← Quay lại trang sách

Chương 31

Chúng tôi thoát khỏi dòng xe cộ của London, hướng về phía tây nam tới thành phố nhỏ Salisbury, và Ben vẫn chưa phát hiện ra điều gì khả nghi. Tôi mở bản sao cuốn Tuyển tập của mình ra. Ngay sau trang in bức chân dung Shakespeare, tôi tới trang đề tặng:

Dành tặng cho những người anh em cao quý nhất và không gì so sánh được .

“Những người không gì so sánh được” Henry khoan khoái nói.

“Ông làm cho họ nghe như những siêu anh hùng vậy” tôi nói.

William Herbert, bá tước Pembroke, và em trai Philip, bá tước Montgomery - “Will và Phil”, Ben châm biếm - là hai trong số những quý tộc quyền thế nhất nước Anh thời vua James. Về đằng nội, họ là con cháu của một trong những gia tộc thịnh vượng nhất trong giới thượng lưu mới giàu có dưới triều Tudor. Gia đình họ bắt đầu sự thăng tiến từ trước đó hai thế hệ, khi vua Henry VIII sủng ái ông nội của họ, William Herbert, một anh chàng người xứ Wales vui vẻ và nóng tính đã thành hôn với em gái người vợ thứ sáu và cuối cùng của Henry, Katherine Parr. Từ một vụ án mạng, cuộc lưu đày tới Pháp, sự tha thứ của nhà vua, kéo theo việc lần lượt được phong tước hiệp sĩ, nam tước, rồi cuối cùng trở thành bá tước, đó là những nấc thàng ngoắt ngoéo, độc đáo dẫn tới quyền lực mà vị bá tước đầu tiên của gia đình đã leo lên bằng những sải bước dài, khiến cho con đường tiến thân của ông thoạt nhìn có vẻ dễ dàng.

Về đằng ngoại, có thể coi họ được thừa hưởng dòng máu quý tộc về ngôn từ. Mary Sidney, nữ bá tước Pembroke, là nhà bảo trợ lớn cho văn chương và học thuật, và bản thân bà cũng là một thi sĩ có tài. Anh trai bà, Philip Sidney, bác ruột của hai anh em Không gì so sánh được, vừa là thi sĩ vừa là người lính. Phong thái lịch lãm, trí tuệ, lí tưởng và cái chết khi còn quá trẻ của ông trên chiến trường đã tỏa sáng triều đình của Nữ hoàn Elizabeth bằng ánh sáng rực rỡ nhưng ngắn ngủi của một ngôi sao băng. Sau cái chết của ông, nữ bá tước đã biến mình thành người gìn giữ ngọn lửa đam mê của anh trai.

Với những tấm gương trong gia đình cùng gia tài vô bờ bến, các con trai của bà lớn lên thành những người đàn ông tinh tế, có văn hóa và thẩm mĩ. Các vị vua đã tín nhiệm họ như những người hiểu biết sành sỏi: Hai anh em đã lần lượt làm thị thần trong triều đình của các vua James và Charles I trong suốt hai mươi sáu năm.

Một trong những lĩnh vực nghệ thuật họ rành thưởng thức nhất là sân khấu. Vì các quý ngài đã hạ cố nghĩ rằng những thứ tầm thường vặt vãnh này là một điều gì đó đáng kể, cuốn Tuyển tập viết, và đã dành cho những tác phẩm cũng như tác giả của chúng lúc sinh thời rất nhiều ân huệ… Chúng tôi chỉ còn việc thu thập chúng lại, làm một việc có ích cho người quá cố, đảm bảo sự giám hộ cho những đứa trẻ mồ côi; không hề có tham vọng tư lợi hay danh tiếng: chỉ nhằm giữ cho những kí ức về Shakespeare của chúng ta, một người bạn đáng trân trọng, được sống mãi, bằng cách khiêm nhường đề tặng những vở kich của ông cho sự bảo trợ cao quý nhất của các ngài.

Lời đề tặng được những người bạn của Shakespeare diễn trong đoàn kịch của nhà vua, John Heminges và Henry Condell kí tên.

“Hai người thấy chứ?” Henry nói. Những vở kịch này là của Shakespeare. Heminges và Condell biết điều này, và cả Pembroke cũng như Montgomery đều biết”.

