưới những tán cây. Ở đây màn đêm đã hoàn toàn buông xuống, và tôi dừng lại đợi cho mắt mình kịp thích nghi. Một người đàn ông nằm như thể đang ngủ trên mặt đất. Tôi bước lại gần hơn. Một người đàn ông với mái tóc hoa râm và một chiếc nơ bướm màu đỏ.
Vứt chiếc áo choàng, tôi chạy vội đến bên ông. Tiến sĩ Sanderson nằm sõng soài trên mặt đất, bị đâm nhiều nhát đến mức tôi không thể đếm xuể. Cổ họng ông bị rạch đứt và há ra như một chiếc miệng thứ hai đang hé mở ngay bên dưới chiếc nơ bướm. Tôi nghe tiếng nhặng bay vo ve, và mùi máu tanh thoang thoảng bao quanh tôi. Ruồi đã bắt đầu bâu lại trên người ông. Trong lúc gập người xuống nôn ọe, tôi thấy bàn tay của ông vẫn nắm chặt một tờ giấy bị vo lại. Tôi cúi xuống nhìn.
Một tấm chụp ụp xuống đầu tôi, và tôi bị vật ngã ra đất.
Những cuốn sách rơi khỏi tay tôi, tôi bị nghẹt thở, không thể kêu lên được. Sau đó kẻ tấn công ngồi đè lên người tôi, nhét một chiếc khăn vào miệng tôi, bẻ quặt hai tay tôi ra sau lưng, và nhanh chóng trói hai khuỷu tay tôi lại. Một bàn tay lần xuống dưới lách vào giữa hai chân tôi.
Lấy hết sức, tôi lăn người hất hắn ra khỏi mình. Tôi nhổm lên quỳ trên hai đầu gối, nhưng hắn đã tóm được tôi, và quật tôi ngã xuống trở lại. Đầu tôi đập xuống đất mạnh đến mức hai mắt tôi hoa lên.
Tôi nằm im suy nghĩ. Mình không thể ngất bây giờ được. Ánh sáng nhạt dần, và tôi vẫn còn tỉnh. Tôi nằm đó không động đậy, suy nghĩ. Có vẻ hắn đang đứng ngay phía trên tôi. Hắn đang làm gì? Tôi không thể nhìn thấy gì qua tấm vải trùm trên đầu mình, và tệ hơn, tôi không nghe thấy gì ngoài hơi thở khe khẽ của hắn. Những con dao, tôi thầm nghĩ, không gây ra tiếng động nào sau khi đã được rút khỏi vỏ.
Hắn cúi xuống ngồi lên người tôi, và tôi thúc hai đầu gối lên mạnh nhất có thể.
Tôi nghe thấy một tiếng kêu đau đớn, và hắn nặng nề đổ gục xuống bên cạnh. Hi vọng đã đánh trúng chỗ hiểm của hắn, tôi lăn người đi. Tôi cảm thấy những chiếc lá cọ vào người mình – có vẻ tôi đang lăn người qua một bụi cây.
Tôi nghe thấy kẻ tấn công mình lảo đảo đứng dậy và nặng nề bước vài bước. Sau đó chỉ còn sự im lặng.
Tôi nằm im, hầu như không dám thở.
Sự im lặng vẫn tiếp tục.
Rồi tôi nghe thấy tiếng bước chân lại gần.
“Kate!” một giọng nói vang lên. Ben.
Tôi nghe thấy nhiều tiếng bước chân lẫn vào nhau, một số lại gần, một số rời xa.
“Kate” Ben lại gọi.
Tôi cố hét lên to nhất có thể với chiếc khăn trong miệng để trả lời. Có tiếng sột soạt, rồi hai bàn tay chạm vào tôi. Chiếc khăn chụp đầu được gỡ, chiếc khăn bịt mồm được móc ra khỏi miệng, và Ben đã ở bên cạnh, cởi trói tay cho tôi trong lúc tôi vừa ọe vừa há hốc mồm ra thở dốc.
“Dưới kia ổn cả chứ?” Một giọng trầm trầm, quen thuộc với việc ra lệnh, từ trên vọng xuống. Một bóng người đứng trên bậc tam cấp từ nhà Quốc hội, cúi đầu qua lan can nhìn xuống dưới như tôi đã làm.
Bên kéo tôi vào trong bóng tối.
