Chương 30
Tới Frankfurt, chúng tôi đi qua quầy kiểm tra hộ chiếu và lấy hành lí. Khi chúng tôi vừa qua kiểm tra hải quan, Ben nói: “Đưa hộ chiếu của cô cho tôi”.
Tôi chìa hộ chiếu ra. “Bây giờ thì sao? Chúng ta đi bộ?”
“Chúng ta đi ăn” anh ta trả lời, hối hả băng qua nhà ga sân bay tới một tiệm cà phê nhỏ với những chiếc bàn mặt đá granite, tại đây anh ta gọi cà phê và bánh ngọt bằng tiếng Đức có vẻ rất trôi chảy.
“Anh có thể nói được bao nhiêu thứ tiếng?” tôi hỏi, không khỏi thoáng ghen tị.
Anh ta nhún vai. “Tôi bắt đầu với tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha. Cũng phải tốn không ít thời gian để hiểu chúng là hai ngôn ngữ khác biệt. Sau đó những thứ tiếng khác có vẻ dễ dàng hơn với tôi. Giống như một số người có thể chơi được bài nhạc sau khi được nghe một hai lần”.
“Một số người có thể hát được ‘Mary có một con cừu nhỏ’” tôi trả miếng. “Không ai có thể thuộc được những bản Symphony của Beethoven hay Mahler. Nhưng tôi đoán là trong lĩnh vực ngôn ngữ, cũng giống như về địa lí, tôi có vẻ luôn ít am hiểu như ở nhà ở khắp noi và chẳng ở nơi nào cả. Nếu phải vay mượn một câu nói để diễn đạt”.
“Làm sao lại thế”.
“Ngôn ngữ hay địa lí?”
“Cả hai”.
Anh ta ngả người ra sau và mỉm cười. Trong cơn nóng mặt, tôi chợt nhớ đã hôn anh ta và quay đi nhìn chỗ khác. “Đầu tiên là bố mẹ nói nhiều thứ tiếng” anh ta nói. “Mẹ tôi nói được bốn thứ tiếng. Bà không nghĩ các con mình sẽ giật lùi trên bậc thang học vấn, như bà vẫn nói. Thứ hai là chuyện tôi không thể ngồi yên được một chỗ. Trong một gia đình làm nghề ngân hàng, lựa chọn đang tôn trọng duy nhất ngoài nhà băng, luật và ngành y là đi lính”. Anh ta nhún vai. “Đó là một cách để khám phá thế giới”.
“Và một phương thuốc giải độc đáng tôn trọng cho việc đi lính?”
“Nếu có một phương thuốc như vậy thì tôi đã không tìm ra”. Uống nốt tách cà phê của mình, anh ta lấy hộ chiếu của tôi từ túi áo ngực ra và đưa trả cho tôi. “Biểu hiện A của nạn tham nhũng”.
Tôi định cất đi, nhưng anh ta nói: “Tôi sẽ kiểm tra lại nếu tôi là cô”.
Đó là một hộ chiếu khác. Tấm ảnh của tôi vẫn thế. Nhưng họ tên đã chuyển từ William Johnson thành William Turner, và những con dấu xuất nhập cảnh cũng thay đổi. Hộ chiếu này có nhiều hơn. Có vẻ anh chàng Turner này đã lang thang khắp châu Âu gần hết mùa hè. Dấu xuất nhập cảnh của Đức cho thấy tôi đã ở lại nước này một tuần.
“Phòng trường hợp các tuyến đường từ D. C. tới London bị theo dõi” anh ta nói.
“Anh có bao nhiều cuốn như thế này?”
“Chúng ta hãy hi vọng là cuốn hộ chiếu này đưa được cô tới nơi cô muốn”.
Nếu các tuyến đường từ D. C. tới London đã bị theo dõi, thì các tuyến đường từ Frankfurt tới London không bị kiểm soát - ít nhất với một anh chành William Turner. Chúng tôi hạ cánh xuống Heathrow vào khoảng ba giờ chiều. Ben biến mất vào hàng “Hộ chiếu Vương quốc Anh và Vùng cộng đồng kinh tế châu Âu” ; sau khi sốt ruột nhích dần qua hàng “Các hộ chiếu khác”, tôi được vẫy chào vào nước Anh bởi một người đội turban của người Sikh. Ben đã lấy xong hành lí của chúng tôi. Không ai để mắt đến chúng tôi khi đi qua hải quan. Bên ngoài, chiếc Bentley của Henry đã đợi sẵn.