Tôi mỉm cười tinh quái nhìn ông. “Trừ khi ông tin rằng toàn bộ cuốn Tuyển tập chỉ là màn kế tiếp của một sự che đậy đã tồn tại từ lâu trước đó”.

“Cô không tin điều đó, và cô biết vậy. Còn hơn nữa, tôi biết điều đó”.

Tôi thở dài. Điểm mấu chốt của giả thiết này chính là quy mô mà một âm mưu như vậy đòi hỏi. Heminges và Condell đã kí tên lá thư đề tặng, nhưng lá thư này mang dấu ấn của học vấn nông cạn và đầy rẫy văn phong khoa trương trống rỗng có vẻ giống với phong cách của Ben Johnson một cách đáng phiền lòng. Nhiều học giả tin rằng chính Johnson đã viết lá thư, cho dù người kí tên là ai. Nếu thật sự có một âm mưu ở đây, thì không những chỉ Heminges và Condell, mà có lẽ cả đoàn kịch biết sự thật, như Ben Johnson đã nói, và ít nhất hai nhà quý tộc của vương quốc. Nhưng đã không ai hé răng để lộ ra.

“Không” tôi nói, “Ông có lí, tôi đã lầm”. Tôi không còn biết nên tin vào cái gì nữa. Lấy chiếc trâm từ trong túi áo ra, tôi nghĩ tới chàng thanh niên tóc vàng trong khi chúng tôi lao đi trong buổi chiều mùa hè dài dặc của nước Anh, màu xanh sẫm của bầu trời hầu như không một gợn mây, màu xanh lục của những cánh đồng và khu rừng cô đặc lại thành những tông màu của đá quý. Đi qua đỉnh những quả đồi trọc, chúng tôi trông thấy Stonehence lướt qua bên phải mình. Một lát sau, chúng tôi rẽ về phía nam rời khỏi trục đường chính, chạy vào một con đường hẹp băng qua cánh đồng, hai bên đường là những dãy hàng rào cây.

Witon - tư dinh của các bá tước Pembroke, vẫn nằm trên lối vào làng Wilton, cách Salisbury vài dặm Anh về phía tây. Phần đầu tiên của tòa dinh thự mà tôi nhìn thấy là bức tường đá cao phủ đầy rêu. Trên đỉnh một khải hoàn môn, bức tượng một hoàng đế Rome cưỡi trên mình ngựa hiền hòa nhìn xuống chúng tôi, nhưng cánh cổng sắt uốn hoa văn chắn ngang đường đi của chúng tôi vẫn kiên quyết đóng chặt. Một bảng chỉ dẫn cho biết bãi đậu xe cho buổi hòa nhạc ở phía đối diện tòa nhà: phía dưới bảng chỉ dẫn là một bản đồ.

Buổi hòa nhạc? Chúng tôi có thể thấy ánh đèn bật sáng ở phía đối diện của sân trước, nhưng không có lấy một bóng người.

Henry mặc kệ cả bảng chỉ dẫn lẫn sự vắng vẻ, ra lệnh cho Barner lái thẳng đến bảng nút bấm phía trước cổng. Hạ cửa kính xuống, ông bấm vào nút “Gọi cửa”. “Henry Lee đây” ông nói với giọng đầy uy quyền, “để xem ngôi nhà”.

Ông đang nghĩ gì vậy? Đã gần tám giờ tối rồi.

Hệ thống intercom vẫn im lặng.

Henry định bấm nút lần nữa thì cánh cửa chuyển động và từ từ hé mở một cách miễn cưỡng. Chiếc Bentley đi qua cổng, bánh xe nghiến lạo xạo trên sỏi trong khi chúng tôi đi vòng qua một khu vườn trung tâm với hàng cây nhỏ viền quanh, các tán cây giao nhau che kín khoảng không phá sau trừ tia nước phun lên của một đài phun. Ở mặt bên kia khu vườn có một khung cửa lớn mở rộng. Một người phụ nữ nhỏ nhắn với nụ cười lo lắng trên khuôn mặt bước qua khung cửa ra ngoài.