Một tia sáng lướt đi trên mặt đất, quét qua tiến sĩ Sanderson rồi lập tức quay lại. Tôi nhìn thấy một vật màu trắng ngà. Lá thư vẫn nằm trong tay tiến sĩ Snaderson.
“Jesus” người đứng phía trên kêu lên. Tiếng bước chân nặng nề chạy vội xuống bậc tam cấp.
Lôi cả Ben theo mình, tôi lao vọt tới bên tiến sĩ Sanderson, cố gắng không nhìn vào vết rạch toang hoác trên cổ ông. Bàn tay ông đã lạnh ngắt và cứng lại. Tôi cố móc lá thư ra khỏi bàn tay nắm chặt của ông. Nó được bọc xung quanh vật gì đó rất cứng.
Tôi quay lại nhặt những cuốn sách của mình lên. Ben cũng quỳ một gối xuống giúp tôi. Những lá thư tôi kẹp trong cuốn sách của Chambers vẫn còn nguyên: ghi chú của Roz, lá thư Granville gửi Child và lá thư của Ophelia gửi cho Granville.
Giọng bình thản, điềm tĩnh, Ben lên tiếng. “Đây là cơ hội để cô chứng minh sự vô tội của mình với cảnh sát” anh ta khẽ nói. “Nếu cô ở lại”.
“Chỉ sau khi tôi đã đọc lá thư”.
“Tới lúc đó có thể quay lại sẽ không dễ đâu”.
“Lá thư”.
Ben gật đầu và nắm lấy khuỷu tay tôi, kéo tôi lùi sâu hơn vào bóng tối dưới lùm cây đúng lúc viên cảnh sát xuống tới chân bậc tam cấp. Băng qua sườn đồi, chúng tôi chui ra khỏi lùm mộc lan xuống lối đi chạy vòng quanh mặt nam của nhà Quốc hội. Vội vã băng qua vỉa hè, chúng tôi lao đi trong bóng đêm dưới những hàng cây cao trong công viên - du, tần bì, sồi - về phía đại lộ Independence. Phía sau, tôi nghe thấy tiếng máy radio kêu lạo xạo khi viên cảnh sát gọi tiếp viện.
Gần đó, còi xe cảnh sát bắt đầu rú lên.
Vọt qua đường chạy tới phía lối vào tòa cao ốc Rayburn, Ben vẫy một chiếc taxi, chúng tôi lên xe đi nhanh tới khu lân cận đồi Capitol. Sau khi đã đi qua vài khối nhà theo hướng đông rồi hướng bắc, chúng tôi xuống xe. Quàng chặt tay vào tay tôi, Ben bắt đầu hối hả đi ngược phố. Tôi cố để ý xem chúng tôi đang đi đâu, nhưng trước mặt tôi luôn hiện lên khuôn mặt tiến sĩ Sanderson lwo lửng trong màn đêm, vết rạch khủng khiếp trên cổ há hoác ra thành một tiếng kêu thét câm lặng. Loạng choạng lao vào bên đường, tôi khổ sở nôn vào hàng cây của một nhà nào đó.
Khi cơn chóng mặt của tôi đã qua, Ben choàng chiếc áo khoác của anh ta lên người tôi và đưa tay ôm qua vai tôi.
“Một cái chết thật kinh khủng” anh ta nói.
“Đó là một vụ giết người” tôi làu bàu. “Ông ấy bị biến thành Ceasar ngay sát bậc thềm Capitol”.
“Phải”.
Anh ta không tìm cách xin lỗi, an ủi hay nói lảng, và điều đó làm tôi thực sự cảm thấy biết ơn Ben. Tôi cũng thầm cảm ơn anh ta vì cánh tay đang ôm lấy vai tôi. Trong bóng đêm đang mỗi lúc một buông dày, sự có mặt của anh ta là điều duy nhất khiến tôi cảm thấy an toàn. Tôi chớp mắt gạt những giọt nước mắt còn nóng hổi và chúng tôi im lặng bước đi một quãng dài. “Tôi nghĩ” - tôi nuốt nước bọt một cách khó khăn - “Tôi nghĩ ông ấy cũng là Bassianus”.
“Ai cơ?”
“Người yêu của Lavinia. Cổ họng anh ta cũng bị cắt đứt và thi thể bị quăng xuống một chiếc hố trong rừng trước khi… trước khi cô gái bị cưỡng bức và hành hạ”.
Ben siết lấy tôi chặt hơn. “Hắn có…?”.
“Không”. Nhưng nơi bàn tay hắn chạm vào giữa hai chân tôi vẫn còn bỏng rát. “Chúng ta đi đâu bây giờ?”
