← Quay lại trang sách

Chương 29

Lần này chúng tôi bay ở hạng bình dân. Phục vụ, Ben nói, sẽ có hạn chế khi bạn muốn trở thành một phần của đám đông vô danh. Khi máy bay đã ổn định độ cao, tôi đưa tay tìm cuốn sách của Chambers được cài vào chiếc túi ở lưng ghế trước mặt tôi.

“Cô đã kiểm tra đến ba lần trong vòng mười phút vừa qua” Ben nói. “Tôi hoàn toàn chắc chắn nó vẫn còn nguyên ở đó”.

“Rất có thể nó sẽ mọc chân và chạy mất” tôi trả miếng. “Anh không biết được đâu”.

Một lát sau, chiếc xe mang bữa tối và đồ uống bắt đầu được đẩy dọc khoang, tới gần chúng tôi, và một lúc lâu chúng tôi bận rộn với việc giải phóng bữa tối khỏi khay đựng bằng nhựa.

“Vậy hãy giải thích cho tôi biết” Ben vừa nói vừa cúi xuống món lasabna ướt, “Tại sao có một số người lại nghĩ rằng Shakespeare không phải là người sáng tác ra những vở kịch đó. Những người không hề ảo tưởng” anh ta nói thêm.

Cô Bacon đã đúng . Đúng hết lần này tới lần khác .

Tôi uống một ngụm rượu vang. “Mặc dù tôi không thích thú gì khi phải thừa nhận, nhưng Athenaide có lí lẽ của mình. Những yêu cầu phả có của tác giả đã viết ra những vở kịch không phù hợp với con người mà lịch sử đem lại cho chúng ta. Những người Stratfordian nói rằng sự không phù hợp đó chỉ là một ảo ảnh quang học - hiện tượng những bằng chứng bị xói mòn mất dần theo thời gian - và họ viết những câu chuyện liên hệ giữa người đàn ông đến từ Stratford và những vở kịch. Mặt khác, những người chống lại quan điểm này lại cho rằng sự không phù hợp là có thật - kết quả từ việc hai người hoàn toàn khác nhau sử dụng cùng một cái tên: một diễn viên người Stratford cho mượn hay bán tên mình cho một nhà soạn kịch dùng làm tấm bình phong. Và họ cũng viết ra những câu chuyện tách riêng người diễn viên và nhà viết kịch”.

“Cả hai đều tuyên bố sự thật nằm về phía mình. Họ dán nhãn cho những câu chuyện của mình như thể chúng là lịch sử và tiểu sử, và tha hồ hạ nhục đối phương của mình là những kẻ ngu ngốc, điên rồ và dối trá - anh đã nghe Athenaide đấy. Thậm chí họ còn vay mượn cả ngôn ngữ tôn giáo, về chính giáo và dị giáo”.

“Họ?” Ben hỏi. “Chẳng lẽ cô đứng ngoài tất cả chuyện này như một vị thần khoanh tay nhìn đám trẻ con cãi vả nhau?”

“Nếu tôi đúng là một vị thần, thì tôi đã phải có một câu trả lời xác đáng. Nhưng sự thật là chúng ta không biết ai đã viết những vở kịch này. Không giống như chuyện chúng ta biết chính xác phân tử nước được cấu thành từ hai nguyên tử hydro và một nguyên tử oxy, hay rằng người ta ai cũng phải chết”. Khuôn mặt tiến sĩ Sanderson lại nổi bồng bềnh trong kí ức tôi, và cơn buồn nôn lại dâng lên trong cổ họng. Tôi cố ghìm xuống. “Đa số bằng chứng đều chỉ tới người diễn viên tới từ Stratford. Nhưng những khoảng trống trong câu chuyện này rộng và sâu đến mức e ngại - trong một phiên tòa hình sự, tôi sợ rằng anh khó có thể gắn những vở kịch này với người diễn viên đó theo tiêu chuẩn ‘không còn hoài nghi có căn cứ nào”

Đưa tay luồn xuống dưới chiếc bàn ăn gấp, tôi mò tìm trong chiếc túi ở lưng ghế. “Mối liên hệ giữa người diễn viên và các vở kịch kì thực đều xuất phát từ Ben Johnson, một người biết rõ người diễn viên, và cuốn Tuyển tập Đầu tiên , mà Johnson có lẽ là người biên tập”. Tôi lấy bản sao chép bìa mềm của cuốn Tuyển tập ra và mở trang có in bức chân dung hình quả trứng.

