← Quay lại trang sách

Chương 28

Trong căn bếp trên đồi Capitol, tôi chăm chú xem xét tờ giấy đang nằm trên mặt bàn trước mắt và đọc lại lần nữa câu được gạch chân: Cô Bacon đã đúng. Đúng hết lần này tới lần khác .

Trong một thoáng, tôi cảm thấy mình như đang điếng người nổi bồng bềnh dưới trần nhà. Việc Ophelia nghĩ rằng Delia đúng không có nghĩa phán đoán của bà là chính xác, tôi nghĩ tới cảm giác phấn khích pha lẫn lo lắng.

“Hãy đọc lá thư đi” Ben nói.

Một việc không hề dễ dàng. Lá thư vừa bị vò nhàu và dính máu đã khô ngả màu nâu. Và trước tôi nay rất lâu, những vết không rõ là nước mưa, rượu vang hay nước mắt đã làm nhòe mất một số từ.

HENLEY-INARDEN

Bà Henry Clay Folger

Washington D. C.

U. S. A.

Ngày 5 tháng Năm, 1932

Bà Folger thân mến,

Xin hãy thứ lỗi cho sự đường đột của một người xa lạ, và chấp nhận sự chia buồn của tôi về cái chết của chồng bà, cũng như sự chúc mừng của tôi về việc bà đã cố gắng để thư viện mở cửa như chồng bà mong đợi. Tôi sẽ không dám đường đột như thế này vì chính bản thân tôi cũng đang sống những ngày cuối cùng của đời mình, như vậy ít nhất cũng tránh cho bà sự phiền phức phải viết thư trả lời.

Tôi… thông tin mà tôi không muốn công bố trong nhiều năm qua giờ đây tôi chỉ có thể gọi là sự hèn nhát. Mặc dù nói một cách công bằng, đó là sự hèn nhát pha lẫn thận trọng. Im lặng là cách tôi đã lựa chọn vì sự bình yên của bản thân, nhưng trước hết là cho sự bình yên của con gái tôi.

Trước đây rất lâu, tôi và một người bạn đã cố gắng tìm kiếm một kiệt tác cũng đầy huyền thoại như thành Troy hay những bức tường đổ nát của cung điện Minos; Aeschylus của nước Anh chúng ta, chúng tôi gọi nó như vậy. Sophocles đã mất của chúng ta, Sappo ngọt ngào của chúng ta. Cuối cùng, sau những cuộc tìm kiếm lâu dài và gian khổ, anh ta đã tìm thấy nó - nhưng cùng lúc, anh ta đã tìm thấy những giấy tờ khác có thể chiếu sáng rực rỡ trên thành công của chúng tôi. Những lá thư. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy chúng tận mắt, nhưng tôi biết ý chính của chúng.

Cô Bacon đã đúng. Đúng hết lần này tới lần khác .

Tuy vậy, trong khi cố gắng tìm kiếm báu vật này, chúng tôi đã phạm tội với cả Chúa trời và con người. Bạn tôi đã chết, cô độc và cách xa nhà, trong hoàn cảnh không ai biết rõ, nhưng có lẽ xứng đáng với những vực thẳm sâu nhất của địa ngục. Trong … tâm, tôi đã tiếp tục sống với sự mơ hồ về cái chết của anh ta và sự thật anh ta tìm thấy đã dần dần gặm nhắm ăn sâu vào óc tôi.

Như bà có thể thấy, tôi không có bằng chứng nào. Bạn tôi đã mang theo chúng - nếu không phải bản thân những bằng chứng đó thì cũng là vị trí anh ta tìm thấy chúng - xuống nấm mồ vô danh của mình.

Tôi sợ rằng bản thân mình không có được sự can đảm cũng như lòng tin tưởng của cô Bacon. Thiếu bằng chứng, tôi đành chọn cách sống trong im lặng hơn là mạo hiểm chịu chung số phận như cô, bị nhốt trong trại điên - một địa ngục trần gian mà tôi biết đủ rõ để khiến tôi rùng mình thậm chí ngay giữa ban ngày. Để biện hộ cho mình, tôi còn có một sinh linh nữa phải lo lắng, điều mà cô Bacon không có.