“Chào mừng đến với Wilton, tư dinh của các bá tước Pembroke. Thật vui khi được gặp ngài, Henry”. Người phụ nữ đưa tay ra. “Tôi là Marjorie Quigley, hướng dẫn viên chính. Tôi không hề biết quý vị có trong danh sách tham dự tua tham quan tối nay. Mặc dù cũng có ý nghĩa phải không ạ? Âm nhạc của Shakespeare, và tất cả. Nhưng tôi e quý vị đến hơi sớm” người phụ nữ nói trong khi chúng tôi ra khỏi xe. “Quý vị thấy đấy, tua tham quan ngôi nhà dự kiến sẽ diễn ra sau buổi diễn - mà lúc này đang bắt đầu”.

“Và tôi đã nóng lòng chờ đợi cả hai đến thế” Henry vừa nói vừa thở dài. “Nhưng phiền một nỗi hai người bạn trẻ của tôi không thể lưu lại sau buổi diễn”.

“Thật tiếc quá!” bà Quigley nói, quay sang nhìn hai chúng tôi. “Trong ánh nến ngôi nhà thực sự rất đẹp”.

“Có lẽ…” Henry khẽ ho một cách tế nhị. “Liệu có làm phiền cô nhiều không nếu chúng tôi đảo nhanh qua xem ngôi nhà chỉ một chút thôi ngay bây giờ?”

“Nhưng quý vị sẽ lỡ mất buổi biểu diễn” bà ái ngại nói. “Dàn nhạc giao hưởng Bournemouth trong ‘Một buổi tối cho Shakespeare trong âm nhạc’”.

“Tôi thà để lỡ buổi diễn còn hơn lỡ dịp tham quan ngôi nhà” Henry nói.

“Tất nhiên rồi” bà Quigley nói. “Tất nhiên ngài cần vào trong”. Chúng tôi vội vàng đi qua cửa trước khi bà ta kịp đổi ý.

Giữa một gian tiền sảnh có độ vang rất ấn tượng, Shakespeare đứng giữa những khung cửa sổ kiểu Gothic, được chiếu sáng từ phía sau bởi ánh sáng màu xanh nhạt của buổi chiều muộn. Giống như ở Westminster Abbey, ông lơ đãng tựa người trên một khuỷu tay chống lên chồng sách. Nhưng ở đây bức tượng của ông không được đặt dưới một mái vòm. Đứng tự do giữa căn phòng, trông ông có vẻ lớn hơn và thoải mái hơn. Chiếc áo khoác trên vai ông đang gấp nếp như dưới một cơn gió thổi qua, trong khi người mặc áo nhìn thẳng về phía trước, đắm mình trong suy tưởng như thể đang sáng tác một tác phẩm mới. Không phải là thứ gì đó rắc rối và mệt mỏi như một vở kịch hoàn chỉnh, nhưng có lẽ là một bài sonnet, hay một bài hát. Một thứ gì đó có nhịp điệu.

“Đẹp đấy chứ?” bà Quigley tự hào nói. “Một bản sao, được làm năm 1743, theo bức tượng đặt tại Westminster Abbey”.

Nhưng không phải là một bản sao giống hệt. Như ông mục sư đã nói, những từ trên cuộn bản thảo khác hẳn:

CUỘC SỐNG chỉ là một CHIẾC BÓNG bước đi vật vờ

Một DIỄN VIÊN tồi

Đi nghênh ngang và gặm nhấm thời gian của mình

Trên SÂN KHẤU

Và rồi không còn ai nghe tới nữa

Shak, Mach .

“Cháu tôi nói các diễn viên tin rằng Macbeth là một vở kịch không may mắn” bà Quigley nói, “nhưng tôi tin là các bá tước Pembroke không bao giờ thấy như vậy. Lời trích dẫn này đã là một phần của tòa nhà này từ thời Shakespeare. Quý vị biết đấy, ông đã từng tới đây”.

Tóc gáy tôi dựng ngược.

“Nhưng bức tượng ra đời hơn một thế kỉ sau khi ông qua đời” Henry đột ngột lên tiếng.

“Vâng, đúng vậy. Nhưng trước khi có bức tượng, lời trích dẫn này đã được dùng trang trí cho cổng vào cũ của ngôi nhà”.

Henry quay lại nhìn khuôn cửa chúng tôi vừa mới bước qua.

