← Quay lại trang sách

Chương 32

Tôi nhấc gói đó ra và tháo ruy băng. Có vẻ bên ngoài là một tấm da. Bên trong có hai tờ giấy cuộn tròn. Tôi thận trọng giở tờ giấy thứ nhất ra; nó vẫn còn mềm mại một cách đáng ngạc nhiên. Đây là một lá thư, được viết vào tháng Mười một năm 1603 và bên ngoài có ghi “Gửi con trai tôi, Philip Herbert, đang hầu cận nhà vua tại Salisbury”.

Con trai yêu quý,

Mẹ cầu xin con hãy thuyết phục nhà vua tới thăm chúng ta tại Wilton nhanh nhất có thể. Chúng ta đang có Shakespeare tại đây, và lời hứa về một vở kịch nói có tên ‘Đúng như bạn thích’. Nhà vua vốn thích các vở hài kịch, và vở diễn này sẽ giúp ngài có một dịp vui vẻ để chúng ta có thể cầu khẩn người cho Walter Raleigh, như mẹ rất muốn làm. Mẹ cầu Chúa gìn giữ con bình an và sớm cho chúng ta được vui vẻ gặp lại nhau.

Người mẹ luôn yêu con,

Phu nhân Pembroke

Con hãy lượng thứ cho bức thư ngắn ngủi này, mẹ viết nó trong lúc vội vã .

Chúng ta đang có Shakespeare tại đây . “Lá thư bị thất lạc của Wilton!” tôi khẽ nói. Từ Mary Sidney Herbert, nữ bá tước Pembroke, gửi cho con trai Philip của bà, vào những tháng đầu tiên tại vị của vua James, khi bệnh dịch đã khiến cả triều đình và các nghệ sĩ phải lánh xa London. Từ lâu đã có những lời đồn đại về sự tồn tại của lá thư này, nhưng chưa học giả nào được tận mắt trông thấy nó. Tuy vậy hệ lụy nó tạo ra thì ai cũng biết. Walter Raleigh khốn khổ vẫn bị nhốt trong tù, nhưng nhà vua đã tới thăm Wilton, và các nghệ sĩ đã trình diễn vở Đúng như bạn thích , và sau đó là Đêm thứ mười hai .

Bên ngoài, bản nhạc của Prokhofiev đã biến thành một tiếng thét đau đớn và căm hận. Với hai bàn tay run rẩy, tôi giở tờ giấy thứ hai ra. Đây là một bức thư khác, không đề ngày tháng, và được viết bởi một bàn tay khác. Tôi đọc lên thành tiếng:

Gửi tới con Thiên nga Ngọt ngào nhất từng bơi trên Avon

Ben Jonson là người đầu tiên dùng cách diễn đạt Thiên nga Ngọt ngào của Avon trong cuốn Tuyển tập Đầu tiên . Tôi nghĩ đây là một lá thư gửi cho Shakespeare.

Tiếng nhạc lắng xuống.

“Tiếp tục đi.” Ben giục.

Trôi dạt theo một ngọn thủy triều ngờ vực và bất an, cuối cùng tôi đã dạt vào bờ để …

Ở căn phòng bên cạnh, tiếng đồ đạc va đập phá vỡ sự im lặng. Chúng tôi lạnh người. Tiếng bước chân vang lên trên sàn nhà, nhỏ dần hướng ra xa.

“Theo tôi!” Ben nói, lao nhanh tới cánh cửa chúng tôi đã dùng để vào căn phòng. Rút súng ra, anh ta ra hiệu cho tôi nấp vào tường sau lưng mình. Anh ta nghe ngóng một lát. Đến khi tiếng vỗ tay vang lên phía dưới, anh ta lướt nhanh đến mở một cánh cửa, chĩa súng vào căn phòng tối mờ mờ phía sau.

“Henry?”

Không ai trả lời. Ben bật đèn bấm lên quét quanh phòng.

Henry nằm bất động giữa phòng, vết máu đã sẫm màu long lạnh trên mặt ông. Khi tia sáng lướt qua người ông, ông rên lên thành tiếng. Ông vẫn còn sống.