“Tôi đang triển khai một kế hoạch, Kate, và nếu cô không đi gặp cảnh sát, điều tốt nhất chúng ta có thể làm là đi tới cùng”.
Tôi gật đầu, và chúng tôi đi qua thêm một khối nhà nữa rồi rẽ phải. Đi thêm ba mét, Ben bước lên mở cánh cổng sắt trước ngôi nhà nằm ở góc đường - ngôi nhà sơn màu xanh thẫm theo phong cách thời Nữ hoàng Anne với những đầu hồi và tháp, hoa văn hình hoa hồng bao quanh các cột trang trí, và một chiếc đu bên cửa vòm phía trước. Vẫn nắm lấy tay tôi, anh ta dẫn tôi đi qua vườn tới cửa trước. Cánh cửa đã hé mở. Chúng tôi bước vào trong, Ben đóng ngay cửa lại; lẫy khóa sập xuống với một tiếng tách.
Ngôi nhà tối om, trừ một ngọn đèn bàn làm bằng sứ ở tiền sảnh, nhưng Ben cả quyết kéo tôi đi trên những tấm thảm phương Đông qua một cầu thang dốc, băng qua phòng khách vào bếp ở phía sau nhà.
“Theo tôi hiểu anh quen chủ nhà?”
“Hiện không có nhà”. Đặt hai cuốn sách lên bàn bếp, anh ta bật đèn. “Cô ngồi xuống đi” anh ta nói, và tôi ngồi xuống. “Tôi tới bồn rửa”. Đây là lần đầu tiên anh ta buông tôi ra kể từ lúc anh ta nâng tôi dậy từ bụi cây bên đường. Tôi nhìn theo như sợ anh ta sẽ biến mất.
Tìm kiếm trong các ngăn kéo, anh ta tìm thấy một chiếc khăn sạch và bắt đầu mở vòi nước trong bồn rửa thấm ướt nó.
Tôi cố dằn cơn hoảng loạn xuống. “Người ta luôn không có nhà khi anh muốn sao? Và để cửa mở?”
Anh ta quay lại mỉm cười. “Còn phụ thuộc vào mối quan hệ tốt đẹp tới đâu. Nhưng đúng là không dễ đâu. Đây là một phần kết quả từ việc tôi đã cố gắng liên hệ với mọi mối quan hệ có thể nghĩ ra được để dàn xếp trong suốt một giờ vừa qua.”
Ngồi gục mặt xuống chiếc bàn, tôi thả lỏng hai nắm tay ra. Tờ giấy tôi vẫn giữ khư khư trong tay rơi ra; vật gói trong tờ giấy rơi ra mặt bàn cạch một tiếng. Một chiếc trâm cài áo màu đen có sơn trang trí hình những bông hoa rất tinh xảo. Bản gốc của chiếc trâm tôi đang cài trên áo. Liệu nó còn đó không? Tôi đưa tay lên vai.
Chiếc trâm vẫn còn đó.
Trên mặt bàn, đôi mắt tôi chợt bị thu hút vào tờ giấy dính máu đã ngả màu nâu. Đó là một lá thư từ năm 1932, nhưng kiểu chữ viết thuộc về một thời kì trước đó. Chữ kí là của Ophelia.
Một câu, được gạch chân hai lần, nằm giữa tờ giấy, tách rời khỏi phần còn lại.
Cô Bacon đã đúng . Ophelia viết. Đúng hết lần này tới lần khác .
Sàn nhà như đột nhiên sụt xuống dưới chân tôi. Nếu Delia Bacon đúng, William Shakespeare người Stratford không phải là tác giả của những vở kịch.
“Ôi, Chúa ơi” có ai đó nói thành tiếng, và tôi nhận ra đó là giọng nói của chính mình.
Khoảng ngưng
Ngày 3 tháng Năm năm 1606
Bên mặt tây nhà thờ Thánh Paul, dưới những bức tượng các nhà tiên tri đã cũ nát, một người phụ nữ ngước mắt nhìn hai người đàn ông đang ngồi trên khán đài gỗ ở phía đối diện của đài hành hình. Đằng sau họ, tàn tích với những đường viền răng cưa của tháp nhà thờ, bị phá hủy bởi sét trong một cơn bão nửa thế kỉ trươc, lởm chởm đâm lên bầu trời buổi sáng.