Mặc dù ông ta tỏ thái độ nghi ngờ về điều tôi đang kể với bà, một người bạn thân thiết khác của tôi, một giáo sư Harvard, đã bắt tôi hứa - cách đây đã lâu - không được im lặng mang theo bí mật này xuống mồ. Những điều xấu xa người ta làm vẫn sống … cảnh cáo, trong khi những điều tốt thường bị chôn sâu cùng nắm xương tàn của họ. Lời ông ta nói tôi, vì tôi cũng đã đọc qua những từ này với sự thương cảm và sợ hãi. Và ngay lúc đó, tôi đã hứa với ông ta rằng tôi cố gắng để lật ngược lại kết cục đó - một lời hứa làm tròn .

Do …, tôi đã trả lại tất cả những gì tôi có thể về đúng chỗ của chúng, mặc dù đã có những cánh cửa đóng sập lại trước mặt tôi; những thứ ít ỏi còn lại tôi đã chôn giấu ngoài khu vườn của mình. Nhưng có nhiều con đường dẫn tới sự thật. Kiệt tác thời Jacobean của chúng ta, c… 1623, là một. Shakespeare chỉ ra một cái khác .

Tôi không hề ảo tưởng rằng bà sẽ mong muốn lần theo một đầu mối đã khiến nhiều người khác phải trả giá đắt đến vậy về hạnh phúc và máu. Tôi viết cho bà vì bà có phương tiện để bảo tồn những bằng chứng cho biết một đầu mối như thế tồn tại – rằng những điều tốt đẹp chúng ta làm sẽ còn sống mài, trong khi những điều xấu xa sẽ bị chôn sâu cùng nắm xương tà của chúng ta.

Xin cám ơn bà,

Ophelia Fayrer Granville

“Ophelia nghĩ Delia đúng không có nghĩa đúng là như vậy”. Lần này tôi nói to thành tiếng.

Ở bên chậu rửa, Ben đang vắt chiếc khăn cho ráo nước. “Bà ấy nghĩ rằng mình đang nắm giữ bằng chứng” anh ta nói. “Hay ít nhất bà ấy nghĩ Jem Granville có bằng chứng trong tay”. Đi tới bên cạnh tôi, Ben cúi xuống và bắt đầu nhẹ nhàng lau nhẹ khuôn mặt tôi. “Một hai vết thâm tím, vài vết xước. Không có gì quá tệ hại. Cô là một phụ nữ thật cứng đầu, Kate Stanley”.

Tôi chộp lấy khuỷu tay anh ta. “Chúng ta phải tìm ra nó. Bất cứ thứ gì mà Granville đã tìm thấy. Chúng ta phải tìm ra nói”.

Khuôn mặt anh ta đang ở sát cạnh mặt tôi. Nghiêm nghị gật đầu, anh ta đứng dậy ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh tôi. “Cứ cho là vậy đi. Chúng ta biết gì nào?” Anh ta đọc lướt qua lá thư. “Ophelia và Jem Granville đã tìm kiếm Cardenio ; Jem đã tìm ra vở kịch. Có thể anh ta còn tìm thấy bằng chứng chứng minh Shakespeare thực ra không phải là Shakespeare. Jem chết; bằng chứng biến mất. Ophelia im lặng. Sau đó, bà ta trao lại mọi thứ, nhưng chúng ta không biết ban đầu bà ta có những gì và lấy được chúng từ đâu. Những gì không thể trao lại, bà ta chôn giấu ngoài vườn. Giả thiết là ở Henley-in-Arden”.

