← Quay lại trang sách

Chương 34

Ben đưa tôi qua lối cửa sau khách sạn vào một căn phòng có hai giường. Henry quay về phòng riêng của ông làm vệ sinh cá nhân. Vài phút sau, ông xuất hiện trước cửa phòng chúng tôi, trông đã trở lại như bình thường, mặc dù khuôn mặt vẫn hơi tái. Tôi đang đứng bên cửa sổ, trên tay vẫn cầm chiếc trâm đã mở.

“Cô đã bỏ cuộc với bức thư rồi sao?” Henry hỏi, đồng thời ngồi xuống chiếc ghế thoải mái nhất trong phòng.

“Chúng có liên hệ với nhau” tôi nói. “Tôi biết điều đó. Chỉ là không thể lần ra liên hệ như thế nào”.

Nhưng mùa hè vĩnh cửu của em sẽ không phai nhạt , dòng chữ màu vàng đã viết như vậy. Cho vinh quang lớn hơn của Chúa .

Liệu chúng có gì liên quan với lá thư chúng tôi mới tìm thấy không? Chúng có thể không có liên hệ trực tiếp, nhưng Ophelia đã nói rằng bức tranh và lá thư là những con đường khác nhau dẫn tới cùng một sự thật, vậy chúng phải thuộc về một câu chuyện.

Roz vẫn luôn cho rằng ý nghĩa xuất phát từ ngữ cảnh. Vậy thì bức tranh này đem đến ngữ cảnh nào cho những dòng chữ đây? Hay những dòng chữ cho bức chân dung?

Bức chân dung nhỏ, với tượng chịu nạn, rõ ràng mang ảnh hưởng Thiên chúa giáo. Những dòng chữ xuất phát từ cuốn Tuyển tập Đầu tiên . Vậy chúng có liên quan gì tới nhau?

“Có một mối quan hệ” tôi nói với tâm trạng tuyệt vọng. “nhưng tôi không phải là một nhà nghiên cứu lịch sử tôn giáo để nhìn ra nó”.

“Có lẽ đã đến lúc nên nhờ đến một người như vậy” Henry nói.

“Tôi không biết ai cả” tôi nói.

“Tôi nghĩ cô có thể sử dụng một người biết rõ cả về lịch sử tôn giáo lẫn Shakespeare” Ben lên tiếng. Anh ta đang nhìn tôi một cách thú vị, và tôi nghĩ mình đã hiểu vì sao. Chúng tôi đều đã nhìn thấy tiêu đề bài viết của Matthew trong cuốn giới thiệu chương trình tại thư viện Folger. ‘Shakespeare và ngọn lửa Thiên chúa giáo bí mật’

“Tôi không muốn nhờ ông ta giúp đỡ”, tôi nóng nảy nói.

Henry ngẩng đầu lên. “Nhờ ai cơ?”

“Matthew” tôi nói. “Giáo sư Matthew Morris”.

“Ông ta sẽ rất sẵn sàng làm vậy” Ben nói.

“A” Henry lên tiếng, “tôi bắt đầu hiểu ra rồi. Anh chàng tội nghiệp đó có làm gì tệ hại hơn bày tỏ sự quan tâm đến cô không?”

“Ông ta làm tôi khó chịu” tôi ngán ngẩm trả lời. “Ông ta cũng làm Roz khó chịu”.

“Thỉnh thoảng, cô gái thân mến” Henry nói, “cô là một kẻ kiêu căng hạng nhất đấy”. Ông rút điện thoại di động ra. “Nếu người này có thể giải quyết khó khăn của chúng ta, hãy gọi cho ông ta”.

“Hãy dùng điện thoại của tôi” Ben nói. “Sẽ khó lần theo dấu vết hơn”.

“Roz sẽ không thích việc này” tôi làu bàu.

“Bà ấy sẽ còn không thích hơn nếu kẻ sát hại bà chiếm giữ được thứ bà tìm kiếm”. Ben nói. Anh ta đặt chiếc Blackberry của mình ở chế độ loa ngoài, còn tôi lấy danh thiếp của Matthew ra và bấm số.

Chuông reo tới tiếng thứ hai Matthew đã trả lời. “Kate?” ông ta nói, giọng run rẩy. Rồi tôi nghe thấy tiếng ông ta ngồi dậy. “Kate? Cô đang ở đâu? Cô ổn chứ?”