Chúng tôi lao ngay tới bên ông. Ông cũng đang cố gắng tự ngồi dậy. Đỡ Henry ngồi lên, tôi lấy chiếc khăn tay rất đẹp từ túi áo ông ra bịt lên vết cắt chéo qua má ông.

Ben thận trọng lần tới chiếc cửa ở phía cuối phòng nhưng không tìm thấy gì. Quay trở lại, anh ta cộc cằn hỏi Henry. “Ông có nhìn thấy người đã tấn công mình không?”

Ông lắc đầu.

“Bà Quigley đâu?”

Henry bật ho. “Tôi vừa đưa bà ấy ra ngoài tiền sảnh” ông thở hổn hển. “Đang quay lại thì…”

“Quay lại căn phòng Arcadia” Ben nói, hất đầu về hướng đó. Tôi cầm theo những lá thư đi, theo sau là Ben dìu đỡ Henry. Vọng qua cửa sổ là những giai điệu âm u của bản nhạc mở đầu bộ phim Henry V của Branaugh.

“Cô tìm thấy thứ gì phải không?” Henry khàn khàn hỏi, cầm lấy chiếc khăn tay từ tay tôi để lau máu trên mặt.

“Những lá thư”.

“Đưa chúng cho tôi” Ben nói, “và đóng cửa lại”.

Tôi ngần ngừ. “Chúng ta không thể…”

“Cô nghĩ để chúng lại đây sẽ an toàn sao?”

“Tôi không lấy cắp…”

Anh ta giật lấy những bức thư từ tay tôi. “Được thôi” anh ta nói với giọng cay độc. “Tôi sẽ ăn cắp. Giờ hãy khóa cái cửa chết tiệt ấy lại rồi đi thôi”.

Tôi nhìn Henry. “Anh ta có lý” ông nói với giọng the thé. Tôi đẩy chiếc tay nắm hình hoa hồng về vị trí cũ và tấm ốp tường có vẽ tranh ở trên đóng lại với một tiếng tách nhẹ, không để lại kẽ hở nào khiến người ta nghi ngờ có một ngăn rỗng bên trong.

Phía bên phải có một khung cửa cao dẫn trở lại hành lang. Bn nhẹ nhàng hé mở cửa. Bức tường dài với những khung cửa sổ của dãy hành lang lóe sáng trông như những tảng băng dưới ánh sáng hắt lên tòa nhà từ phía sân khấu, nhưng bên trong hành lang vẫn hoàn toàn tối om. Toàn bộ phía trong tòa nhà đều chìm trong bóng tôi - kể cả tiền sảnh nằm ở phía đối diện khoảng sân lộ thiên ở giữa khu nhà. Vậy bà Quigley đang ở đâu?

“Tránh để bị trông thấy” Ben thì thầm, khẽ tới mức tôi hầu như không nghe rõ. Áp sát vào bức tường bên trong tối đen, chúng tôi vội vã đi qua dãy hành lang, Ben giúp Henry di chuyển.

Khi chúng tôi tới gần gian tiền sảnh, tiếng gõ cửa ở phía cửa trước khiến chúng tôi giật mình sững lại. Khi chúng tôi tới cửa vẫn còn mở; tôi không nhớ là bà Quigley đã đóng nó lại. Trước khung cửa, dưới ánh sáng lờ mờ từ cửa sổ hắt vào, Shakespeare trông như đang cúi gập người xuống đau đớn.

Không có ai ra cửa trả lời. Ben bật đèn bấm lên, lướt nhanh một vòng quanh sảnh, và tôi hiểu ra tại sao bức tượng Shakespeare trông như bị gập xuống. Bà Quigley đang quỳ gối trước bức tượng. Rồi tôi nhìn thấy chiếc khăn quàng quanh cổ bức tượng Shakespeare vòng xuống quanh cổ bà. Đầu bà ta ngoẹo sang một bên một cách không tự nhiên, môi tím ngắt, hai mắt lồi ra.

Ấn chiếc đèn bấm vào tay tôi, Ben chạy tới tháo bà ta ra. Tôi chậm chạp bước lại gần, rọi đèn bấm chiếu vào họ.

Tiếng đập cửa lại vang lên rầm rầm, to hơn và kiên quyết hơn.