“Cuốn Tuyển tập chỉ ra người tới từ Stratford. Nhưng mặt khác tất cả những gì Johnson nói về tác giả và bức chân dung của tác giả nghe đều có vẻ kín đáo và có thể là mỉa mai nữa. Vậy Johnson có phải là ‘Ben trung thực’ Johnson không? Hay ông ta là Ben Johnson mỉa mai, dí dỏm? Tôi muốn nói tới những câu thơ đề tặng ngay bên dưới bức chân dung khắc ngớ ngẩn trong cuốn sách của ông ta:

Hởi các độc giả, hãy nhìn

Không phải bức chân dung, mà cuốn sách

“Một khuyến cáo có lí đấy, nếu tính tới sự xấu xí của bức chân dung”.

“Phải, nhưng không cần nhiều sự vòng vo đến thế để biến cả bài thơ thành một nhân chứng ngấm ngầm rằng bức chân dung đó không phải là của Shakespeare. Bên cạnh đó, với một sự kiện về xuất bản, cuốn Tuyển tập có vẻ đã xuất hiện một cách rất lặng lẽ, như thể với một lời thì thầm, nếu không phải là tiếng thút thít khóc thầm. Khi Johnson xuất bản tuyển tập tác phẩm của chính ông ta vào năm 1616, có tới chừng ba mươi nhà thơ và văn sĩ tiếng tăm gửi tới những bài sonnet chúc mừng ngợi ca. Với Shakespeare, Johnson là người duy nhất có thể muốn làm điều tương tự. Những người còn lại - và cũng chỉ có ba người - đều chỉ là loại hạng ba, nếu như anh coi họ cũng được xếp hạng”.

“Vậy nếu không phải Shakespeare thì là ai đây?”

Tôi đưa tay lên tỏ vẻ chịu thua. “Khó khăn là ở điểm này. Thứ nhất, người nào lại quan tâm đến việc giữ bí mật đến vậy? Có thể là một nhà quý tộc - sân khấu sẽ là một vết nhơ với tên tuổi của gia đình. Một phụ nữ, cho dù thuộc tầng lớp nào, hẳn rồi. Rồi lại còn những độc giả cho rằng họ nhìn thấy những thông điệp bí mật được mã hóa trong các vở kịch - thường là những triết lí của Hội thợ nề tự do, Thập tự hoa hồng, hay dòng Jesuit, hay cho rằng tác giả của những vở kịch này - thường là Bacon - chính là con trai của nữ hoàng. Với họ, danh tính giả có vẻ là một biện pháp an toàn cần thiết.

“Nhưng làm thế nào mà một bí mật như vậy vẫn được giữ kín? Cứ cho là đúng đi, và có ai đó đã viết những vở kịch này. Cho dù ông ta không biết ai đã viết ra chúng. Ben Johnson phải biết rằng người diễn viên không phải là tác giả, cũng như phần lớn đoàn kịch của nhà vua. Một số người không nhỏ để có thể buộc giữ im lặng, nhất là vào thời kì đầy rẫy những chuyện ngồi lê đôi mách như thế”.

“Điều này giải thích những nhận xét của Johnson về Shakespeare như một người bị chứng tâm thần phân liệt” Ben nói.

“Đúng, nhưng nó không giải thích được thực tế là không ai bàn cãi về tư cách tác giả của Shakespeare trong suốt cuộc đời ông hay một thời gian dài sau khi ông mất. Thứ hai, và quan trọng hơn, là không có ai khác thực sự phù hợp. Những người chống lại trường phái Stratfordian có vẻ không thể làm được việc đó - hợp lí hơn mức mà phần lớn học giả có thể chấp nhận. Nhưng không ai trong bọn họ có thể tìm ra một người nào đó có sự trùng hợp thuyết phục về xuất thân, động cơ và cơ hội”.

Tôi đưa một bàn tay ra sau gáy; đầu tôi vẫn có cảm giác nhẹ bỗng dưới mái tóc ngắn ngủn mới được tạo ra. “Bacon là lựa chọn của Delia”.