“Chúa lòng lành” Henry nói, ôm hôn tôi hai lần khi tôi chui vào băng ghế sau ngồi cạnh ông. “Cô quả là một cậu bé đẹp trai, Kate”.
“William” tôi nói với giọng kiêu kì “Wiliam Turner”.
“Vậy đi đâu đây, ông Turner?”
“Westminster Abbey” Ben nói, chui vào xe sau tôi. Ngồi trên ghế lái xe, Barner gật đầu.
“Và anh chắc hẳn là Ông Hữu Dụng” Henry nói với Ben. “Tôi tin là Kate đã rất siêng năng trong việc khám phá xem những cộng dụng đó chính xác là gì”.
Trong khi chiếc xe nổ máy rời sân bay, tôi cau mày bực bội rồi giới thiệu Ben với Henry. Cúi người ra trước, Henry bấm nút nâng tấm kính chắn giữa băng sau với ghế lái xe lên. Rồi quay sang phía tôi. “Tôi đã lần được dấu vết thứ thuốc độc giết hại Roz”.
Tôi lạnh người.
“Đó là kali. Quá nhiều cho một ‘nước ép hebona bị phù phép đựng trong lọ’ bí ẩn. Không gì khác ngoài một dung dịch kali đơn giản, được tiêm vào cổ bà ấy. Dễ tìm, dễ dùng, tác dụng nhanh, và không để lại dấu vết nào”.
“Vậy làm sao ông lần ra đấu vết?” Ben hỏi.
“Tôi không tìm ra” Henry nói. “mà là Thanh tra Cau có - ông ta hóa ra cũng mưu mô không kém vẻ cau có của mình. Tôi nghi không biết ông ta có tiết ra ngoài đủ nhiều để đi tiểu mỗi năm nhiều hơn một lần vào ngày sinh nhật hay không nữa. Đám nhân viên của ông ta còn có nhiều tính người hơn. Đây là những gì tôi đã moi được: Sau khi chết, mọi tế bào trong cơ thể cô giải phóng ra kali. Như vậy sự có mặt của kali với lượng lớn trong một thi thể là hoàn toàn tự nhiên. Thế nhưng kali hóa ra không chỉ là triệu chứng của cái chết – đó cũng là một nguyên nhân gây ra cái chết. Một trái tim khỏe mạnh bước đi trên một sợi dây mong manh; quá ít kali - tim ngừng đạp. Quá nhiều - kết quả cũng tương tự. Như vậy một mũi tiêm dung dịch kali vào tĩnh mạch cảnh chẳng hạn, sẽ có tác dụng tương tự như món hebona của Hamlets”. Giọng ông hạ xuống. “ Thứ dịch chưng cất ma quái đó mà tác dụng thù địch với máu người lan nhanh như thủy ngân ra khắp cơ thể, và với một sức mạnh… khiến toàn bộ máu đông cứng lại ”.
Có lí. Maxine và tiến sĩ Sanderson cũng đã chết - một cách nhanh chóng, không hề có sự vùng vẫy giãy giụa thường thấy ở một phụ nữ bị dìm chết hay một người đàn ông bị đâm chết ở nơi công cộng. Điều này có thể giải thích được nếu họ đã chết hoặc sắp chết khi vau của họ được … phải dùng từ nào đây? Phân công? Hóa trang? Sắp đặt? Cơn giận dữ bùng lên trong tôi. “Tên sát nhân đã không dừng lại ở Roz”.
“Tôi cũng đã biết chuyện đó” Henry nói. “Tôi rất tiếc. Nhưng nếu cô có thể chịu đựng được, tôi rất muốn nghe những gì cô biết”.
