Chương 33
Vạt rừng tối đen, những cành cây không ngừng móc vào quần áo trong khi chúng tôi chạy ngược lên đồi, cố bắt kịp Ben. Hai bàn chân tôi lép nhép trong đôi giày ướt sũng; tôi vẫn có thể nghe thấy tiếng pháo hoa kêu xèo xèo, rít lên trong không trung rồi nổ bùm. Ở đâu đó gần hơn, có tiếng chân người chạy lên đồi qua những bụi dương xỉ; thỉnh thoảng một người trong số họ lại quát lớn tiếng.
Mặt đất trở nên bằng phẳng rồi dốc xuống thoai thoải. Xuống tới chân đồi, chúng tôi tới trước một bức tường phủ đầy rêu và địa y. nhanh nhẹn áp sát bức tường, Ben đi men theo nó cho tới khi tìm thấy một bệ đá áp vào tường, trên đó có chạm một mề đay trang trí - tưởng niệm một chú chó săn được yêu quý cách đây đã lâu - cho phép có chỗ bám ngón tay và đặt chân. Ben và tôi giúp Henry leo qua tường, rồi chúng tôi cũng trèo qua ngay sau ông, sau đó nằm ép sát người xuống đất sau một bụi cây thấp bên lề một con đường nhỏ chạy giữa hai hàng cây.
Hai chiếc xe cảnh sát lao vụt qua, hú còi inh ỏi. Tôi nhổm dậy khi nghe thấy một tiếng động lớn từ xa vọng lại. “Nằm xuống!” Ben gắt. Dán người xuống sát đất, chúng tôi làm theo anh ta, từ từ bò lùi lại sát bức tường mà nằm bẹp người xuống ngay cạnh chân tường dưới những lùm cây bui thấp. Nhìn qua hàng cây, chúng tôi thấy một chiếc trực thăng cảnh sát bay ngang qua, đưa đèn pha quét thành một dải rộng suốt dọc con đường.
Giống như những chú thỏ bị săn đuổi, chúng tôi đành nằm im chờ đợi. Chiếc trực thăng bay qua, theo sau là một chiếc khác bay chậm hơn. Tôi không dám chắc, nhưng tôi nghĩ đã nhìn thấy khuôn mặt của thám tử chánh thanh tra Sinclair bên trong.
Rồi chúng khuất hẳn. Ben từ tốn nhổm dậy. Vẫn cúi thấp người, anh ta bò qua những lùm cây bụi tới ven đường rồi đứng dậy bên lề đường. Rồi anh ta vẫy tay ra hiệu cho chúng tôi theo mình.
Bên kia con đường là một khu dân cư mới. Băng qua đường, chúng tôi rẽ vào một con phố chạy xuyên qua những dãy nhà. Ben rảo bước một cách cả quyết, như thể anh ta biết mình đang đi đâu, rẽ một lần rồi dừng lại. Ánh đèn dừng màu vàng khẽ nháy một lần rất nhanh từ chiếc xe đậu phía trước.
Đó là chiếc Bentley của Henry. Ben hối hả mở cửa sau ra, và chúng tôi chui vào trong.
Không nói một lời, Barnes khởi động xe và lái xe ra phố. Ben cúi người về phía trước khẽ nói gì đó với ông ta. Sau vài lần rẽ nữa, chúng tôi quặt vào một con đường mòn hẹp nằm giữa hai rặng cây, hai bên đường là cánh đồng trải rộng dưới ánh trăng. Henry bắt đầu tháo giày và tất ướt ra, lau khô chân bằng chiếc khăn Barnes đưa cho; tôi cũng làm theo ông.
“Lá thư” Henry nói bằng giọng khàn đặc, tay vẫn ép chiếc khăn lên mặt.
Con đường nhô lên rồi tụt xuống, rồi lại nhô lên cao hơn, cuối cùng kết thúc trên đỉnh một trong những quả đồi của nước Anh luôn cho người ta cảm giác ngây ngất như đang đứng trên đỉnh của trái đất, Ben lấy những tờ giấy từ trong túi áo và đặt vào tay tôi.