“Tại đó chắc bà ta đã được nghe nói tới đam mê của Delia – mặc dù nếu bà ấy vẫn còn sống vào năm 1932, vào thời kì đó bà ấy hẳn vẫn còn rất trẻ, vẫn còn là một đứa trẻ khi Delia còn sống. Chắc chắn là vào khoảng cuối những năm 1850. chừng bảy mươi lăm năm trước đó”.

“bà ấy đã tìm kiếm các giấy tờ của Bacon cho Granville vào - năm nào 1881? Liệu có phải bà ta đã lấy đi một số giấy tờ, với ý định sẽ trả lại sau - chỉ để phát hiện ra giờ đây các giấy tờ đó được trông giữ cẩn thận trong một thư viện? Liệu có phải những cánh cửa đóng sập trước mặt bà ta là cánh cửa của thư viện Folger không?”

Tôi lắc đầu. “Để thêm giấy tờ vào một bộ sưu tập không phải là chuyện khó. Anh chỉ việc lẳng lặng đặt vào. Điều khó khăn là lấy tài liệu ra - ít nhất đó cũng là việc mà hầu hết mọi người đều thấy khó khăn”. Miệng Ben thoáng nhếch lên cười buồn; đôi mắt anh ta vẫn đầy lo nghĩ. “Dù thế nào đi nữa” tôi tiếp tục, “thư viện Folger đã không được sở hữu các giấy tờ của Delia - hay phần lớn chúng - cho tới tận những năm 1960. Tuy vậy, có thể Ophelia đã yêu cầu được tiếp cận các giấy tờ riêng tư của gia đình một lần nữa, với ý định trả lại những gì bà đã lấy đi, nhưng bị từ chối”.

“Vậy là bà ta lấy chiếc xẻng làm vườn ra”.

Tôi gần như bật cười. “Chúng ta chỉ còn việc đào xới mọi khu vườn ở Henley lên”.

“Trừ khi chúng ta lần theo một trong những con đường khác tới sự thật”.

Kiệt tác thời Jacobean của chúng ta, c…1623 , Ophelia đã viết như vậy. Tôi lấy tấm thẻ tra cứu mà Roz đã đặt vào chiếc hộp bọc giấy lụa vàng cùng với chiếc trâm. Đúng như tôi nhớ - khi mượn lại câu này, Roz đã bù vào khoảng trống bằng từ “cirea” - rồi sau đó viết tắt lại thành “c…” Tôi giơ lá thư lên ánh sáng. Chữ I sau chữ c đầu tiên có thể nhìn thấy mờ mờ, và chữ tiếp theo có vẻ giống chữ r. vậy sửa chữa của Roz là phù hợp theo nghĩa biên tập - nhưng vậy thì sao đây, Roz không bao giờ để tình cảm làm ảnh hưởng đến nghiên cứu học thuật của bà. Chỉ các mối quan hệ. Bây giờ ít nhất chúng tôi đã biết bà lấy cụm từ đã khiến tôi phát điên lên này từ đâu ra. Nhưng tại sao lại là “của chúng ta”? Chẳng lẽ Ophelia cũng có một bản Tuyển tập ? Có vẻ không thể. Hay bà có quan hệ với một nơi nào đó có bản gốc của tác phẩm này?

Còn đoạn viết Shakespeare chỉ ra con đường tới sự thật còn vô dụng hơn. Shakespeare có thể được tạo ra để chỉ vào bất cứ đâu ở mọi nơi, như những người chống đối lại trường phái Stratfordian và các đạo diễn tiên phong thường chỉ ra.

“Trà nhé” Ben nói, như thể đó là câu trả lời cho mọi phiền muộn trên đời. Ben đứng dậy đi tới bếp, đặt một ấm nước lên bếp rồi bật lửa. “Hãy cùng suy nghĩ về việc này một cách logic” anh ta nói, tìm kiếm trong tủ bát dĩa cho tới khi tìm thấy tách và một giá có trữ sẵn đến hai chục loại trà. “Ophelia viết có nhiều con đường dẫn tới sự thật, rồi sau đó bà ta nhắc tới kiệt tác thời Jacobean. Đường thứ nhất, nói sách khác: Tuyển tập Đầu tiên . Toàn bộ tác phẩm của Shakespeare”.