Trong khi chúng tôi đi dần vào trung tâm London, tôi cập nhật các biến cố cho Henry, từ lá thư này tới lá thư khác, cho tới cái chết của tiến sĩ Sanderson.
“Caesar” ông khẽ nói.
“Cái này nằm trong tay ông ấy” tôi đưa ông lá thư của Ophelia gửi cho bà Folger và quan sát ông đọc, khuôn mặt ông hiện rõ vẻ khó chịu.
“Cô Bacon đúng?” ông ta ngẩng lên, khuôn mặt không có chút gì tin tưởng. “Hết lần này tới lần khác?”
“Ophelia nghĩ vậy”.
“Hết sự vô lí này đến sự vô lí khác” ông đáp. “Cô không định nói với tôi là cô coi câu chuyện của bà ta nghiêm túc đấy chứ?”
“Ba người đã chết, và tôi đã bị tấn công hai lần. Tôi coi những chuyện này là nghiêm túc”.
Henry lập tức tỏ ra ân hận. “Tất nhiên rồi. Đúng. Tha lỗi cho tôi”.
“Bà ấy đã gửi thứ này cho bà Folger kèm theo lá thư” tôi đưa cho ông chiếc trâm mà tiến sĩ Sanderson nắm chặt trong tay khi chết.
Ông cau mày. “Giống chiếc trâm Roz đưa cho cô phải không?”
Tôi gật đầu. “Đây là nguyên bản. Roz chắc đã mua một bản copy tại cửa hàng lưu niệm của thư viện Folger để tặng tôi, có lẽ như một đầu mối để lần ngược lại lá thư. Chúng ta biết bà đã đọc nó - có lẽ từ lá thư này bà đã lấy ra cụm từ kiệt tác thời Jacobean”.
Ông cẩn thận quan sát chiếc trâm rồi lật ngược nó lên, cài chiếc kính của ông lên trán và đưa chiếc trâm lại gần. “Đây là chiếc trâm cô tìm thấy trong tay tiến sĩ Sanderson đúng không?”
Tôi gật đầu.
“Tôi có thể xem qua chiếc Roz tặng cô không?”
Chiếc trâm đã nóng lên vì tiếp xúc lâu với cơ thể tôi. Tôi miễn cưỡng mở áo jacket và tháo chiếc trâm ra. Đưa trả tôi chiếc trâm nguyên bản, Henry ngắm nghía bản copy.
“Phải, tôi nghĩ tôi nhớ những thứ này” ông nói sau một lát trầm ngâm. Ông hạ chiếc trâm xuống và nhìn tôi. “Hoặc là cô đã lẫn lộn hoặc là Roz của chúng ta đã tự lấy một thứ không thuộc về mình. Hãy nhìn xem”. Ông chỉ ra một hàng kí hiệu nhỏ khắc vào vàng ở mặt sau chiếc trâm. “Dấu xác nhận tiêu chuẩn. Ở nước Anh, tất cả các vật bằng vàng có khối lượng nặng như chiếc trâm này đều phải có dấu xác nhậ này. Một trong những dấu này - ba bó ngô - là con dấu nhỏ bé đáng yêu của văn phòng kiểm tra cửa hàng Chester. Nhưng văn phòng này đã đóng cửa rất lâu rồi - trước khi cô ra đời, tôi nghĩ vậy. Như tôi đã nói với cô khi lần đầu tiên cô trông thấy nó, đây có lẽ là một đồ vật thời Victoria”. Ông đưa chiếc trâm lại cho tôi. “Không phải là đồ làm giả thời Victoria hay theo phong cách tân Victoria, mong cô nhớ cho. Thời Victoria”. Ông khịt mũi. “Chiếc kia là một vật trang sức mới được chế tác. Không có dấu xác nhận - vì vậy hoặc không phải đồ chế tác ở Anh hoặc không phải bằng vàng. Có lẽ cả hai”.
Tôi tròn mắt nhìn chằm chằm vào hai chiếc trâm, chiếc của Roz trong tay trái và chiếc của tiến sĩ Sanderson trong tay phải.
“Nhưng tại sao bà lại lấy nó?”