Đỡ lấy người phụ nữ bằng một tay, Ben dùng tay kia giật lấy chiếc khăn, nhưng không tháo được nó ra. Đưa đèn cho Henry, tôi chạy tới tháo chiếc nút thắt, và thân hình người phụ nữ đổ nhào vào tay Ben. Những chiếc lông nhỏ màu trắng vương vãi xung quanh bà; quanh cổ bà Quigley ai đó đã đeo một chiếc gương nhỏ được gắn vào sợi dây chuyền.

“Đứa con tội nghiệp khốn khổ của tôi bị treo cổ rồi” Henry khẽ thì thầm. Ánh sáng run rẩy soi rọi cảnh tượng kinh hoàng trước mặt tôi. Chúng tôi đang nhập vai trong vở Vua Lear - vào lúc vị vua già tìm thấy Cordelia và cố gắng tuyệt vọng tìm kiếm hơi thở của cô gái đủ làm mờ tấm gương hay làm chiếc lông chim lay động. Nhưng không có gì xảy ra: Không, không, không còn sự sống.

Tiếng đập cửa lại vang lên, nhưng lần này ngưng lại đột ngột và chúng tôi nghe thấy tiếng chìa khóa tra vào ổ.

Đặt bà Quigley xuống sàn, Ben vụt đứng dậy. “Đi thôi” anh ta khẽ ra lệnh. Vắt cánh tay Henry qua vai, Ben dẫn chúng tôi quay lại qua dãy hành lang trong khi cánh cửa bật mở sau lưng.

Tôi nhớ mang máng trông thấy những cầu thang trong khi bà Quigley dẫn chúng tôi đi tham quan ngôi nhà, nhưng rõ ràng Ben đã để ý kỹ hơn. Anh ta dẫn chúng tôi tới đầu cầu thang trong khi phía sau ánh sáng bắt đầu tràn ngập, và một người phụ nữ kêu thét lên.

Trong khi tiếng bước chân vang lên ở hành lang trên đầu mình, chúng tôi vội vã lao xuống một cầu thang xoắn, vòng quanh rồi lại đi xuống. Phía trên, tiếng kêu biến thành tiếng khóc ầm ĩ rồi đột ngột ngưng bặt.

Chúng tôi chạy xuống tầng trệt, băng qua gian sảnh có trần vòm đã từng là lối đi chính dẫn vào sân trong. Một cánh cửa kính mở vào trong sân; một cửa khác, còn lớn hơn, dẫn ra bãi cỏ tối đen bên ngoài. Một viền sỏi nổi lên mờ mờ lượn về phía đông, bản sao của con đường đã từng đưa Shakespeare và đoàn kịch của ông tới ngôi nhà này.

Ra hiệu cho chúng tôi lùi lại, Ben nhẹ nhàng bước tới cánh cửa mở ra ngoài. Anh ta dựa sát người vào tường, và tôi rùng mình ớn lạnh. Vài người đàn ông mặc đồng phục chạy ào qua, hướng tới mặt trước tòa nhà. Hai người dừng lại ở cửa. Ben rút súng ra, và hơi thở của tôi nghẹn lại trong cổ họng.

Cánh cửa bị khóa. Một trong hai cảnh sát rút dùi cui ra để đập vỡ kính. Ben giơ súng lên.

“Lạy Chúa, anh bạn” viên cảnh sát còn lại lên tiếng. “Đây là nhà của một ông bá tước chết dẫm đấy. Đừng đập phá. Vẫn chưa đến lúc”. Họ vội vã rời đi, và tôi từ từ thở ra.

Khi tiếng bước chân đã im hẳn, Ben với tay ra mở cửa, ra hiệu cho chúng tôi ra ngoài. “Đừng chạy” anh ta ra lệnh khi chúng tôi luồn dưới tay anh ta bước ra ngoài màn đêm.