Ấm nước reo lên, và anh ta rót trà ra tách. “Ngay trong câu sau, bà ta nói với chúng ta - hay bà Folger - rằng Shakespeare chỉ ra ‘một cách khác’. Cái gì? Có lẽ là một con đường khác. Nhưng nếu Tuyển tập chỉ tới một con đường, tại sao Shakespeare, có nghĩa là toàn bộ tác phẩm của ông, lại chỉ sang một con đường khác ở ngay câu tiếp theo?” Đưa cho tôi một tách tra, anh ta tự trả lời câu hỏi của mình. “Cả hai chỉ là một. Trừ khi Shakespeare thứ hai không có nghĩa là tập hợp tác phẩm”.

“Trừ khi Shakespeare thứ hai không phải là tác phẩm, mà là tác giả?”

Anh ta gật đầu và nhấp một ngụm trà. “Hãy nghĩ theo ngĩa đen. Shakespeare có thể chỉ đi đâu?”

Mặc cho làn hơi nước từ tách trà bốc lên như một tấm voan ấm áp ôm lấy khuôn mặt, tôi hồi tưởng lại mọi hình ảnh tôi còn nhớ được. Không phải là bức chân dung lin khắc gỗ trong cuốn Tuyển tập : không có tay. không phải là bức chân dung Chandos - bức tranh sơn dầu được mang mã số NPG1, bức chân dung đầu tiên trong phòng tranh chân dung quốc gia của nước Anh. Bức họa đó là một bức chân dung ấn tượng nhất với đôi mắt thông minh cảnh giác, ngoài ra không còn gì khác. Những chi tiết khác mà tôi còn nhớ được là cái cổ áo bằng vải gai khiêm tốn với chiếc hoa tai vàng duy nhất. Một lần nữa, lại không hề có tay. Ngoài ra còn có những bức họa khác, những bức chân dung đáng nghi ngờ hơn nhiều với mái đầu hói được kết hợp với những trang phục hoa hòe hoa sói - áo satin đỏ thắm có những đường xẻ với khuy bạc hay áo sẫm màu thêu kim tuyến dát bạc và vàng. Nhưng đều là chân dung từ vai - hay cùng lắm từ khuỷu tay - trở lên. Không có bức tranh nào trong số này chỉ đi đâu cả.

“Thế còn những bức tượng thì sao?” Ben hỏi.

Tôi lắc đầu. Bức tượng gần với sinh thời của tác giả duy nhất là bức tượng trên mộ của ông tại Stratford. Tôi đã trông thấy một bản copy của bức tượng chỉ mới chiều hôm đó, trong phòng đọc lớn của thư viện Folger. Một khuôn mặt tròn trĩnh như khuôn mặt của Charlie Brown, với vẻ mặt thể hiện vẻ vui nhộn hay tự mãn, tùy theo suy tưởng của người quan sát. Bức tượng cầm cây bút và tờ giấy trắng đã sẵn sàng, tựa lên một chiếc đệm. Nhưng sẵn sàng để làm gì? Bức tượng trông giống với một viên thư kí sẵn sàng nghe đọc chính tả hơn là một thiên tài đợi chờ cảm hứng.

“Ít nhất bức tượng đó cũng có tay” Ben nói.

“Nhưng chúng không chỉ đến đâu cả”.

“Bức tượng đó có cùng thời với tác giả không?”

Tôi ngồi xuống. Tôi mới chỉ cho rằng… nhưng tất nhiên, bức tượng này chỉ cần đủ lâu đời để Ophelia và có thể cả Jem có thể trông thấy nó. Còn bức tượng nào khác của ông hay không? Một hình ảnh lờ mờ màu xám và trắng chợt hiện lên trong đầu tôi. Cẩm thạch trắng, hậu cảnh màu xám…

“Westminster Abbey”.