“Không phải cửa này” bà Quigley nói, với vẻ thú vị lộ rõ. “Toàn bộ phần cửa vào đã được sửa lại vào thế kỉ mười chín”. Đi qua bức tượng, qua cửa tới hành lang tách biệt chạy vòng quanh nhà, bà chỉ tay xuống một khoảng sân phía dưới. Giống như ở thư viện Widener, Wilton là một tòa nhà hình vuông rỗng giữa bao quanh một khoảng sân rộng; chúng tôi tới một nơi có vẻ là tầng trệt, nhưng lúc này rõ ràng ở các phía khác của tòa nhà tầng này lại là tầng hai, như thể tòa nhà xây tựa vào sườn đồi.

Phía dưới, ở bên trái là một khung cửa vòm. Vào thời Shakespeare, bà Quigley nói với chúng tôi, đó từng là một khung cửa ngoài trời dẫn ra sân. Những người đánh xe có thể đánh xe ngựa qua đó để đưa các quý ông và phu nhân - và thỉnh thoảng cả những đoàn diễn viên - tới lối vào chính của dinh thự, vào thời đó ở phía trong sân. Một mái cổng nhỏ tuyệt đẹp, theo bà mô tả, được lắp các máng xối trang trí, gần như bên dưới nơi chúng tôi đang đứng.

Shakespeare đã đi qua mái vòm đó, tôi thầm nghĩ. Ông đã ngồi trên những phiến đá ở khoảng sân bên dưới, ngước mắt lên ngắm bầu trời - liệu trời lúc đó mưa hay nắng đẹp? Ông đã ăn và uống cạn cốc bia, mà cũng có thể là rượu vang của mình đâu đó bên trong những bức tường này, trao đổi những cái nhìn kín đáo với một cô gái có đôi mắt nâu xinh đẹp, viết vội vàng lên một tờ giấy, ngắt một đóa hoa đồng nội, tiểu tiện vào một vũng nước, chơi xúc xắc, ngủ và có thể đã từng mơ ở đây. Với đôi mắt nghiêm khắc của một đạo diễn, ông đã quan sát khán giả trong khi họ theo dõi vở kịch của ông, đón nhận từng cử chỉ bồn chồn, những cái liếc nhìn say đắm, những giọt nước mắt, những cái miệng há hốc ra kinh ngạc, và hay hơn cả, những tiếng cười sảng khoái. Cảm giác hiện tại là một thứ mà không Athenaide, không Folger, không quỹ Quả cầu nào, với tất cả đống tiền bạc của họ cũng không thể tái tạo được. Ông đã từng ở đây.

“Ngôi nhà Shakespeare, họ đã từng gọi mái cổng nhỏ đó như vậy” bà Quigley trầm ngâm. “Quý vị cũng biết đấy, có những truyền thuyết trong gia đình kể lại rằng đoàn kịch của nhà vua đã dùng nơi đó làm sân khấu. Nhưng bây giờ nó thường được gọi là cổng Holbein”.

“Nó vẫn còn tồn tại sao?” giọng nói của Henry vang lên, không giấu được vẻ háo hức.

“Ồ, vâng. Nhờ may mắn và sự trung thành, tôi nghĩ vậy: Nó đã bị dỡ ra khi tòa nhà được cải tạo lại vào đầu thế kỉ mười chín, và những phiến đá của nó gần như đã bị tản mát đi. Nhưng một người thợ nề già bướng bỉnh từng làm việc cả đời ở khu dinh thự này đã cương quyết không chịu để những viên đá đó bị mất đi. Thu nhặt từng viên đá, ông ta mang hết ra vườn và xây lại như cũ. Và nó vẫn ở đó cho tới tận bây giờ, ở phía cuối khu vườn riêng của các bá tước. Nhưng tôi cho là câu trích dẫn cũ đã không còn dấu vết”.