Mặc ngoài xiêm y chiếc áo choàng màu nâu xám trơn, chiếc mũ trùm được kéo xuống che kén mái tóc đen nhánh, cô đã bí mật đi theo sau hai người đó từ ngôi nhà của Shakespeare tới tận nhà thờ nằm bên sườn đồi. Đường phố rất đông người nên việc bám theo họ không khó như cô lo lắng, mặc dù hai người cô theo dõi cưỡi ngựa còn cô đi bộ.
Nếu cô muốn, cô cũng có thể có một chỗ tại các khán đài ngồi mới được vội vã ráp lại để nâng những người có địa vị và giàu có lên trên đám đông lộn xộn. Thay vào đó, cô đã chọn đứng giữa những người bốc vác, thợ học việc, những đứa trẻ lạc và chó, các cô hầu, và những kẻ ăn xin đang đứng chật các khoảng trống giữa những khán đài ngồi, xô đẩy nhau cố tìm cho mình vị trí tốt để quan sát cảnh tượng sắp diễn ra. Sân nhà thờ đã đông đến mức chỉ còn chỗ mà tầm nhìn tới đài hành hình đã bị che khuất, nhưng cô cũng không quan tâm. Cô không tới để xem cuộc hành hình. Cô đến để quan sát những người tới xem. Chính xác hơn là hai người trong số này.
Cô nghe thấy tiếng nhốn nháo sau lưng, và tiếng trống vang lên ảm đạm. Những tiếng huýt sáo và chế giễu vang lên đinh tai nhức óc. Phía tay trái, đám đông rẽ ra và ba con ngựa đi ngang hàng sát cạnh nhau chậm rãi đi vào giữa vòng cung những kẻ tò mò, kéo theo sau một tấm phên đan bằng liễu gai, trên tấm phên có một người bị trói đang ngồi.
Cha Henry Garnet, cha bề trên của dòng Jesuit tại Anh. Người tu sĩ mà chính quyền đã chọn làm vật tế thần cho vụ Phản nghịch thuốc súng , một kế hoạch ma quỷ dự định cho nổ tung vị vua mới đăng quang, gia đình hoàng gia cùng toàn bộ hai viện, chưa kể những người ngoài cuộc vô tội khác nhân dịp nhà vua khai mạc phiên họp nghị viện mới tháng Mười một năm trước. Nếu thành công, vụ nổ chắc hẳn sẽ phá hủy phần lớn Westminter và cũng có thể đã bắt nước Anh phải quỳ gối.
Cô gái quan sát những khuôn mặt trên khán đài - già có trẻ có, với vẻ tò mò háo hức hay lo lắng - với những bộ trang phục trang nhã bằng satin và nhung. Những người đáng lẽ có thể đã chết trong một trận bão lửa, ngập trong máu và nỗi kinh hoàng, nếu những kẻ dự mưu thành công trong việc kích nổ chỗ thuốc súng chúng đã bí mật giấu dưới tầng hầm phòng họp nghị viện. Cô gái nhận ra các thẩm phán, các thành viên hội đồng, các huân tước, và một hay hai giám mục. Xen giữa họ là những nhân vật có thân phậm kém cao quý hơn nhưng đủ giàu có để mua cho mình một địa vị được tôn trọng. Các luật sư và thương gia, chủ đất và mục sư. Thậm chí cả một thi sĩ. Cô cũng nhận thấy gia đình Howard có mặt rất đông đủ, đứng đầu là bá tước Northampton, theo sau là bá tước Sufolk và con trai, huân tước trẻ Howard de Walden, xúm quanh là đám gia nhân mặc chế phục màu vàng.
Bị lôi khỏi tấm phên, tu sĩ yêu cầu được có một nơi yên tĩnh để cầu nguyện. Đáp lại, một quan chức triều đình mặc đồ đen bắt đầu mắng nhiếc kẻ xấu số, yêu cầu ông ta hãy xưng tội. Tu sĩ bình thản từ chối, cho rằng mình không có gì để nói cả.
Cô gái không để ý gì đến cuộc cãi vã. Ở phía đối diện, Will bị cuốn hút bởi giọng nói hiền từ của người tu sĩ. Trông thấy sự sợ hãi và thành kính biểu hiện trên gương mặt của chàng thanh niên, cô gái không hề nhận ra tiếng la hét của đám đông nhỏ dần rồi im hẳn.