Gửi tới con Thiên nga Ngọt ngào nhất từng bơi trên Avon .
Bên cạnh mình, tôi nghe thấy cả tiếng Henry hít vào, nhưng ông không nói gì. Tôi đọc tiếp.
Trôi dạt theo một ngọn thủy triều ngờ vực và bất an, cuối cùng tôi đã dạt vào bờ để thấy mình hoàn toàn đồng ý với bạn. Như những tòa lâu đài trên mây - hay như bạn vẫn gọi, những trò chơi và những chuyện vặt vãnh - mà con quái vật chimera của chúng ta đã xây dựng nên không thể nào hòa tan hoàn toàn vào bóng tối của những Đêm Tàn Phá.
Tôi chỉ trừ ra ngoại lệ vở kịch Tây Ban Nha
“ Cardenio ”, Ben nói. Tôi gật đầu với đôi mắt mở to.
Nó đã gây ra đủ đám cháy rồi, bên cạnh đó nữ bá tước, hiện vẫn bị giam ở tháp London, đã cầu xin đừng khuấy động trở lại những rắc rối của bà. Vì nữ bá tước gần như là người trong gia đình, tôi có nghĩa vụ phải tôn trọng ước nguyện của bà, như con gái tôi vẫn hàng ngày tìm cơ hội nhắc nhở tôi. Tôi xin gánh lấy trách nhiệm viết thư xin lỗi tới St. Alban vì sự im lặng này của chúng ta.
Vì con lợn rừng không còn hung dữ nữa, bạn chỉ còn một chú lợn thịt để quyến rũ. Về công việc vất vả tỉ mỉ của một chú kiến cần cù gạt thóc tìm gạo, ông Ben Jonson có thể chứng tỏ mình không kém bất cứ ai, và thực tế là xuất sắc hơn phần lớn những người khác - cho dù không đến mức hoàn hảo như ông ta vẫn nghĩ về chính mình. Ít nhất ông ta cũng có kinh nghiệm thực tế do từng làm công việc này trước đây cho một tác giả mà ông ta tôn thờ hơn tất thảy - chính bản thân mình. Tuy vậy, giống như những con quạ, ông ta sẽ nói huyên thuyên không dứt trong khi làm việc, không hề để ý đến những lời lẽ thô thiển bất nhã từ cái mồm của mình tuôn ra. Nếu bạn có thể chỉ đạo và chịu đựng được một dàn-đồng-ca-một-người như thế, thì hãy cố làm vậy.
Về quyết định cuối cùng, tôi nhường cho đôi bàn tay ngọt ngào khéo léo của bạn.
“ Cuốn Tuyển tập Đầu tiên ” Henry kêu lên. “Ông ta đang nói đến việc mời Jonson biên tập nó”.
“Và để Cardenio ở ngoài” tôi nói.
Luôn là người bạn đáng tin cậy của bạn ,
Tôi chỉ vào chữ ký. Được viết bằng những chữ cái to, rõ ràng, chữ cái đầu tiên với những nét uốn lượn cầu kỳ xứng đáng với tên của một ông hoàng, chữ ký đó nằm chính giữa, ở khoảng ba phần tư trang giấy tính từ trên xuống.
WILL
Sự ngạc nhiên bao trùm cả chiếc xe.
Gửi tới con Thiên nga Ngọt ngào nhất từng bơi trên Avon … từ Will? Nếu bức thư nói về Tuyển tập Đầu tiên - tất nhiên một trong số đó là Shakespeare… nhưng là con thiên nga nào?
“Chỉ có một Con thiên nga của Avon” Henry nói sau một hồi im lặng. “Trong khi những người tên Will thì nhiều vô kể. Chẳng hạn như William Herbert, bá tước Pembroke. Người anh trong hai anh em Không gì so sánh được. Rồi chàng thanh niên tóc vàng trong những bài sonnet nữa”.
“Và cả William Turner nữa” Ben vừa nói vừa nhìn tôi. “Nhưng nếu Shakespeare là con thiên nga” anh ta phủ nhận, “thì lá thư này cũng đã phải biến mất cùng lúc với những giấy tờ còn lại của William Shakespeare. Tại sao nó lại có mặt ở Wilton?”