Cố gắng chiều lòng các vị khách, bà ta dẫn chúng tôi trở lại tiền sảnh, dừng bước trước bức chân dung toàn thân của một kỵ sĩ. “Vì quý vị quan tâm tới Shakespeare, quý vị chắc cũng sẽ quan tâm đến bá tước đời thứ tư. Một trong hai anh em Không gì so sánh được được nhắc tới trong cuốn Tuyển tập Đầu tiên ”. Vị bá tước trong tranh có mái tóc sáng màu để dài tới ngang vai và một vẻ mặt mỉa mai khinh khỉnh. Bộ đồ bằng satin màu vàng sẫm bá tước đang mặc là một kiệt tác về sự sang trọng một cách chừng mực, mặc dù người trong tranh có vẻ đặc biệt ưa thích đăng ten. “Đây là người em” bà Quigley nói. “Philip Herbert. Ông ta là bá tước Montgomery đời thứ nhất khi bức tranh này được vẽ. Ông ta thành hôn với một trong các con gái của bá tước Oxford”.

Vero nihil Verius , tôi thầm nghĩ. Không có gì đúng hơn sự thật.

“Sau đó, ông ta cũng thừa kế cả danh hiệu bá tước Pembroke quan trọng hơn khi anh trai ông qua đời mà không có con, kết quả ông vừa là bá tước Montgomery đời thứ nhất vừa là bá tước Pembroke đời thứ tư. Kể từ đó hai lãnh địa bá tước được hợp nhất làm một”.

Bà ta tiếp tục diễn thuyết, nhưng tôi quay lại với bức tượng. Cả vị bá tước lẫn ngôi nhà của Shakespeare lúc này đều không quan trọng. Shakespeare chỉ tới sự thật , Ophelia đã viết như vây. Có nghĩa là sự thật đang nằm ở rất gần tôi.

Bốn từ trên cuộn bản thảo được khắc bằng chữ hoa: CUỘC SỐNG, CHIẾC BÓNG, DIỄN VIÊN, SÂN KHẤU. Điều này có nghĩa là gì? Ngón tay của Shakespeare có vẻ chỉ vào từ CHIẾC BÓNG… điều này thì có gò hơn các thánh đường?

CUỘC SỐNG, CHIẾC BÓNG, DIỄN VIÊN, SÂN KHẤU.

Tôi cau mày nhìn những từ được khắc trên cuộn bản thảo. Rồi bước lại gần hơn. Chữ L trong từ CUỘC SỐNG (LIFE’S) còn mờ mờ những vệt dát vàng. “Có phải bức tượng đã từng được sơn không?” Tôi đột ngột hỏi.

Bà Quigley quay sang tôi. “Không, cô gái thân mến, bức tượng thì không” bà nói. “Ít nhất thì cũng không phải toàn bộ bức tượng; Làm thế với đá cẩm thạch trắng Carrera thì thật tệ. Nhưng những từ đó đã từng được sơn. Một chuyên gia phục chế đã nghiên cứu chúng rất kĩ mới vài năm trước đây. Tôi có một bản tái tạo bằng máy tính của anh ta về bộ dạng ban đầu của chúng nằm đâu đây thôi”. Đi tới chiếc bàn ở góc đối diện, bà ta mở một ngăn kéo ra. “À”.

Chúng tôi đi tới xúm quanh bà ta. Trên bức ảnh dựng bằng photoshop, phần lớn các chữ cái có màu xanh. Nhưng các từ được khắc bằng chữ hoa lại có các chữ cái sơn màu đỏ với một ngoại lệ là mỗi từ màu đỏ - CUỘC SỐNG (LIFE’S), CHIẾC BÓNG (SHADOW), DIỄN VIÊN (PLAYER), SÂN KHẤU (STAGE) - đều có một chữ cái được dát vàng.

“L-A- R-E”, tôi đánh vần từng chữ.

“Có nghĩa là E-A- R-L (Bá tước)” bà Quigley cười vui vẻ. “Tượng trưng cho bá tước, tất nhiên rồi. Gia đình này luôn ưa thích những trò đảo chữ và những câu đố hóc búa. Đặc biệt là vị bá tước đã cho đặt bức tượng này ở trung tâm gian sảnh chúng ta đang đứng. Thật không may, đó không phải là tất cả những gì ông ưa thích”. Người hướng dẫn viên lắc đầu như thể lấy làm phiền lòng trước những trò nghịch ngợm của một chú nhóc năm tuổi ngỗ ngược. “Ông ta có một đứa con trai trong một cuộc phiêu lưu ngoài hôn nhân. Khi vợ ông ta không cho phép bá tước được đặt tên thánh cho đứa trẻ bằng bất cứ cái tên nào của gia đình, ông ta đã đảo lộn từ Pembroke và đặt cho đứa trẻ tội nghiệp cái tên ‘Reebkomp’. Thêm vào đó, tên giữa của đứa trẻ được ông ta đặt là ‘Retnuh’ - họ của người mẹ đứa trẻ là Hunter được viết đảo ngược lại. Ít nhất thì cái tên thứ nhất của đứa bé cũng là một cái tên thật sự - mặc dù ‘Augustus’, nếu quý vị hỏi ý kiến của tôi, là một yêu cầu quá cao cho đứa trẻ phấn đấu khi trưởng thành”.