“Bacon chọn Bacon” Ben trầm ngâm. “Có vẻ ủng hộ người nhà quá phải không? Một sự ưu đãi ngược”.

Tôi nhăn mặt. “Họ không có quan hệ nào cả. Delia đã phát điên khi cố gắng chứng minh ngài Francis là người viết ra những vở kịch của Shakespeare, nhưng tôi xin thề trên linh hồn của mình trước quỷ dữ là ông ta không thể. Ngài Francis là một người xuất chúng, là nhà làm luật chính của triều đình dưới thời vua James. Ông chắc chắn được giáo dục chu đáo, và có thói quen viết lách. Ông là một trong những tác giả văn xuôi lớn nhất bằng tiếng Anh. Nhưng tác phẩm của ông có phong cách khác xa của Shakespeare. Sẽ giống như - ồ, tôi không biết nữa - giống như biện luận rằng cùng một bộ óc có thể tạo ra những tác phẩm của William F. Buckley và Steven Spielberg. Một người uyên bác đến kinh ngạc - chính trị, triết học, và bách khoa toàn thư - trong khi người kia là một kẻ phiêu lưu qua mọi thể loại chính của nghệ thuật trình diễn”.

Người chiêu đãi viên đi thu lại các khay thức ăn, và tôi duỗi dài người ra thư giãn. “Cho dù Delia đã làm thay đổi Mark Twain”.

“Mark Twain của Huck Finn và Tom Sawyer ?” Ben hỏi.

Tôi cảm thấy thú vị trước câu hỏi này. “Ông ta đã đọc cuốn sách của bà trong khi lái những con tàu hơi nước trên sông Mississippi. Vào gần cuối đời, ông đã viết một cuốn phản tiểu sử vui nhộn về người đàn ông quê ở Stratford với tên gọi ‘Shakespeare đã chết chưa? ’ Anh nên tìm đọc trên mạng khi có thời gian”.

“Thế còn về Oxford? Ứng viên của Athenaider?”

“Ông này là ứng viên that thế được ưa thích hiện nay. Thật không may cho ông ta, người ủng hộ chính ông ta lại là một người có tên Looney”.

Ben bật cười.

“Cái tên này được phát âm là ‘Loney’, nhưng nó cũng không giúp ích gì hơn cho những người ủng hộ Oxford. Mặc dù cuốn sách của ông này đã thuyết phục được nhiều người, trong số đó có cả Freud. Tuy vậy, Oxford vẫn có vài thứ ủng hộ mình. Như Athenaide đã chỉ ra, Hamlet giống đến kì lạ một phần cuộc đời của ông ta”.

“Bà ta đã chỉ ra rằng chính cô đã chỉ ra điều đó. Chính xác là như vậy” anh ta cười điệu bộ.

“Tôi cũng đã chỉ ra rằng những điểm tương đồng đó không biến vở kịch thành một cuốn tự truyện. Mặt khác, bá tước cũng có nền tảng giáo dục và những kinh nghiệm phù hợp. Được biết ông ta cũng có viết kịch, mặc dù tất cả đều đã thất lạc. Tuy vậy, vẫn còn vài bài thơ của bá tước tồn tại tới ngày nay - không tệ chút nào, và một số trong đó được viết với vần điệu kì lạ đặc trưng của Shakespeare. Đáng quan tâm hơn cả, anh có thể tìm thấy những chỗ ám chỉ tới Vere trong các tác phẩm. Hay ‘Ver’ như chính bá tước hay phát âm”.

“Như Vero nihil berius đúng không?”

“Phải, nhưng bằng tiếng Anh. Chơi chữ với ever và never và truth . Câu mà tôi thích nhất là nhan đề của lời nói đầu cho vở Troilus và Cressida: “A Never Writer to a Never Reader”. Đổi cách nối các chữ cái ở đôi chỗ, và câu này trở thành: “An Ever Writer to an Ever Reader”. Và từ đó trở thành: “An E. Ver Writer to an E. Ver Reader”.

“Thú vị nhỉ”.