Mạch suy nghĩ trong đầu tôi dường như đang chạy một cách ỳ ạch. Khuôn mặt người phụ nữ vừa bị giết hại vẫn liên tục chen vào. Phía sau chúng tôi tiếng còi nhỏ dần vọng lại từ phía Wiltshire, và ở đâu đó ngoài kia là kẻ đã sát hại bà Quigley rồi rắc những chiếc lông lên người bà. “Còn một người nữa có thể là con Thiên nga ngọt ngào” tôi mệt mỏi lên tiếng. “Người đó giải thích được vì sao lá thư lại có mặt ở đó… Mary Sidney. Nữ bá tước Pembroke. Mẫu thân của hai anh em Không gì so sánh được”.
Henry khịt mũi có vẻ không tán thưởng, nhưng tôi mặc kệ, nắm chặt lấy tờ giấy trong tay như sợ nó có thể đột nhiên biến mất nếu tôi chỉ cần chớp mắt. Một người phụ nữ đã chết vì lá thư này. Vậy nó phải có ý nghĩa nào đó. Nhất định là như vậy. “Sau cái chết của anh trai mình, nữ bá tước thừa kế tên gọi và gia huy của dòng họ Sidney: một đầu mũi tên, hay cũng có lúc được gọi là một mũi thương. Nhưng bà cũng giữ lại cả biểu tượng riêng của Philip: hình chim thiên nga. Biểu tượng này được những người Tin lành bị áp chế tại Pháp, vốn ngưỡng mộ bá tước, tặng cho ông…” Tôi ngẩng lên nhìn, chỉ thấy đôi mắt Henry uể oải nhìn tôi. “Cách phát âm của từ Sidney trong tiếng Pháp gần giống như cygnet”.
“Tiếng Pháp có nghĩa là ‘thiên nga’”. Ben nói, đôi mắt anh ta lóe sáng.
“Tiếng Pháp cho sự lố bịch” Henry cấu kỉnh.
Chiếc xe chạy chậm lại. Chúng tôi, sau khi đi một vòng rộng, đã quay trở lại con đường chính dẫn về London. Rẽ vào con đường này, chúng tôi hướng về phía nam. “Có thể” tôi nói. “Nhưng vẫn còn một chân dung in khắc của nữ bá tước Pembroke lúc về già, để tỏ lòng ngưỡng mộ tài năng văn học của bà. Nữ bá tước mặc một chiếc áo cổ xếp rộng thêu kim tuyến, và trong những mảng thêu kim tuyến lặp đi lặp lại hình ảnh một con thiên nga”.
“Thứ nước mà cô đang làm ướt sũng những chiếc ghế bọc da của tôi là nước sông Nadder, chứ không phải sông Avon” Henry phản đối. “Sông Avon chảy qua Stratford, ở Warwickshire”.
“’Avon’ có nghĩa là ‘sông’ theo tiếng xứ Wales” tôi nói. “Có rất nhiều ‘Avon’ ở nước Anh. Một trong số đó chảy qua Salisbury. Và vào thế kỷ mười bảy, khi lãnh địa Wilton còn rộng hơn bây giờ, nó trải rộng qua cả đất đai của Pembroke”. Tôi lắc đầu. “Nếu ông thực sự muốn tin vào định mệnh, thì thậm chí còn có cả một ngôi làng tên là Stratford-sub-Castle cách đây không xa. Và nằm ngay trên bờ sông Avon”. Tôi úp mặt xuống hai lòng bàn tay.
“Tôi nghĩ không chỉ có thế” Ben nói.
Tôi lắc đầu. “Nữ bá tước cũng sáng tác. Bà nổi tiếng nhất với việc chuyển thánh ca thành những bài thơ bằng tiếng Anh. Nhưng bà cũng sáng tác cả sân khấu”.
Tiếp theo là một khoảng im lặng.
“Bà ta viết kịch?” Ben hỏi với giọng hoài nghi.