Chúng tôi há hốc miệng nhìn nhau một hồi từ hai phía chiếc bàn. “Góc ‘Các Thi Sĩ’”, Ben nói. “Bức tượng đó chỉ tay vào cái gì?”

“Có thể là một cuốn sách. Hay một cuộn bản thảo. Tôi không rõ nữa”.

Ben đặt tách trà xuống. “Nếu đó là thứ cô cần, tôi sẽ đưa cô tới London. Kiểu gì chúng ta cũng phải qua Heathrow để tới Henley - Nhưng cảnh sát có thể cũng đã xác định Góc Các Thi Sĩ là một mục tiêu nữa, nếu vậy ở đó sẽ có một nhân viên bảo vệ”.

Anh ta cúi người lại gần tôi. “Nhưng tôi cần nói với cô một điều. Nếu bây giờ cô tới gặp cảnh sát, họ sẽ thấy ngay cô chỉ là một nạn nhân. Cô có thể khai với họ tất cả những gì cô biết và để họ truy lùng tên sát nhân. Nhưng nếu cô tiếp tục trốn chạy, họ sẽ khó có lựa chọn nào khác ngoài việc nghi ngờ cô ít nhất cũng là tòng phạm với hắn”.

Tôi đứng bật dậy và bắt đầu đi đi lại lại trong phòng. “Hắn đã có một giờ lợi thế, và lợi thế này có thể dài ra thành nhiều ngày”.

“Không nhất thiết” Ben nói. “Hắn đã để bức thư lại”.

Tôi đứng sững lại. “Anh nghĩ sao?”

“Có thể tên sát nhân không muốn phát hiện của Granville được tìm ra. Có thể hắn muốn cuộc tìm kiếm chấm dứt mãi mãi”.

Tôi lại tiếp tục đi đi lại lại trong khi tâm trí bận rộn với ý kiến này. “Có rất nhiều người không muốn thấy Shakespeare bị đẩy từ trên bệ xuống”.

“Hãy quên chuyện bản quyền đi. Chúng ta không biết gì về nó cho tới khi xuất hiện bức thư này. Đến giờ chúng ta vẫn đang tìm kiếm vở kịch”. Giọng anh ta trở nên lạnh lùng. “Ai không muốn Cardenio được tìm thấy?”

“Tại sao lại có ai đó không…?” tôi chững lại giữa câu. “Những người Oxfordian!” tôi kêu lên. “Athenaide”.

“ Ngày tháng là những thứ không chắc chắn .” Bà ta đã nói vậy trong khi nhìn quanh phòng đọc lộng lẫy theo phong cách tân Jacobean. Nhưng không phải vậy. Nếu chúng tôi tìm thấy Cardenio , thì ứng cử viên của bà ta, báu vật trong tòa lâu đài của bà ta, bá tước Oxford, sẽ không còn chỗ nữa.

Một khúc quanh nữa trong cuộc tìm kiếm - việc Delia có thể đã đúng - có lẽ không có ý ngĩa gì với bà ta. Delia đã tin rằng ngày Francis Bacon chính là bộ óc đứng sau chiếc mặt nạ Shakespeare. Và nếu bạn sẵn sàng giết người để bảo vệ ứng viên của mình chống lại những bằng chứng chứng minh William Shakespeare người Stratford đã thực sự làm những điều mà chủ nhà in nói ông ta làm, vậy tại sao do dự khi phải giết người để bảo vệ ứng viên của bạn chống lại ngài Francis?

Không - Athenaide có vẻ có lí, chừng nào một sự tàn bạo như vậy có lí. Không còn ai khác biết việc tìm kiếm Cardenio , ngoại trừ ba chúng tôi. Tôi thậm chí còn chưa nói với Henry. Roz từng biết, và bà đã chết. Maxine biết có một đầu mối dẫn tới nhà Athenaide, và cô cũng đã chết.