“Văn cảnh tôi chua chát nói. “hãy nhìn vào văn cảnh. Anh có biết Shakespeare đã dùng từ ever bao nhiều lần không? Chừng sáu trăm lần. Tôi đã xem rồi. Và từ every xuất hiện chừng năm trăm lần nữa. Thêm vào ne ver nữa và anh có thêm nhiều hơn một ngàn lần. Nếu thêm những từ đã dịch sang tiếng Anh true và truth , thế là anh có cỡ ba ngàn từ để làm dẫn chứng từ các tác phẩm của Shakespeare. Với tần số như vậy, không ngạc nhiên khi chúng lúc này lúc kia có thể bị hiểu theo một nghĩa khác. Nhưng nếu anh thực sự muốn ám chỉ tới nghĩa khác đó, và anh thích chơi đố chữ, liệu anh có nghĩ nó sẽ xuất hiện nhiều hơn một hay hai lần trong số ba ngàn lần không?”

“Vẫn rất thú vị”.

“Nếu anh thích chuyện này, thì anh sẽ rất khoái câu’Every word doth almost tell my name’, từ tuyển tập Sonnets. Lấy ‘ver’ khỏi Every và đặt ra cuối cụm, khi đó Every word trở thành ‘Eyword Ver’. Thay y bằng d, và chúng ta có ‘Edword Ver’”.

“Thế không phải là ăn gian sao?”

“Anh có thể nghĩ vậy. Nhưng câu thơ không nói là hoàn toàn chính xác, mà chỉ ‘gần như’ nói tới tên của ông ta. Vậy ‘Eyword Ver’ sẽ gần như là ‘Edword Ver’”.

“Thông minh lắm”.

“Hẳn rồi, nếu anh sẵn sàng quên đi phần kết cục của bài sonnet - bốn từ cuối cùng”.

“Những từ nào?”

“Tên tôi là Will”

“Cô đang đùa rồi”.

Tôi lắc đầu.

“Vậy thì các Oxfordian giải thích khó khắn này thế nào?”

“Bằng cách nói rằng ‘Will’ là một trong số biệt danh của Oxford”.

“Dựa trên cơ sở nào?”

“Phần lớn là chính bài sonnet đó”.

“Nhưng đó chỉ là suy luận lòng vòng”.

“Từ lí lẽ vòng vo dẫn tới một hố đen ảo tưởng thì đúng hơn. Không có nghĩa là những người nghi ngờ Oxford không có những cảm tính tương tự. Tôi cần phải nói rằng, một lí do khiến tôi bận tâm tới ông bá tước nàu là việc ông ta không phải là một người tử tế: không đáng kính, không đáng tin, mà cũng chẳng tốt bụng. Tất nhiên, người ta có thể vẫn là một thiên tài đồng thời là một kẻ nóng nảy, thậm chí tàn bạo. Picasso và Beethoven thực ra đều không phải là những chú gấu teddy. Tuy thế, tôi vẫn muốn nghĩ rằng con người đã tạo nên Juliet , Hamlet và Lear là một ai đó có trái tim cao cả.

“Nhưng điểm bất ổn nhất với Oxford là thời điểm cái chết của ông ta. Athenaide có thể nói rằng ngày tháng là không đáng tin cậy bao nhiêu cũng được, nhưng bà ta đã lầm. Với một vở kịch riêng lẻ lúc này lúc khác - hẳn rồi, thời gian có thể sai khác đi một năm, thậm chí hai hay năm năm. Nhưng toàn bộ tác phẩm của Shakespeare lùi lại một thập kỉ hay hơn? Không thể nào”.

“Tại sao không?”

Đèn chiếu sáng trong khoang đã tắt, và tôi kéo chăn trùm lên người. Moi sợi dây chuyền từ trong áo sơmi ra, tôi lấy tay mân mê cây trâm đang cài trên đó. “Sau chúng ta bốn trăm năm, nếu có ai đó ngồi nghe lại tất cả những bản nhạc rock còn tồn tại tới lúc đó, anh có nghĩ họ sẽ nhầm thời điểm ra đời của toàn bộ nhạc phẩm của Beatles đến một thậm kỉ không? Rằng họ sẽ gói lại từ ‘LoveMe Do’ tới ‘Come Together’ lại, rồi đặt lẫn vào những bản nhạc của thập niên năm mươi với một cái phẩy tay, nói rằng ngày tháng là không đáng tin cậy? Đặc biệt nếu họ cũng biết tới Elvis Presley, Buddy Holly, Fats Domino, Rolling Stones, Doors và Who? Nếu họ biết dù chỉ một chút sự khác biệt về tâm lí giữa thập niên năm mươi và sáu mươi? Liệu anh có nghĩ họ sẽ nhầm lẫn giữa Beatles với một ban nhạc của những năm năm mưới?”