“Một vở kịch. Một vở kich để đọc, dành cho những buổi đọc sách riêng tư giữa bạn bè hơn là để diễn trên sân khấu”. Tôi ngước nhìn lên. “Bà đã viết Bi kịch của Antonie , vở bi kịch đầu tiên về câu chuyện của Antony và Cleopatra bằng tiếng Anh”.
“Anton…” Ben lên tiếng, nhưng Henry đã cắt lời anh ta. “Cô đang muốn nói rằng Mary Sidney chính là Shakespeare?”
“Không!” tôi bực bội đáp. “Tôi không đột nhiên trở thành Delia Bacon. Nhưng tôi nghĩ chúng ta cần cân nhắc tới khả năng Mary Sidney, nữ bá tước Pembroke, có thể chính là ‘Con Thiên nga Ngọt ngào nhất’ trong bức thư”. Tôi thở dài. “Và tôi nghĩ chúng ta sẽ phải bám theo giả thiết đó tới những kết luận logic của nó. Bức thư hoàn toàn rõ ràng về Tuyển tập Đầu tiên , như vậy nó được viết vào năm 1623 hoặc sớm hơn. Nhưng nếu nữ bá tước chính là con Thiên nga Ngọt ngào muốn thúc đẩy việc xuất bản cuốn sách, lá thư phải được viết trước cuối tháng Chín năm 1621, trước khi bà qua đời vì bệnh đậu mùa”.
“Để cuốn Tuyển tập Đầu tiên lại cho các con trai mình đỡ đầu” Ben nói.
“Điều này dẫn chúng ta tới hai anh em Không gì so sánh được”. Will và Bill, tôi nghĩ: William, bá tước Pembroke, và em trai ông ta Philip, bá tước Montgomery, người đã cưới con gái bá tước Oxford và sống đủ lâu để thừa kế cả lãnh địa của bá tước Pembroke cùng tòa dinh thự Wilton. Cũng chính Philip là người cho xây dựng căn phòng nơi chúng tôi tìm thấy bức thư - và cũng chính nhờ Philip mà pho tượng đứng như một người canh gác cho Shakespeare trong gian tiền sảnh ở Wilton.
Ông ta đã không canh gác cho bà Quigley. Một lần nữa khuôn mặt sưng phồng của người phụ nữ này lại hiện lên trong tâm trí tôi.
Henry cúi xuống xem lá thư, cặp lông mày hơi nhướng lên. Ông đưa một ngón tay chỉ thẳng xuống tờ giấy. “Tác giả bức thư cũng biết Ben Jonson đã tự biên tập cuốn tuyển tập của chính mình. Cuốn sách đó được xuất bản năm 1616, cùng năm Shakespeare qua đời. Vậy thì có thể anh chàng Will này chính là Shakespeare người Stratford” Henry nói. “Nếu ông ta viết lá thư vào năm cuối cùng của đời mình”.
Tôi lắc đầu. “Không phải vậy nếu ‘con Thiên nga Ngọt ngào nhất’ là Mary Sidney”.
“Tại sao không?”
“Vì không thể nào một nhà viết kịch xuất thân bình dân, cho dù nổi tiếng tới đâu đi nữa, có thể viết một lá thư thân mật như thế này cho một nữ bá tước vào một thời đại mà đẳng cấp - và sự khác biệt về đẳng cấp - được xem trọng. Các diễn viên và nhà viết kịch cũng chỉ đứng trên một bậc so với những người buôn thúng bán bưng hay những tên ma cô dắt gái, nhưng mọi thứ trong lá thư này lại cho thấy Will - cho dù đó là ai - là một người cùng đẳng cấp vơi ‘con Thiên nga Ngọt ngào nhất’. Một người bình dân - nhất là khi người đó lại mang ơn quý bà mà anh ta gửi thư đến - sẽ mở đầu với văn phong khúm núm hơn, chẳng hạn như ‘Gửi tới phu nhân cao quý và nhân hậu, nữ bá tước Pembroke, con Thiên nga Ngọt ngào nhất…” tôi cắn môi dừng lại.