“Tôi không sao. Ông có thể cho tôi biết ít nhiều về câu Ad Maiorem Die Gloriam được không?”

Giọng ông ta rời ra từng tiếng. “Cô đang phải lẩn trốn, và cô muốn gọi tôi để hỏi về tiếng Latinh sao?”

“Tiếng Lating thì tôi xoay xở được. Cho vinh quang lớn hơn của Chúa . Nhưng tôi vẫn không biết ý nghĩa của nó là gì?”

“Cô có định cho tôi biết đây là chuyện gì không vậy?”

“Ông đã nói nếu tôi cần ông giúp thì cứ gọi. Và tôi đang gọi đây”.

Đầu dây bên kia im lặng một lát. “Đó là câu tôn chỉ của dòng tu Jesuit”

Tôi giật mình sững người. Những chiến binh Công giáo Roma của Christ. Những tu sĩ mộ đạo và thường là những người đầy nhiệt huyết có mục đích đưa nước Anh trở lại trong vòng tay của Công giáo.

Matthew tiếp tục. “Những con ngáo ộp trong mắt của Cecils cũng như phần lớn các mưu thần khác của Elizabeth và James, những người này coi họ là những kẻ phản trắc. Một danh hiệu chẳng vẻ vang gì mà họ đã gánh trên vai với sự nhẫn nại của những vị thánh. Theo đúng nghĩa đen. Tôi nghĩ có khoảng mười người của dòng tu này đã được phong thánh, sau khi bị treo cổ, lăng trì, trảm quyết vì đức tin của họ”.

“Jesus!” tôi thở hắt ra.

“Chính xác” Matthew nói. “Cộng đồng của Jesus”.

Trên mặt bàn, những ngọn lửa trong bức chân dung bập bùng liếm vào người thanh niên trẻ.

“Theo ngữ cảnh của câu này” tôi nói với giọng mà tôi hi vọng người khác sẽ thấy là bình thản, “ông sẽ rút ra điều gì từ câu này?”. Tôi đọc thành tiếng những từ được viết tay kiểu cách với nét mực đã mờ ngả sang nâu: Tôi xin gánh lấy trách nhiệm viết thư xin lỗi tới St. Alban vì sự im lặng này của chúng ta .

“Bình thường tôi sẽ nghĩa tới Bacon” ông ta đáp. “Nhưng vì có liên hệ tới tôn chỉ của dòng Jesuit, tôi bắt buộc phải cân nhắc tới Valladolid”.

“Tây Ban Nha?”

“Phải, Tây Ban Nha”. Matthew ngáp to rồi chuyển sang giọng giảng bài. “Valladolid là cố đô của Castile. Nơi đặt Học viện Hoàng gia dành cho người Anh, được vua Tây Ban Nha Philip Đệ nhị thành lập vào những năm 1580 nhằm huấn luyện người Anh thành những tu sĩ Thiên chúa giáo. Phần lớn những tu sĩ này sẽ gia nhập dòng Jesuit và được ngầm đưa trở lại nước Anh để coi sóc phần hồn cho những giáo dân trung thành một cách bí mật. Theo triều đình Anh, họ cũng được cử tới để xúi giục những thần dân trung thành của Anh quốc âm mưu bạo loạn chống lại các quân vương Tin lành của họ, thực hiện bằng vũ lực những gì mà họ đã không thể thành công bằng thuyết phục. Triều đình Anh coi nơi đó như cơ sở đào tạo những tên khủng bố tôn giáo”.

“Tại sao lại là St. Alban?”

“Tên đầy đủ của học viện là Học viện Hoàng gia St. Alban dành cho người Anh”.

Trong khoảnh khắc, tất cả mọi người đều im lặng không có lấy một cử động. Với lấy chiếc điện thoại, tôi tắt chế độ để loa ngoài. “Tôi nợ ông, Matthew”.

Ông ta nói khẽ. “Cô biết tôi muốn gì mà”.

“Tôi biết” tôi nói. Cho tôi một cơ hội , ông ta đã nói vậy. “Có Chúa chứng giám, ông đáng được như thế” tôi nói thêm trước khi tắt máy.

Tôi đưa trả điện thoại cho Ben, anh ta đang nằm duỗi dài trên giường đưa mắt nhìn lên trần nhà với một nụ cười ra vẻ đã hiểu tất cả khiến tôi thoáng cảm thấy bực bội.