“Cô đang định nói rằng không biết gì là hạnh phúc nhất không?”

Tôi bật cười. “Dickens đã có lần viết đại khái là ‘Thật dễ chịu khi chúng ta chỉ biết ít đến vậy về Shakespeare. Ông là một bí ẩn tuyệt vời; và tôi run lên lo sợ một ngày nhỡ có điều gì xuất hiện…’ Tôi nghĩ là tôi đồng ý với Dickens”.

“Thế nếu có điều gì đó xuất hiện? Cô có nghĩ một ngày nào đó chúng ta sẽ biết sự thật không?”

Chiếc trâm quay đi quay lại như thôi miên tôi. “Vô số sự kiện có thể sẽ hé lộ. Nếu đúng chúng từng xảy ra, chúng kiểu gì cũng sẽ xuất hiện; tôi không tin vào những sự kiện bị giấu giếm, cũng không trốn chạy khỏi chúng. Nhưng những sự kiện là điều gì đó khác với sự thật, đặc biệt khi nó xuất phát từ trí tưởng tượng và trái tim. Tôi không nghĩ Dickens phải trăn trở trong mồ lo lắng rằng một hay hai sự kiện – hay thậm chí hai ngàn – sẽ xóa đi bí ẩn về một trí tuệ đã có thể viết nên Romeo và Juliet , Hamlet , và Lear ”.

Sợi dây chuyền bật ra, và chiếc trâm tuột xuống sàn. Cả hai chúng tôi cùng cúi xuống tìm, và má Ben chạm vào má tôi. Trước khi hiểu mình làm gì, tôi quay sang hôn anh ta. Đôi mắt Ben sáng lên ngạc nhiên, rồi anh ta hôn lại tôi. Chọt nhận ra mình vừa làm gì, tôi vội vàng ngồi thẳng dậy.

Ben vẫn cúi người xuống, khuôn mặt anh ta có vẻ bối rối. Nhưng ngón tay của anh ta từ tốn cầm lấy chiếc trâm, và Ben ngồi thẳng dậy.

Tôi có thể cảm thấy hai má và ngực mình đang nóng bừng. “Tôi xin lỗi”.

“Tôi thì không” anh ta đáp, vừa đặt chiếc trâm vào lòng bàn tay tôi vừa nhìn tôi ngạc nhiên. “Thậm chí khá thú vị, khi được một cậu con trai hôn. Lần đầu tiên”.

Tôi mở to mắt hoảng hốt. Tôi đã quên khuấy mất.

“Hãy cố mà nhớ” anh ta mỉm cười nói.

Tôi gật đầu, trong lòng thầm rên lên. Thậm chí khá thú vị? Tệ hơn nữa, tôi đã hứa không bao giờ rời khỏi tầm mắt của anh ta. Và nếu tôi không định buộc mình vào anh ta đi nữa thì đèn báo thắt dây an toàn cũng đã bật sáng. Tôi thậm chí không thể đi vào phòng vệ sinh. Mặc dù nơi duy nhất tôi có thể tưởng tượng ra mình muốn tới lúc này có lẽ là khoang hành lí, nơi tôi có thể giấu mình trong một chiếc hộp.

Ben tựa người vào ghế; tôi chỉ có thể thấy đôi mắt anh ta lóe sáng trong bóng tôi. “Chúc ngủ ngon, giáo sư” anh ta nói, rồi nhanh chóng ngủ say.

Cẩn thận cài chiếc trâm vào bên trong áo jacket, tôi ngả hết cỡ ghế ngồi của mình về phía sau. Một lát sau, Ben vươn vai duỗi người ra, chân anh ta gác lên chân tôi. Một hồi lâu, tôi ngồi thức trong bóng tối của khoang hành khách với những tiếng ngáy khẽ vang lên thành nhịp, cảm thấy hơi ấm từ người anh ta. Trong khi thiếp dần đi, tôi nghe thấy giọng Roz nói: “Có nhiều con đường dẫn tới sự thật”. Câu của Ophelia, tôi bực bội nghĩ thầm. Không phải của Roz.