“Bất chấp việc bà ấy luôn tuyên bố sống ngoài vòng quy luật, trộm cắp không có vẻ giống bà ấy, đúng không? Hãy cùng xem lại lá thứ sau”.
Cả ba chúng tôi cùng cúi xuống lá thư ở băng ghế sau. Văn phong về cơ bản giống với lá thư viết trước đó rất lâu của Ophelia gửi cho Jem, mặc dù ít hối hả hơn, như thể sự nhiệt tình đã lụi tàn trong con người bà. Chúng tôi đã phạm tội với cả Chúa trời và con người . Điều gì đã xảy ra?
Tôi đã trả lại tất cả những gì tôi có thể về đúng chỗ của chúng, mặc dù đã có những cánh cửa đóng sập lại trước mặt tôi; những thứ ít ỏi còn lại tôi đã chôn giấu ngoài khu vườn của mình. Nhưng có nhiều con đường dẫn tới sự thật. Kiệt tác thời Jacobean của chúng ta, c… 1623, là một. Shakespeare chỉ ra một cái khác .
“À!” Henry nói. “Và thế là Westminster?”
Tôi gật đầu.
“Cô thật đáng khâm phục”.
“Nếu tôi đáng khâm phục đến vậy, chúng ta đã có thể đi tới khu vườn của Ophelia với cái xẻng trong tay. tôi đã nói với ông là bà ta lớn lên ở Henley-in-Arden, gần Stratford chưa nhỉ? Cha của bà ấy là chủ của trại điên nơi Delia Bacon điều trị”.
“Ophelia” ông nói, khuôn mặt hiện rõ vẻ thú vị.
“Toi biết. Ông có thể nghĩ chuyện này giống như đùa cợt với số phận, khi một bác sĩ tâm thần lại đi đặt tên cho con gái mình là Ophelia. Chúng tôi cũng đã nghĩ liệu có phải bà ta muốn nói tới khu vườn tại Henley - cho dù nó vẫn còn tồn tại”.
“Nhưng cô đang nắm giữ nó” Henry nói.
“Nắm giữ cái gì cơ?”
“Khu vườn của bà ta” Ông chỉ vào tay trái tôi.
Tôi nhìn xuống những bông hoa trên chiếc trâm của Roz, những vệt màu tinh tế trắng, vàng, tím nổi lên trên nền hình ovan tối sẫm như lúc nửa đêm. Đây là hoa hương thảo, dành cho kỉ niệm. Và đây là những bông phăng xê, để dành cho những ý nghĩ. Thì là và columbine; cửu lý hương, những bông cúc và những violet đã lui tàn. Những bông hoa của Ophelia.
Bất thần tôi cảm thấy chiếc trâm như trở nên nóng bỏng trên tay.
Henry nhẹ nhàng cầm lấy chiếc trâm. Lật ngửa chiếc trâm lên, ông dùng bàn tay còn lại lấy trong túi áo ra một con dao gấp nhỏ, rồi kéo lưỡi dao ra. Ông nhẹ nhàng dùng dao kiểm tra khớp nối ở phía sau chiếc trâm. Với một tiếng tách nhỏ, toàn bộ phần sau của chiếc trâm bật mở giống như một hốc gắn ảnh.
Bên trong, tôi thoáng nhìn thấy hình những ngọn lửa. Ẩn trong lòng chiếc trâm là một bức chân dung nhỏ xíu tuyệt đẹp của một người đàn ông trẻ tuổi.
“Hilliard” Henry khẽ nói với vẻ kinh ngạc.
Với hội họa Anh thời Phục hưng, Nicholas Hilliard cũng tương tự như Shakespeare với kịch nói Anh thời Phục hưng vậy. Họa sĩ đã vẽ người mẫu của mình trong bộ trang phục thoải mái, chiếc áo sơmi vải gai mịn có cổ rộng viền đăng ten chưa cài cúc phía trước. Mái tóc vàng của chàng trai trẻ được cắt ngắn, ria mép và chòm râu cằm được tỉa cẩn thận; ở tai chàng trai lấp lánh một chữ thập cẩn ruby. Người thanh niên có đôi mắt thông minh và nhạy cảm, đôi lông mày nhướng cao, như thể chàng vừa kể một câu chuyện hài hước và đang tự hỏi mình liệu bạn có đủ nhanh trí, để theo kịp mạch chuyện hay không. Một tay chàng trai nâng niu mặt dây chuyền lớn được gắn vào một sợi dây chuyền vàng nặng đang đeo quanh cổ. Phía hậu cảnh, những ngọn lửa như đang bập bùng nhún nhảy.