Rồi cô gái nhìn thấy điều cô cần phải nhìn. Dưới chân đài hành hình, tu sĩ giúp đao phủ lột áo choàng của mình ra để lộ chiếc áo sơ mi, những đuôi áo dài được khâu vào nhau trong một nỗ lực vụng về nhằm thể hiện sự khiêm nhường. Ngoan ngoãn như một đứa trẻ, ông ta chấp nhận chiếc thòng lọng quàng quanh cổ mình, nhưng khi một mục sư bước tới đề nghị cầu nguyện cho ông ta theo nghi lễ Tinh lành, người tu sĩ Jesuit cương quyết từ chối. Tiếng trống tiếp tục đổ nhịp theo từng bước chân của nạn nhân bước lên đài hành hình.
Lên đến nơi, tu sĩ cầu nguyện một lát bằng tiếng Latinh. Nhịp trống dồn dập thúc nhanh thành tràng liên tục. Lúc này, một số người mới đây thôi còn gào thét đòi nợ máu giờ đã khóc nức nở. Người tu sĩ khoanh hai tay trước ngực. Đại diện của nhà vua gật đầu. Tiếng trống im bặt, và đao phủ hất chiếc thang đi, thân hình tu sĩ rơi xuống.
Phía dưới, đám đông xô đẩy nhau nhích lại gần đài hành hình, kéo theo cả cô gái. Một số người giữ đao phủ kéo ra sau, hô lớn: “Giữ! Giữ!” Một số khác thương tình kéo chân tu sĩ xuống để giúp rút ngắn giây phút đau khổ của ông. Đáng ra tu sĩ sẽ bị tháo xuống khỏi thòng lọng khi vẫn còn sống, nhưng khi lính ngự lâm chen tới được chỗ kẻ bị hành hình bằng cách dùng roi gân bò và sống gươm để rẽ đám đông ra thì người tu sĩ đã chết.
Đám đông sợ sệt lặng lẽ lùi lại trong khi những kẻ chuyên hành hình tử tôi bắt tay vào việc. Mùi xú uế nồng nặc như bốc ra từ lò sát sinh ngập ngụa trong mũi khiến cô gái lảo đảo, mắt nhắm nghiền lại. Cô gái cố gắng mở mắt ra một cách nặng nhọc, buộc mình quay trở lại với mục đích ban đầu khi có mặt tại đây.
Trên khán đài, bá tước Northampton nhìn cảnh mổ bụng kẻ tử tội với sự quan tâm tỉ mỉ. Những lí lẽ dùng để truy tố buộc tội cha Garnet đều do ông ta đề xướng. Ngay khi cảnh tượng đẫm máu ghê rợn này kết thúc, ông ta sẽ quay sang nhiệm vụ tường thuật lại để bố cáo rộng rãi cho công chúng.
Cha Garnet đã thừa nhận ông biết âm mưu ám sát bằng thuốc súng nhưng không làm gì để ngăn chặn. Ông không thể, người tu sĩ luôn khẳng định: ông đã biết được chuyện này trong bí mật thiêng liêng của lời xưng tội. Bá tước đã bác bỏ ngay lập tức lập luận tự bào chữa này. Ông ta nhấn mạnh rằng cha Garnet đã lên kế hoạch cho toàn bộ âm mưu.
Lời cáo buộc này không đúng, bá tước biết rõ. Nhưng cần phải nói vậy, và nói một cách thật thuyết phục, để chứng minh lòng trung thành của ông ta trước những lời xì xào không ngớt rằng ông ta không những là người Thiên chúa giáo mà còn lè kẻ có cảm tình với Tây Ban Nha. Đất nước này đang cần thỏa mãn cơn khát báo thù, và để tránh việc công chúng quan sát một cách nghi ngờ gia đình Howard hay những đồng minh của họ trong các gia đình Thiên chúa giáo lâu đời khác, bá tước đã cho họ một kẻ thế thân để kết tội.
Cha Garnet đã bị hi sinh để cứu những người khác. Hơn ai hết, chính vị tu sĩ phải hiểu điều này.
Bá tước khịt mũi. Ông ta đã làm hoàn hảo phần việc của mình. Thật tiếc là những kẻ thi hành cuộc hành hình đã không làm được như vậy với phần việc của chúng. Bá tước đã dặn trước không được để người tu sĩ mở miệng.