Vẻ mặt người phụ nữ tối đi. “Một số người cho rằng những chữ cái đo cũng có thể hiểu là R-E- A-L - ‘hoàng gia’ trong tiếng Pháp. Nhưng các bá tước của gia đình này chưa bao giờ dòm ngó đến ngai vàng. Và họ cũng không làm ra vẻ vương giả - ít nhất theo tiêu chuẩn của…”

“Lear!” tôi kêu lên. “Còn có thể là ‘L-E- A-R’”.

“Ồ!” bà Quigley ngỡ ngàng. Sự im lặng của bà lan ra khắp căn phòng. “Ra là vậy. L-E- A-R. Giống như Vua Lear. Tôi đã không bao giờ nghĩ đến”.

Henry quay sang người phụ nữ tội nghiệp. “Liệu bá tước có một bản gốc cuốn Tuyển tập Đầu tiên không ?”

Khuôn mặt người phụ nữ thoáng tái đi. “Tôi không thể nói về điều đó. Tôi e là vậy. Những biến cố mới đây và những chuyện linh tinh. Tuy nhiên người phụ trách lưu trữ chắc sẽ vui lòng giúp đỡ quý vị nếu quý vị gọi điện thoại hẹn trước trong tuần”.

“Chẳng lẽ ở đây…” Henry định hỏi gì đó.

“Ông ta chỉ vào chiếc bóng” Ben thì thầm vào tai tôi.

Nhìn bức tượng Shakespeare, tôi hiểu ra anh ta muốn nói gì. Điều đó không có ý nghĩa gì với một cuốn sách. Nhưng sẽ có ý nghĩa với nghệ thuật. Có ý nghĩa với điêu khắc.

“Có bức tranh nào về vua Lear ở đây không?” tôi hỏi. “Hay tượng? Bất cứ hình ảnh nào từ các vở kịch của Shakespeare?”

Bà Quigley lắc đầu. “Tôi không nghĩ là có… ngoài bức tượng này, tất nhiên rồi. Để tôi xem nào… Không. Có rất nhiều tác phẩm về thần thoại - Dedalus và Icarus, đúng rồi, và Leda với con thiên nga. Nhưng bức tranh duy nhất liên quan đến văn học tôi có thể nhớ ra minh họa tác phẩm của ngài Philip Sidney chứ không phải của Shakespeare”.

Mắt tôi mở to. “Tác phẩm nào của Sidney vậy?”

“ Arcadia. Ông viết cuốn sách này cho em gái mình khi sống tại đây. Arcadia của nữ bá tước Pembroke là tên đầy đủ của tác phẩm”.

“Arcadia là một nguồn tư liệu cho vở kịch Vua Lear ” tôi nói, quay từ Ben sang Henry. “Câu chuyện về một ông già mù lòa bị hủy hoại trong tay gã con trai ngoài giá thú độc ác, sau đó được người con trai tốt - và cũng là con chính thức - của mình cứu thoát”.

“Cốt truyện Gloaucester” Henry khẽ thì thầm.

Bà Quigley nhìn ngược nhìn xuôi bối rối.

“Những bức tranh đó ở đâu?” Ben hỏi.

“Có cả một loạt tranh về chủ đề này ở Single Cube Room - một trong những căn phòng theo phong cách Palladian được Inigo Jones trang trí. Chúng không hẳn được vẽ vào thời của Shakespeare, nhưng cũng gần như vậy. Theo đơn đặt hàng của, quý vị thử nghĩ xem, Philip, bá tước đời thứ tư”.

Một trong những người Không thể so sánh.

“Xin hãy dẫn chúng tôi tới đó, bà Quigley yêu quý” Henry nói đầy uy quyền. “Xin mời dẫn đường”.