“Ngay cả chữ ký ở ngay giữa trang giấy như vậy cũng không ổn. Một người bình thường viết thư cho một nữ bá tước thông thường sẽ tỏ ra khiêm nhường bằng cách ký tên gần sát góc dưới bên phải nhất có thể được của tờ giấy viết thư. Tôi cũng không thích thú gì chuyện này hơn ông, Henry, nhưng nếu con Thiên Nga Ngọt ngào nhất là phu nhân Pembrokr, thì Will sẽ không thể là William Shakespeare, nhà viết kịch người Stratford”.
“Vậy thì là ai đây?” ông hỏi.
“Con quái vật chimera?” Ben hỏi, ngước mắt nhìn lên trần xe.
Tôi nhìn lại bức thư. Con quái vật chimera của chúng ta , trong thu viết. Như những tòa lâu đài trên mây - hay như bạn vẫn gọi, những trò chơi và những chuyện vặt vãnh - mà con quái vật chimera của chúng ta đã xây dựng lên .
Henry bỏ chiếc khăn tay ra khỏi mặt. “Cô muốn cho rằng” ông nói lạnh lùng, “rằng Shakespeare chỉ là kết quả của bốn trăm năm hoang tưởng quá mức?”
Tôi cau mày. Một con quái vật chimera, theo nghĩa bóng, có thể hiểu là điều gì đó huyễn hoặc hay hoang tưởng quá đáng. Nhưng trong thần thoại Hy Lạp, đó là một con vật cụ thể, một quái vật khạc ra lửa được cấu thành từ nhiều phần khác nhau: đầu sư tử, mình dê, đuôi rồng. Trong bức thư cũng có một con thiên nga - và có vẻ như sử dụng hình ảnh lợn rừng và lợn thịt để ám chỉ người. Rất có thể quái vật chimera là một nhóm người - được ví von chung lại dưới tên của một con quái vật gồm nhiều phần khác nhau.
“ Bollock !” Henry kêu lên.
“Điều đó không có nghĩa con quái vật là Shakespeare – hay Shakespeare là một con quái vật”.
“Bức thư chết tiệt này viết về Shakespeare!” Henry bực bội. “Chính cô đã nói thế”.
Tôi lắc đầu và cố gắng giải thích. Chimera có thể đơn giản chỉ là hình ảnh ẩn dụ của một nhóm những người đỡ đầu đã giúp đưa ra công chúng các vở kịch của Shakespeare dưới danh nghĩa những tác phẩm đặt hàng - và nghĩ rằng chúng đủ xuất sắc để đáng được cứu khỏi sự quên lãng. Ít nhất ý tưởng coi chimera là một nhóm người cũng làm cho các từ ‘con thiên nga’, ‘lợn rừng’, ‘lợn thịt’ có ý nghĩa. Chưa kể tới ‘chú kiến cần cù’.
“Vậy nếu Mary Sidney là con thiên nga, thì ai là lợn rừng và lợn thịt?” Ben hỏi.
Tôi nhìn Henry một cách mệt mỏi. “Biểu tượng của bá tước Oxford là một con lợn rừng màu xanh lơ”.
“Ôi, lạy Chúa” Henry nói, thả lỏng người tựa vào lưng ghế.
Ben mặc kệ ông. “Và vào năm 1616, ông ta đã chết rồi. Vậy ông ta không còn hung dữ được nữa. Tôi thích điều này”.
“Vẫn còn chú lợn thịt” Henry hầm hừ. “Con lợn thịt đẻ non tuyệt hậu bị quyền rủa. Cô thử nói xem ai trong đám triều thần kênh kiệu của Elizabeth lại chấp nhận để mình bị ví von với biểu tượng chẳng mấy vinh dự của Richard Đệ tam gù lưng? Chính ông ta chăng?”
“Hãy hứa đừng nổi khùng” tôi nói.
“Tôi sẽ không hứa điều gì kiểu đó hết”.
“Tôi thở dài. “Bacon”.
“Ngài Francis Bacon” Henry kêu lên.