“Ai đây?” tôi thở mạnh.
Henry chỉ vào những chữ cái màu đen chạy dọc mép trái của những ngọn lửa: Nhưng mùa hè vĩnh cửu của em sẽ không phai nhạt . “Cô biết câu này chứ?” ông hỏi với giọng khàn khàn.
Tôi gật đầu. Đây là một câu trích từ một trong những bài sonnet nổi tiếng nhất của Shakespeare, bài thơ bắt đầu bằng câu: Tôi có nên ví em với một ngày mùa hạ? Em đáng yêu hơn và cũng ấm áp hơn.
Giọng đọc truyền cảm của Henry vang lên trong xe:
Nhưng mùa hè vĩnh cửu của em sẽ không phai nhạt
Cũng không bao giờ mất đi vẻ đẹp
Và cái chết sẽ không bao giờ chiếm đoạt được em
Khi trên những dòng thơ bất tử em trẻ mãi cùng thời gian
Dừng lại, ông đọc hai câu thơ cuối cùng lên gần như một nhạc điệu:
Chừng nào con người còn thở, những đôi mắt còn nhìn
Chừng đó sẽ còn những dòng thơ này đem cho em sự sống.
Henry lắc đầu. “Không, William thì có, nhưng Shakespeare thì không”. Ông gật đầu, như thể lắng nghe một giai điệu xa xăm vẳng lại. Rồi ông đọc hai câu của một bài sonnet khác:
Dù những người đàn bà khác có gì để thỏa mãn đam mê, em có Will của em
Và một Will nữa, và nhiều Will hơn cần thiết
“Shakespeare nói như vậy với tình nhân của mình, về việc nàng có thêm một người tình nữa… Một thanh niên trẻ mà nhà thơ đã đẩy vào vòng tay tình nhân của mình, các vị thấy đấy, có vẻ như ở đây, có thêm một Will nữa”. Ông thở dài. “Vậy không phải là Shakespeare, không. Mà là người Shakespeare yêu mến”.
“Một trong số họ” Ben nói.
Henry nhìn anh ta trách móc. “Theo tôi đoán, chúng ta đang chiêm ngưỡng chân dung của chàng trai tóc vàng trong những bài sonnet của Shakespeare, đang bị thiêu đốt trong ngọn lửa vàng của tình yêu”.
“Nhưng là tình yêu nào?” tôi hỏi, đưa tay chỉ vào những chữ cái được viết dọc rìa bên phải.
Ad Maiorem Dei Gloriam, dòng chữ đó viết như vậy. Cho vinh quang lớn hơn của Chúa .
Tôi nhìn kĩ hơn. Mặt dây chuyền trên tay chàng thanh niên là vị trí mà độ tỉ mỉ của nét vẽ không khớp với phần còn lại, như thể đã được sửa chữa vào một thời gian muộn hơn. Cho dù ban đầu là vật gì đi nữa thì lúc này chàng thanh niên đang cầm trên tay một bức tượng chịu nạn. Một vật bị cấm ở nước Anh thời Elizabeth và James. Nhà thờ Anh chỉ dùng hình thập tự; hình chịu nạn, với tượng Chrisr chịu khổ hình, là một biểu tượng của Rome. Của Thiên chúa giáo.
Hilliard, một người Tin lành nhiệt thành đã kiếm sống bằng cách làm vui lòng triều đình, chắc hẳn đã vẽ ngọn lửa và băng giá của đam mê xác thịt; nhưng sau đó, vài nét cọ của một người khác đã thay đổi hoàn toàn bức họa thành một loại đam mê hoàn toàn khác; ngọn lửa tử vì đạo. Nhưng là sự hi sinh thực sự, hay niềm hi vọng được tử vì đạo?