Chúng tôi đi theo bà vào hành lang kín, vòng qua rìa bên trong của sân trong, đi qua những bức tượng của các hoàng đế, các vị thần và các bá tước bằng cẩm thạch cổ điển, tới phía đối diện tòa nhà. Trong khi bà dẫn chúng tôi vào một căn phòng nhỏ treo đầy những bức tranh quý khổ nhỏ, tiếng kèn đồng từ xa văng vẳng vọng lại qua những khung cửa sổ sáng mờ, kèm theo những tiếng rung nhẹ nhàng từ bộ dây của dàn nhạc. Bản Giấc mộng đêm hè của Mendelssohn.

Hối hả băng qua những căn phòng có kích thước lớn dần, cuối cùng chúng tôi tới một căn phòng rộng và lộng lẫy đến mức có thể làm các vị vua sững sờ và các hoàng đế cũng phải hài lòng. Dưới ánh sáng mờ, những bức tường màu sáng của căn phòng như oằn xuống dưới những món đồ trang trí bằng gỗ chạm trổ, những hình bó hoa, mề day, tiên nữ, tất cả đều mạ vàng - một lượng vàng có thể khiến khu mỏ huyền thoại của Ophir phải cạn kiệt. Chân dung của gia đình Pembroke và những người cùng vai vế treo la liệt xung quanh chúng tôi. Van Dyck đã trang trí gần kín hết bức tường phía xa bằng vẻ lộng lẫy, đầy tự hào ngạo nghễ với trang phục bằng lụa trắng và đỏ sẫm, nhưng màu nâu vàng và mái tóc dài, kiểu cách của các quý ông. “Bá tước đời thứ tư và hậu thế của ông” bà Quigley nói.

Từ phía dưới sân tiếng vỗ tay hoan hô rộn rã vang lên. Tôi liếc qua cửa sổ và thấy một sân khấu hình bán nguyệt quay mặt về phía đối diện với căn phòng chúng tôi đang đứng. Phía sau sân khấu là đám đông chăm chú ngồi theo dõi trong màn đêm đang dần buông xuống. Tiếng vỗ tay im hẳn.

Đi qua căn phòng, bà Quigley mở một khung cửa cao và dẫn chúng tôi vào căn phòng nhỏ hơn nằm bên cạnh. Giữa phòng kê một chiếc bàn ăn bày đồ bạc theo phong cách thời vua George. Vàng như bay lượn khắp xung quanh căn phòng: những chiếc lông chim cách điệu rải khắp các bức tường màu trắng, những con đại bàng sải cánh gầm thét trên các khung cửa, và những tiểu thiên sứ đang vẫy những đôi cánh nhỏ xinh xắn. Bà Quigley đưa tay chỉ lên trên, và trong khi tôi ngước nhìn lên cảnh Icarus đang rơi từ trên không xuống, người cha Dedalus kinh hoàng mở to mắt nhìn theo, những âm thanh não nề của dàn kèn đồng từ bản Romeo và Juliet của Prokhofiev vọng vào qua cửa sổ.

Tiếng nhạc dần dần lắng xuống, trở nên êm dịu. “Đây” bà Quigley nói, chỉ tay vào dưới cửa sổ. “Tôi chưa từng quan sát kỹ những bức vẽ về Arcadia, nhưng chúng bắt đầu ở chỗ này”. Hoàn toàn bị hút hồng vào bức tranh trên trần cũng như khung cảnh sang trọng xung quanh, tôi đã không hề nhận ra những bức vẽ này: những bức tranh nhỏ hình chữ nhật nằm cao ngang đầu gối được vẽ trên những tấm ốp tường chạy vòng quanh căn phòng. “Tôi e rằng phải yêu cầu quý vị dùng đèn bấm để quan sát chúng” bà nói với vẻ ái ngại, đồng thời lấy ra một chiếc đèn bấm. “Và chú ý đừng để ánh sáng chiếu qua cửa sổ. Quý vị cũng thấy căn nhà đang được dùng làm hậu cảnh cho buổi biểu diễn và chỉ được chiếu sáng tới mức như vậy thôi”.