Trên bục hành hình, gã đao phủ nhúc nhích. Nắm tay hắn giật thẳng lên, lôi quả tim người tu sĩ khỏi lồng ngực, và một dòng máu vọt ra bắn xuống phía đám đông bên dưới. Ở khán đài đối diện đài hành hình, một chàng trai trẻ tóc vàng vội vàng đưa tay lên che mặt, và một giọt máu duy nhất rơi trúng ve tay áo của anh ta thành vệt đỏ chói. Khuôn mặt chàng trai trắng bệch.
“Hãy xem trái tim!” gã đao phủ hô lớn - dấu hiệu cho tiếng hò reo thỏa mãn của đám đông. Nhưng không có tiếng hò hét nào hết. Nhìn chàng thanh niên kinh hoàng mở to mắt nhìn chằm chằm vào vết máu trên tay áo, đám đông khẽ thì thầm với nhau một cách ủ ê.
Viên bá tước già nhìn kĩ hơn chàng thanh niên. Ông ta nhận ra ngay người đứng bên cạnh chàng trai, nhưng bá tước nghĩ có lẽ ông cũng nhận ra chính người thanh niên này. Một anh chàng nhà Shelton, không thể nhầm được. Mặc dù ông không thể nhớ chính xác tên chàng trai. Nhưng là một người mang họ Shelton, đương nhiên có thể coi chàng trai này là người của gia đình Howard. Bá tước cúi xuống nói với cháu mình, Theophillus, và một trong những thành viên còn lại của anh em nhà Shelton bắt đầu lách người qua đám đông tới tìm người em trai của mình.
Trong lúc đó, Northampton phá vỡ sự im lặng nặng nề. “Hãy xem trái tim!” ông ta hô lớn, giọng ông ta quật mạnh vào mọi người. Khuôn mặt đầy vẻ nghiêm trang, bá tước nhìn thẳng vào chàng trai trẻ.
Để chuộc tội cho việc hi sinh cha Garnet, ông ta đã tự thề sẽ hiến dâng sự bù đắp. Nếu một tu sĩ đã phải chết cho sự toan tính của ông ta, ông ta sẽ tìm cách để một người khác gia nhập dòng tu. Một tu sĩ đổi lấy một tu sĩ. Còn sự thay thế nào tốt hơn một chàng trai trẻ đã được lựa chọn bằng máu của người tử vì đạo?
Phía dưới, cô gái tóc đen cũng nhìn thấy máu bắn lên tay áo của Will, nhìn thấy vẻ kinh hoàng trên khuôn mặt anh. Rồi cô thấy chuyển động trong đám đông. Một mái tóc vàng nữa đang chen qua đám đông tới phía khán đài. Một trong những người anh trai của Will, mặc chế phục của gia đình Howard.
Cô bắt đầu chen lên phía trước. Nhưng người anh trái đã tới chỗ Will trước và bắt đầu thì thầm vào tai chàng trai. Trên khuôn mặt của Will, một vầng sáng lóe lên, dần dần xóa nhòa đi vẻ kinh hoàng bằng một ngọn lửa say mê phấn khích. Ngước nhìn Northampton, giơ ống tay áo trước tầm mắt của bá tước, Will bắt gặp cái nhìn của ông ta. “Hãy xem trái tim!” chàng thanh niên lặp lại bằng giọng khàn đặc.
Trong khoảnh khắc đó, cô gái hiểu cô đã mất chàng trai. Cô dừng lại.
Bên cạnh Will, đôi mắt Shakespeare bắt gặp đôi mắt cô.
Họ đều đã mất chàng trai.
Cô gái quay người sang một bên, nôn ọe. Phía trên cô gái, đám đông bắt đầu xô đẩy nhau. Bị huých phải và mất hăng bằng, cô ngã khuỵu một gối xuống. Chân ai đó đạp mạnh vào lưng cô gái, và một cú va chạm khác thiếu chút nữa đã đập trúng đầu cô.
Rồi những cánh tay mạnh mẽ nâng cô gái lên. “Nếu cô không chịu được cảnh tượng thi hành công lí” một giọng Scotland hiền hậu cất lên. “thì đáng ra cô nên ở nhà”.
Cảnh tượng thi hành công lí! Sự hấp hối và cái chết, hiện tại và tương lai, là tất cả những gì cô trông thấy. Nhưng không phải cái chết khiến cô nôn mửa. Mà là một cuộc sống mới.
Cô đã có thai. Con của ai, cô không biết. Hai tình yêu mang đến cho tôi an ủi và tuyệt vọng …
Kéo chiếc mũ trùm che kín khuôn mặt, cô gái loạng choạng bước đi tiếp trên con phố.
PHẦN BA