“Tôi e là các vị không được dừng ở đây” một giọng nói vang lên. Tôi giật mình, vội vàng đóng nắp đậy bức tranh lại.
Chiếc xe đã giảm tốc độ, và có ai đó đã hạ cửa kính xuống. Giữa khung cửa là khuôn mặt một người đàn ông trung niên với mái tóc ngắn màu xám và đeo kính dày; người đàn ông mặc một chiếc áo mục sư màu đỏ. Đằng sau ông, mặt tiền bằng đá trắng của tu viện choán hết tầm nhìn của tôi. “Các vị không thể dừng ở đây được” ông ta lại bắt đầu, rồi ngưng bặt. “Ồ, Henry. Tôi không biết lại là ngài. Thật tuyệt khi lại được gặp ngài, thưa ngài”.
Sau đó, mặc dù các quy định chính thức nghiêm cấm chuyện này, Henry cũng tìm được cách đậu chiếc Bentley của mình ngay trước cổng tu viện, lấy cớ rằng ông muốn giới thiệu cho hai người bạn trẻ quang cảnh lộng lẫy của buổi lễ chiều. Tôi nhét chiếc trâm vào túi áo jacket rồi chúng tôi ra khỏi xe.
Ông mục sư đang đuổi một toán khách du lịch đi. “Buổi lễ đã bắt đầu, tôi xin lỗi” ông ta nói.
“Chúng tôi sẽ im ắng như chuột nhà thờ vậy” Henry hứa.
“Vào và ra ngay” Ben ra lệnh trong lúc chúng tôi khẩn trương chạy tới cửa lớn phía tây tu viện. “Càng nhanh càng tốt”.
Bên trong, ánh sáng màu xanh lục ngả xám nhàn nhạt tỏa ra mờ mờ với những màu sắc sáng hơn từ hình những nhà tiên tri trên khung kính màu cửa sổ phía tây. Phía trên đầu, tiếng hát giọng cao huyền ảo của một cậu bé vang vọng lên mái vòm trên trần. Linh hồn của con ngợi ca thiên chúa … Giọng trầm của ban đồng ca nam hòa quyện vào giọng hát trẻ trung của cậu bé trong những cung bậc của một bản phức điệu thời Elizabeth. Có lẽ là William Byrd hay Thomas Tallis.
Henry bước nhanh dọc những gian trống của giáo đường tới chỗ ban đồng ca như tỏa ánh sáng vàng ấm áp. Tôi phải vội vàng đi để theo kịp. Qua một vòm cuốn cao bằng đá chạm trổ, tôi nhìn thấy ban đồng ca và những người đang cầu nguyện, nhưng Henry đã lao sang phải, dưới một trụ cột khổng lồ, hướng vào lối đi nhỏ tranh tối tranh sáng. Ben và tôi theo sau. Không gian lại mở rộng ra, và Henry dừng bước chỉ tay về phía trước. Chúng tôi đang ở cung thờ phía nam của tu viện: Góc của các Thi sĩ.
Ngay phía trước, trên một bệ cao dưới chân tường kiểu tân cổ điển, Shakespeare đang cầm trịch triều đình ngẫu nhiên của mình trong kích thước của người thật bằng cẩm thạch trắng. Trên tường bao quanh ông là tượng bán thân của những thi sĩ khác lơ lửng như một bầy thiên sứ, nhưng dường như nhà viết kịch hoặc không nhận thấy hoặc không quan tâm đến. Với vẻ thờ ơ vĩnh cửu, ông hơi cúi xuống chồng sách phía trước mặt, cánh tay trái đưa ngang người, ngón tay trỏ chỉ vào một cuộn bản thảo.
Tôi rón rén lại gần ggocj những từ được khắc trên cuộn bản thảo. Những lời nói của Prospero, lời từ giả nghệ thuật đầy hoài cổ của người phù thủy trong vở Cơn bão táp , trong khi tiếng hát vang lên trầm bổng từ bên trái chúng tôi.