Ben không hề muốn lãng phí thời gian. Chúng tôi đi về hướng nam men theo tòa nhà, đúng theo hướng mà cảnh sát đã đi vào. Con đường chúng tôi lần theo dẫn thẳng xuống bãi cỏ rộng bên bờ một con sông nhỏ. Khi chúng tôi tới góc ngôi nhà, chúng tôi nhìn thấy sân khấu ở phía tay phải, hơi quay lưng lại phía chúng tôi, và phía sau là đám đông khán giả, một số ngồi tại bàn, một số ngồi tản ra trên những tấm mền, tất cả đều chăm chú nhìn về phía tòa nhà. “Nhập vào đám đông” Ben nói.

Chúng tôi đi được nẳ quãng đường qua bãi cỏ trống trải thì nghe thấy một cửa sổ của tòa nhà bật mở. Ai đó hét lớn “Đứng lại”, nhưng Ben nói “Chạy”. Chúng tôi vội vã chạy tới rìa bên kia của sân khấu.

Khi chúng tôi nhập vào đám đông, ánh đèn vụt tắt trừ một ngọn đèn chiếu sáng trên sân khấu. Câu cuối cùng tôi nghe thấy Ben nói là “Tản ra”. Rồi một giọng nam cao vang lên trong màn đêm. No nobis Domine ; “Không phải dành cho chúng con, Ôi Chúa, không phải dành cho chúng con, mà dành cho tên của người, tất cả vinh quang”.

Ben vạch một đường giữa những chiếc bàn; tôi cũng đi theo cùng hướng, nhưng theo một đường khác. Lúc đầu hầu như không ai để ý tới chúng tôi, vì cả đám đông đang bị cuốn hút vào âm nhạc. Một dàn hợp xướng cất giọng cao vút dưới giọng đơn chính, được đệm theo lúc đầu bằng bộ dây, sau đó là cả bộ hơi của dàn nhạc. Sau đó các khán giả có lẽ cho rằng chúng tôi là một phần nào đó của buổi trình diễn. Một số thậm chí còn cổ vũ chúng tôi. Cuối cùng chúng tôi ra tới bờ sông. Cuộc chạy trốn cuối cùng này đã làm Henry kiệt sức; mặt ông xanh mét, và vết thương lại chảy máu. Một lần nữa, Ben lại quàng tay ông lên vai, giúp ông đi xuống nước và lội qua bên kia. Tôi theo sau. Dòng nước lạnh ngắt nhưng khá nông.

Khi chúng tôi sang tới bờ bên kia, tôi ngoái lại nhìn phía sau. Những bóng đen đang băng qua bãi cỏ về phía sân khấu. Một trong số họ chợt đi qua luồng sáng, và tôi nhận ra người đó. Thám tử chánh thanh tra Sinclair đã bám sát gót chúng tôi.

Âm thanh của dàn kèn đồng quay cuồng vang động lên trời đêm, và khán giả đứng cả dậy, nghểnh cổ nhìn quanh. “Chạy!” Ben nói, và tôi quay lại chạy ngược lên đồi, tới vạt rừng tối sẫm an toàn trên đỉnh. Đúng lúc chúng tôi tới rìa của vạt cây, bản nhạc đến cao trào của đoạn kết. Tiếng thuốc súng nổ vang vọng sang phía bên này, rồi những tiếng nổ dội lại từ phía tòa nhà. Tôi vấp chân ngã nhào. Ben kéo tôi đứng dậy trong lúc một quầng lửa bung ra sáng rực rỡ trên đầu chúng tôi, với những đốm sáng vàng, xanh lục và xanh lơ.

Pháo hoa - không phải tiếng súng nổ mà là pháo hoa! Màn kết truyền thống của một đêm hòa nhạc mùa hè ngoài trời. Một tràng pháo hoa nữa được bắn lên trời; phía dưới trong ánh sáng chập chờn tòa dinh thự của các bá tước Pembroke hiện lên thật ma quái.

Băng qua bãi cỏ, mỗi lúc một nhiều bóng người hướng tới bờ sông, một số lách qua đám đông lội qua chỗ nước nông, như chúng tôi đã làm, một số đổ dồn về phía cây cầu ở phía đầu đối diện của tòa nhà. Từ xa, tôi nghe thấy tiếng réo hai tông của còi xe cảnh sát Anh.

“Kate!” Ben khẽ gọi tôi phía sau.

Tôi quay lại và chạy vào trong lùm cây.