Athenaide đã nói với tôi rằng tiến sĩ Sanderson muốn gặp tôi ở Capitol - nhưng bà ta cũng hoàn toàn có thể dàn xếp ra buổi gặp gỡ đó bằng cách nói điều tương tự với ông. Khi Sinclair tiếp cận để chặn tôi lại, Athenaide đã tìm cách đảm bảo để tôi có mặt tại nơi hẹn.

“Tiến sĩ Sanderson đã đúng khi cảnh báo cô về bà ta. Không phải vì bà ta là một Oxfordian. Mà vì bà ta còn là một điều gì khác nữa, Kate, bà ta không thẳng thắn. Không ai tạo ra một đường ngầm bí mật như vậy trong nhà mình chỉ vì ưa thích lịch sử. Đặt biệt lại ở một nơi như vậy, chỉ cách biên giới Mexico năm mươi dặm. Bà ta buôn ma túy hoặc buôn người, có khi cả hai”.

Tôi ngồi xuống. Tại sao tôi có thể ngốc đến vậy?

Ahenaide là một kẻ tình nghi hoàn hảo, trừ một chi tiết. Bàn tay đã sờ soạng dưới chân tôi. “Kẻ tấn công tôi là một người đàn ông” tôi rùng mình nói. “Ở đây và tại Widener”.

“Roz thuê tôi” Ben nói.

Nói cách khác là phụ nữ thuê đàn ông. Vì lí do nào đó, tôi đã nghe thấy câu nói của Matthew. “Người mà bà bảo trợ đã không có mặt”. Wesley North. Người của Athenaide.

“Nhưng hắn ta đã bỏ lại lá thư” tôi nói, vẫn muốn bác bỏ giả thiết của Ben. “Nếu mục đích là ngăn chặn tôi - ngăn chặn bất cứ ai - tại sao lại không lấy đi lá thư?”

“Có thể cô đã làm hắn sợ”.

“Hoặc là anh”.

Anh ta nhún vai. “Hoặc người ta muốn cô tìm thấy nó”.

Tôi sững người. “Nhưng anh vừa mới cho rằng hắn muốn chặn tôi lại. Hắn đã cố gắng giết tôi”.

“Nhưng hắn đã không làm”.

“Anh không định cho rằng hắn cố tình làm như vậy?”

“Nếu cô cần chặn ai đó lại, có nhiều cách dễ dàng và chắc chắn hơn. Một phát đạn lặng lẽ vào đầu… một cú bẻ cổ thật nhanh. Nếu hắn thật sự muốn cô chết thì cô đã lạnh ngắt từ lâu lúc tôi tìm thấy cô. Nhưng cô vẫn còn sống. Vậy là tôi tự hỏi mình, tại sao nhỉ? Tại sao lại gây ra những vụ giết người lộ liễu như vậy? Và tại sao cô thoát chết - không chỉ một, mà hai lần?” Anh ta nhún vai. “Một khả năng rất dễ nhận ra, đó là những vụ giết người đó lộ liễu đến mức phô trương như vậy vì chúng chính là một màn trình diễn, nhằm mục đích gây ảnh hưởng đến khán giả - một khán giả rất đặc biệt”.

“Tôi?”

“Athenaide có thể muốn cô làm đúng những gì cô đang làm: tiếp tục lần theo dấu vết với ngọn lửa báo thù nóng bỏng dưới chân. Có thể bà ta đang theo sau cô, hơn là vượt lên trước. Có thể bà ta đang dọn quang con đường xung quanh cô, Kate, và đẩy cô về phía trước”.

Tôi cau mày. “Tại sao? Chính anh đã nói bà ta không muốn phát hiện của Granville được tìm thấy”.

“Có lẽ cách diễn đạt đúng hơn là bà ta không muốn phát hiện đó được đưa ra ánh sáng. Không bao giờ. Nhưng cách duy nhất để thực hiện điều đó là phá hủy nó đi. Và để phá hủy mọi thứ, anh cần phải tìm ra nó. Có thể cô vẫn còn sống vì bà ta còn cần cô”.