“Thực ra đó là một con lợn rừng nữa” tôi giải thích. “Nhưng gia đình Bacon đã chuốc lấy vô số câu đùa bỡn ác khẩu do đã tự gọi nó là một con lợn thịt. Francis Bacon từng kể một câu chuyện về cha ông, một vị quan tòa béo phệ như một con voi, một ngày nọ trước tòa đã được một tù nhân nhận là họ hàng với lý do họ hắn ta là Hog. ‘Ta và ngươi chỉ là họ hàng sau khi ngươi đã bị treo cổ, ’ vị quan tòa già đáp lại. ‘Vì Hog (lợn thịt) chỉ trở thành Bacon (thịt muối) sau khi đã được treo cổ chu đáo’” Tôi không dám nhìn Ben; tôi có thể cảm thấy cả người anh ta đang rung lên vì cố kìm nén sự buồn cười. “Từ câu chuyện này, Shakespeare đã lặp lại trò đùa cũ đó”.
“Trong vở kịch Những bà vợ vui vẻ ở Windsor ” Henry thở dài. “lợn-thiến-bị-treo-cổ là cách gọi bóng gió của Bacon, tôi có thể cam đoan với anh bạn”.
Ben không còn kìm được cười nữa.
Henry mặc kệ anh ta. “Vậy con chimera này dẫn chúng ta tới đâu đây? Người mà Will - cho dù anh ta là ai - viết thư tới là St. Alban.”
“Lại là Bacon” tôi nói. “Đầu năm 1621, vua James đã phong ông ta làm tử tước St. Alban”.
Ben đã dừng cười.
Henry lại cúi người ra trước. “Vậy Bacon là người duy nhất mà con thiên nga không cho phép giễu cợt, và Will hứa sẽ đích thân viết thư chó St. Alban”.
Tôi gật đầu.
“Bacon đã sống ở đâu?”
“Một tư dinh nhỏ có tên Gorhambury. Ngay ngoại ô thành phố St. Alban”.
“Barnes” Henry khẽ gọi. “đi tới St. Alban”.
“Không dễ vậy đâu” tôi sốt ruột nói. “Gorhambury - khu tư dinh mà Bacon xây dựng làm nơi thư giãn tâm hồn - đã rơi vào cảnh đổ nát năm mươi năm sau khi ông qua đời”.
“Nhất định phải còn lại thứ gì đó” Henry nói.
Tôi gõ các ngón tay lên đầu gối. “Có một bức tượng trong nhà thờ giáo khu St. Alban của ông ta, như kiểu bức tượng Shakespeare tại Westminster, nhưng nó đã bị soi mói từ đầu đến chân bởi những người nghiên cứu Bacon từ suốt một trăm năm mươi năm nay”.
“Nghe không có vẻ hứa hẹn lắm”.
Ben cầm lá thư. “Nếu Will viết thư cho St. Alban” anh ta nói, “tại sao lại bảo Thiên nga rằng bà ta cần quyến rũ chú lợn thịt?” Anh ta nhìn lên. “Theo tôi có vẻ như St. Alban và chú lợn thịt này là hai người khác nhau”.
Chúng tôi cùng cúi xuống bức thư. Anh ta có lý.
“Còn có con lợn thịt ghê tởm nào khác không?” Henry hỏi.
“Nếu có thì tôi cũng không biết”.
“Vậy chúng ta đi đâu đây?” Ben hỏi.
“Tới một nơi tôi có thể suy nghĩ”.
Năm phút sau chúng tôi rời đường xa lộ rẽ vào bãi đậu xe của một khách sạn khiêm tốn. Trong khi Ben và Henry vào thuê phòng, tôi ngồi đợi ngoài xe cùng Barnes.
Tôi lấy chiếc trâm ra, mở phía sau. Ánh đèn từ khách sạn chiếu ra ánh lên màu da cam trên bức chân dung. “Đi đâu tiếp theo đây?” tôi thầm hỏi người thanh niên trong tranh.
Cầm lấy bức tượng chịu nạn, anh ta trông có vẻ cười cợt, gần như châm chọc; đôi mắt anh ta dường như hiện lên sự tinh quái pha lẫn khinh miệt.