Những tòa tháp cao vờn mây
Những cung điện nguy nga lộng lẫy
Những đền thờ thâm nghiêm trầm mặc
Cả đến Quả cầu khổng lồ
Tất cả những gì nó thừa kế
Sẽ tan biến,
Và giống như một ảo ảnh được tạo ra
Không để lại phía sau dấu vết nào .
“Ông ta chỉ vào những lời thoại trong Cơn bão táp ” Ben nói. “Theo cô điều đó có ý nghĩa gì?”
Tôi đảo mắt nhìn quanh, và Henry rên lên. “Lạy Chúa, làm ơn đừng có thêm ngôi đền nào nữa. Hay là Hiệp sĩ đền thánh”.
“Đây không phải là nhà ông ấy, con người tội nghiệp” một giọng nói buồn rầu cất lên sau lưng, cả ba người chúng tôi giật mình. “Được an táng ở nơi khác, các vị biết đấy. Stratford sinh ra ông, và Stratford sẽ giữ ông mãi mãi. Mặc dù về lí - kho báu quốc gia và các lí do linh tinh khác - ông ta buộc phải ở đây”.
Tôi quay lại và thấy một vị mục sư mặc áo chùng đỏ. Một vài sợi tóc ngang ngạnh dựng thẳng lên trên đỉnh đầu, những nếp nhăn chạy ngang trên trán ông thành hình chữ M; hai tai người mục sư chĩa ra như tay cầm của một chiếc tách uống trà. Hai tay chắp sau lưng, ông ta đang nhìn bức tượng Shakespeare một cách kính cẩn. “Nhưng các vị đang có mặt ở đây” ông ta nói, cúi xuống nhìn chúng tôi chăm chú, “mặc dù về lí, các vị không được phép ở đây. Buổi lễ” ông ta nói thêm một cách không cần thiết lắm, “được tiến hành ở chỗ ban đồng ca. xin mời các vị”.
Henry tảng lờ cử chỉ của người mục sư hướng về phía những người đang cầu nguyện. “Tại sao Shakespeare lại chỉ vào lời thoại của Cơn bão táp ?”
“Bây giờ ông ấy làm thế sao?” vị mục sư cau mày. “Không phải lúc nào ông ta cũng làm vậy”.
“Ông không định nói bức tượng này chuyển động đấy chứ?” Henry hỏi.
“Ông ấy không thể, thưa ngài” vị mục sư đáp. “Ông ấy đã chết. Mặc dù, như tôi đã nói, không phải ở đây. Như Johnson nói, ‘Một đài tưởng niệm không có huyệt mộ’. Tôi tình cờ cũng có một chút thi sĩ trong người. Các vị có muốn nghe một hai câu thơ không?”
“Rất sẵn sàng” Ben nói vơi skhuoon mặt thật thà chân thành không thể tin nổi.
“Chúng tôi e là không thể” Henry nói, nhưng vị mục sư đã bắt đầu:
Khi Shakespeare qua đời, cả thế giới khóc than: Ôi Will, tại sao lại bỏ chúng tôi đi ?
“Đài tưởng niệm” Henry nghiến chặt hai hàm răng lẩm bẩm.
“Tôi tới đoạn đó rồi đây” ông mục sư nói. “ Ôi nấm mồ cẩm thạch ! Ôi lòng đất mẹ hiền !”
“Nó chuyển động được sao?” Henry hỏi.
Ông mục sư dừng lại lúng túng. “Cái gì chuyển động được cơ, thưa ngài?”
“Bức tượng”.
“Như tôi đã nói, thưa ngài, bức tượng này bằng cẩm thạch. Làm sao nó chuyển động được?”
“Ông nói là có mà”.
Ông ta cau mày. “Tại sao tôi lại nói thế?”
“Tại sao không quan trọng” Henry cắt ngang. “Hãy nói cho tôi biết anh bạn Shakespeare của chúng ta ngoài Cơn bão táp còn chỉ vào cái gì nữa khi anh ta di chuyển?”