“Để tìm ra Cardenio . Thế nếu tôi tìm thấy?”

“Bà ta sẽ thủ tiêu cả hai. Và tất cả những gì Granville tìm thấy”.

Tôi lại đi quanh căn bếp. “Không thể. Không thể tin được”.

Ben đưa tay vào túi áo Jacket và đặt vật gì đó lên mặt bàn. Một khung ảnh bằng bạc. Tôi bước lại gần, nhưng vẫn giữ khoảng cách. Như thể vật đó có thể tấn công mình.

Chiếc khung bạc giữ lấy một bức ảnh đen trắng, với bố cục mang những đường nét duyên dáng nhưng cứng nhắc của một bức ảnh của Avedon. Một người phụ nữ có vòng eo nhỏ nhắn đứng trong tư thế kì quặc của những người mẫu khoảng những năm 1955, thời kì của Kì nghĩ ở Roma hay Cửa sổ phía sau. Đó là Athenaide. Trẻ hơn, xinh đẹp, kiêu kì. Bên cạnh, một cô bé ngước nhìn cô gái ngưỡng mộ. Vẻ mặt của cô bé vẫn còn những nét trẻ thơ, nhưng đó là gương mặt của Rosalind Howard, không thể nào nhầm lẫn được.

Nhưng chi tiết đáng chú ý nhất là chiếc mũ của Athenaide. Một chiếc mũ trắng vành rộng trang trí những bông hoa mẫu đơn với sắc độ đen-hơn-cả-đen mà chỉ một màu có thể tạo ra trên phim đen trắng: màu đỏ. Màu đỏ sẫm.

Tôi đã từng nhìn thấy chiếc mũ đó trước đây, nhưng với đủ gam độ màu sắc. Bên cạnh thi thể Roz.

Tôi ngước lên, hơi thở của tôi trở nên nông và gấp gáp. “Anh tìm thấy nó ở đâu?”

“Trên máy bay của bà ta” Ben nói.

“Tại sao anh không nói với tôi?”

“Tôi không biết rõ nó có ý nghĩa gì”.

Thứ này rất lớn , giọng nói của Roz lại vang lên. Lớn hơn Hamlet? Giọng nói của tôi trả lời. Lớn hơn …

Nếu cô mở chiếc hộp, cô phải đi tới nơi nó dẫn cô , bà đã nói vậy.

Đến giờ chiếc hộp đã dẫn tới thêm hai cái chết nữa. “Đó là lỗi của tôi” tôi nói với giọng trống rỗng, cảm giác tội lỗi lớn dần thanh sự kết tội. “Tôi chính là người đã dẫn Athenaide tới tiến sĩ Sanderson. Và Maxine Tom”.

Đặt hai bàn tay lên vai tôi, Ben khẽ lắc nhẹ tôi. “Hãy nghe tôi: Điều quan trọng không phải là ai bám theo ai. Đây không phải là lỗi của cô”.

Bám lấy những lời nói của anh ta, cảm giác tội lỗi của tôi biến thành sự giận dữ. Ben nói đúng: Tôi đang là kẻ đi săn hay kẻ bị săn đuổi không quan trọng; quyết định của tôi vẫn như cũ. Tôi phải tới đích trước kẻ sát nhân. “Westminter Abbey” tôi nói khàn khàn.

“Một nguyên tắc” Ben nói. “Cô không được rời khỏi tầm mắt tôi. Kể cả cầu nguyện hay đi vệ sinh. Không bao giờ”

“Được”.

“Hứa đi”.

“Tôi hứa. Hãy giúp tôi tới London”.