Ben cầm lấy cây đèn, bật lên trong khi tôi quỳ gối xuống và cúi lại gần tường. Ở tiền cảnh có hai mục đồng đang kéo một người đàn ông trẻ tuổi từ dưới biển lên; phía hậu cảnh, một con tàu bốc cháy đang chìm dần. Tôi nhìn kĩ hơn. Cột buồm của con tàu đã đổ nghiêng. Người đàn ông trẻ tuổi còn lại là Astride, thanh gươm trong tay vung lên cao như thể anh ta đang thúc ngựa laovào trận chiến. Đó là cảnh mở màn của vở Người Arcadia .

Tiếp theo là những bức tranh khác chạy dọc bức tường, bao quanh khắp căn phòng. Trong cơn đam mê trang trí của mình, tác giả đã vẽ lên cả các góc phòng.

Với một sự kết hợp khéo léo giữa gợi trí tò mò và tán tỉnh, Henry đã kéo được bà Quigley ra căn phòng liền trước, rồi đóng cửa lại. Trong lúc màn đêm đang buông xuống hoàn toàn, tôi lom khom bò quanh phòng, quan sát những quý bà đang ngất đi trong những bộ xiêm y lộng lẫy bằng lụa vàng, trong khi những người đàn ông giáp trụ sáng ngời giao chến quyết liệt với vẻ mặt hoặc dữ tợn hoặc ngạc nhiên, hay cả hai. Những giai điệu của Prokhofiev vẫn từ cửa sổ vọng xuống lọt vào tai tôi. Thỉnh thoảng, tôi còn loáng thoáng nghe thấy tiếng nói chuyện thì thầm của Henry và bà Quigley ở phòng bên.

Tôi đã loay hoay kiểm tra hết dọc bức tường thứ nhất, rồi cả bức tường thứ hai, nhưng vẫn không thấy gì có vẻ liên quan tới câu chuyện về Vua Lear. Có thể câu chuyện này đã không được vẽ lại - dù sao nó cũng chỉ là một mạch chuyện phụ. Tôi lại vòng qua một góc phòng nữa và bắt đầu với bức tường thứ ba.

Ngay phía trước một lò sưởi bằng cẩm thạch, tôi cúi người nhìn qua gầm một chiếc bàn và dừng sững lại. Trên nền toan sẫm màu, một ông lão ngồi dưới một cây thạch nam, một chàng trai trẻ với khuôn mặt thánh thiện ngồi bên cạnh. Xa hơn phía góc bức tranh, một người đàn ông trẻ khác với khuôn miệng tàn nhẫn và đôi mắt hung bạo nấp nhìn họ từ dưới bóng một gốc cây.

“Tôi nghĩ chúng ta đã tìm ra rồi” tôi nói.

Nhưng tôi phải làm gì với bức tranh đây.

Shakespeare chỉ tới sự thật . Ở ngoài tiền sảnh, Shakespeare đã chỉ vào CHIẾC BÓNG.

Tôi thận trọng sờ lên bóng của thân cây bằng một ngón tay, thận trọng cảm nhận sự tiếp xúc với mặt tranh xung quanh rìa của bóng cây, nhưng tôi không cảm thấy gì ở dưới.

“Có một bức tranh tương tự ở phía bên kia lờ sưởi” Ben nói.

Bức tranh cũng thể hiện những nhân vật tương tự, nhưng vẻ mặt của các nhân vật đã bị biến đổi đi đến mức gần như biếm họa. Một tia chớp xé toang màn đêm, và bóng của thân cây cũng sẫm hơn.

Một lần nữa, tôi lại lấy một ngón tay chạm vào bóng cây, và cũng không cảm thấy gì. Lần này tôi ấn mạnh vào đó. Không có gì xảy ra. Tôi ấn mạnh hơn nữa.

Và một tiếng tách nhỏ, một hình hoa hồng nhỏ mạ vàng bật ra, giống như một tay nắm. Tôi cầm lấy nó và kéo, và cả bức tranh cùng tiến lên phía trước, để lộ một khoảng trống tối đen giữa bức tường đá phía sau và tấm ốp tường.

Trên một chiếc giá nhỏ đặt trong khoảng trống, có một gói được buộc bằng một dải ruy băng đã phai màu, bên ngoài phủ dày lớp bụi của nhiều thế kỷ.