“Nhưng ông ấy không chuyển động, thưa ngài. Có thể những bức tượng khác thì có. Nếu ngài thích tìm hiểu các thánh đường, thì ở đây có Temple, Inner Temple, Middle Temple” - ông ta vừa nói vừa đưa tay chỉ - “và tất nhiên cả Temple Bar nữa - mặc dù bây giờ nó đã bị chuyển tới Paternoster Row. Rồi cả các thánh đường của hội thợ nề tự do nữa…”
Tôi chặn mạch diễn thuyết của ông ta lại. “Những bức tượng nào vậy?”
Ông ta lại cau mày. “Chỉ có một bức tượng nữa. Trong ngôi nhà của Những kẻ bất tài”.
“Nhà gì?” Henry ngớ người.
Ông mục sư hắng giọng rồi nghiêm trang giải thích: “Gửi tới cặp anh em Cao quý và Bất tài nhất, William, bá tước Pembroke, và v. v., và Philip, bá tước Montgomery, và v. v”. Ông ta nháy mắt nhìn chúng tôi với vẻ thích thú rộng lượng. “Hai anh em đã báng bổ những trang mở đầu cuốn Tuyển tập Đầu tiên của Shakespeare. Bá tước Pembroke – tất nhiên là đời sau này – đã làm một bản copy bức tượng này tại dinh cơ của ông ta”.
Phía sau chúng tôi, dàn đồng ca đang hát tới bản Nunc dimitis : “Lạy Chúa, giờ người hãy để những kẻ phụng sự người được ra đi bình yên”.
Henry đưa hai tay ra ôm lấy hai má ông mục sư đang sững sờ rồi ôm hôn ông ta nồng nhiệt. “’Không gì sánh được’, ông bạn ngu ngốc tuyệt vời!” Henry hét lên. “Những người anh em ‘Không gì sánh được’, không phải là ‘Bất tài’” Vài chiếc đầu trong đám đông hành lễ bắt đầu lác đác quay lại. Henry không để ý tới họ, ông gần như bắt đầu khiêu vũ quay ông mục sư. “Và họ trang trí, ông bạn yêu quý. Chắc chắn họ không báng bổ cái gì hết”.
Cuối cùng cũng buông tha cho ông mục sư, Henrt lôi Ben và tôi quay ra. “Bức tượng của nhà Pembroke chỉ vào cái gì vậy?” vừa đi ông vừa hỏi vọng ra sau.
Dưới bóng bức tượng, khuôn mặt ông mục sư bắt đầu ửng đỏ. “Tôi không biết, thưa ngài, tôi chưa bao giờ trông thấy nó”. Ông ta lấy từ trong túi ra một tờ giấy gập đôi. “Tôi có một bản copy bài thơ của tôi…”
Nhưng Henry không dừng bước để nghe nốt lời đề nghị của ông ta. Trong khi chúng tôi hối hả đi ra ngoài, âm nhạc lại một lần nữa vang lên rung động không gian bao quanh chúng tôi. Ra đến bên ngoài, chúng tôi vội vã chạy dọc lối đi bộ tới xe.
“Tòa dinh thự Wilton, Barner” Henry ra lệnh. “Tư gia của các bá tước Pembroke”.
“Có vẻ dễ dàng quá” Ben lên tiếng khi chiếc xe rồ máy lao đi.
“Vậy anh hi vọng điều gì?” Henry cằn nhằn. “Cảnh binh bao quanh khắp nơi như ở phố Downing hay điện Buckingham chăng?”
“Góc của các Thi sĩ là một mục tiêu quá hiển nhiên. Chắc chắn phải có vài cảnh sát có mặt ở đó”.
“Nhưng đã chẳng có ai cả” Henry nói. “Hãy coi như anh may mắn. Có thể Thanh tra Cau có nghĩ tên sát nhân chỉ quan tâm đến những cuốn sách. Có thể ông ta nghĩ vì Shakespeare không ở đó, như ông bạn mục sư của chúng ta vừa nói, nên không đáng quan tâm đến tu viện. Cũng có thể là tu viện trưởng không đồng ý”.
“Có thể họ đã có mặt ở đó, và chúng ta có thêm người đồng hành” Ben nói.
Tôi quay lại đằng sau. Hai tòa tháp của tu viện đã gần biến mất hẳn khỏi tầm mắt. “Anh có thấy gì không?”
“Chưa” anh ta đáp.