Anh ta lại lấy thứ gì đó từ trong túi áo ra. Một cuốn sổ nhỏ màu xanh sẫm, có hình đại bàng mạ vàng ở bìa trước. Một tấm hộ chiếu. Tôi mở nó ra. Ảnh của tôi trong đó đang nhìn thẳng vào chính tôi. Ít nhất đó cũng là khuôn mặt của tôi. Nhưng mái tóc thì ngắn và màu sẫm, còn tên trong hộ chiếu là một tên nam giới: Johnson, William, ngày sinh: 23 tháng Tư năm 1982.

“Cô sẽ phải nhuộm tóc và để tôi cắt ngắn đi. Trừ khi cô muốn tự cắt”.

“Tại sao lại là một cậu con trai?”

“Đó là một vụ án mạng khủng khiếp, Kate. Và đã có quá đủ vụ án mạng, với đủ kiểu cách quái đản, để xếp vào một kẻ giết người hàng loạt. Màng lưới vây quanh các sân bay chắc chắn đã được giăng ra và mỗi lúc một siết chặt hơn. Bên cạnh đó, tất cả các nữ nhân vật chính của Shakespeare đều it nhất một lần phải đóng giả con trai”.

“Anh nghĩ sẽ ổn chứ?”

“Cô có ý nào hay hơn không?”

“Đưa thuốc nhuộm cho tôi”.

Lục lọi mấy chiếc túi đựng đồ tạp hóa đặt trên bàn bếp, anh ta đưa cho tôi một chiếc lọ và chỉ cho tôi nhà tắm. Tôi ngắm nhìn những lọn tóc màu nâu vàng quen thuộc của mình trong gương. Loại thuộc nhuộm này theo công bố có tác dụng ngắn hạn; vừa bước chân vào dưới vòi hoa sen, tôi vừa hi vọng là đúng như vậy.

Với mái tóc của tôi còn ướt và vừa được nhuộm sang gần như đen, Ben nhanh chóng cắt ngắn đi. Khi anh ta đã hoàn tất, khuôn mặt tôi trông thấy trong gương có thể là của một cậu con trai, mà cũng có thể của một cô gái. Khó mà nói chính xác. Mặc dù nếu tôi vẫn mặc nguyên bộ đồ duy nhất tôi có - với váy đen và giày cao gót - chắc chắn sẽ làm nghiêng câu trả lời về một phía.

Ben bật cười trước ý tưởng này. Trên lối ra tiền sảnh có hai chiếc vali mềm hình chữ nhật có bánh xe kéo. Anh ta đưa một chiếc cho tôi. “Đi châu Au mà không có hành lí sẽ có vẻ rất đáng ngờ” anh ta nói. “Và dù sao cô cũng cần một số thứ. Chúng có thể là những thứ cuối cùng cô có trong một khoảng thời gian nữa, vì vậy đừng tỏ ra cứng cỏi”. Trong đó, tôi tìm thấy quần dài, một chiếc sơmi dài tay, m ột chiếc áo jacket rộng, tất, vài đôi giày. Độ vừa vặn không được bằng so với tài phán đoán của Henry, nhưng cũng khá ổn. Trong lúc thay đồ, tôi chợt tìm thấy tấm card của Matthew trong túi chiếc váy, và chuyển nó sang chiếc áo jacket.

“Cô sẽ phải săn đuổi tất cả nữ hoàng tại Anh quốc” Ben nói, khi tôi ra khỏi phòng tắm. Anh ta đưa cho tôi một sợi dây chuyền dài. “Dành cho chiếc trâm” anh ta nói. Và tôi lại cài chiếc trâm vào sợi dây chuyền deo quanh cổ. Nhưng lần này, tôi đeo nó giấu dưới áo sơmi.

Mười phút sau, chúng tôi đã ở trên taxi ra sân bay Dulles.

Một lần nữa, chúng tôi đã có những chiếc vé mang tên mình đợi sẵn. Một lần nữa, chúng lại chỉ tới một điểm đến sai. Nhưng lần này, chúng tôi lên máy bay tới một thành phố không phải là đích đến của mình.

Vào lúc nửa đêm, chúng tôi lên đường tới Frankfurt.