“Cô nghĩ đó là câu trả lời chứ?” Henry hỏi. “Valladolid? Theo tôi nghe có vẻ nguy hiểm đấy”.

Tôi ngồi xuống cạnh chiếc bàn viết, bất chợt cảm thấy mệt rã rời. “Học viện Hoàng gia dành cho người Anh có những mối liên quan khác tới Shakespeare. Hai đầu mối. Hai người muốn nghe gì trước, cái có vẻ tin cậy hay cái không đáng tin cậy?”

“Tôi bỏ phiếu đề nghị chúng ta bắt đầu với giả thiết điên rồ hơn rồi quay lại với giả thiết tỉnh táo hơn” Ben nói, hai tay đang đặt sau gáy.

“Vậy thì bắt đầu với Marlowe” tôi nói, đưa một bàn tay lên mái tóc cụt lủn của mình. “Ngôi sao nhạc rock vô thần, đồng tính đầy tai tiếng của nước Anh thời Elizabeth. Con cưng của các nhà hát trước khi Shakespeare xuất hiện”.

“Bị đâm vào mắt trong một vụ ẩu đả ở quán rượu” Ben nói.

Tôi gật đầu. “Vào năm 1593, đúng thời điểm Shakespeare bắt đầu xuất hiện. Phải. Đúng là nhân vật này. Chỉ có điều, vụ đâm nhau đó có thể không chỉ là ẩu đả thông thường - vì Marlowe còn là một gián điệp. Được gửi tới Hà Lan, bên cạnh các nhiệm vụ khác, để xâm nhập vào các nhóm người Anh theo Công giáo tị nạn bị nghi ngờ đang âm mưu nổi loạn… Có những bằng chứng nghiêm túc cho thấy những người đi cùng ông ta trong quán rượu đó cũng là các điệp viên, còn quán rượu nọ là một địa điểm liên lạc an toàn”.

“Có vẻ không đủ an toàn với Marlowe” Ben nói.

Tôi gác hai chân lên bàn. “Cũng có những bằng chứng mơ hồ cho rằng ông ta không chết chiều hôm đó. Rằng ông ta thoát nạn - hay được cử ra nước ngoài. Tới Tây Ban Nha”.

“Ái chà!” Henry bày tỏ thái độ từ chiếc ghế bành.

Ben lặng lẽ hơn. “Tới Valladolid?”

Tôi gật đầu. “Vào năm 1599, hồ sơ lưu trữ của học viện cho biết có một người có tên hoặc là John Matthew hoặc Christopher Morley nhập học… Morley là một biến thể của Marlowe mà nhà soạn kịch thỉnh thoảng vẫn dùng, và John Matthew là một bí danh mang vẻ tu sĩ rất thông dụng - cho dù không được thông minh lắm - lấy cảm hứng từ Kinh thánh”. Tôi lắc đầu. “Cho dù anh ta là ai, người tu sĩ này gia nhập dòng tu năm 1603 và trở về nước Anh, nơi anh ta bị bắt và tống vào tù. Điều lạ lùng là vào một thời kì mà các tù nhân phải tự trả chi phí sinh hoạt cho mình - hoặc chết đói trên sàn phòng giam bẩn thỉu đầy chấy rận - thì Robert Cecil, thượng thư nội vụ của của vua James, lại đích thân chi trả tất cả cho Morley. Sự việc này khiến anh ta có vẻ giống một điệp viên của triều đình.

“Cách giải thích đơn giản nhất cho câu chuyện Morley ở Valladolid là cho rằng cả hai tên của người đàn ông này đều là tên giả - một vay mượn từ Kinh thánh, còn tên kia từ một người đã chết - có thể vì anh ta là một gián điệp Anh”.

“Đường thẳng duy nhất nối hai điểm” Ben nói. “Bây giờ hãy cùng nghe - cô đã nói với Athenaide thế nào nhỉ? - những điều ngạc nhiên lộn xộn…”

“Về một con bọ dừa say rượu” tôi nói theo gần như vô thức. “Có những người tin rằng lí do không ai có thể chứng minh Shakespeare đã sáng tác ra thứ gì trước năm 1593 là vì trước năm này ông sáng tác dưới tên thật của mình: Christopher Marlowe”.

Cười phá lên nhạo báng, Henry đứng dậy khỏi ghế và đi vòng quanh phòng.

“Tôi đã nói với ông giả thiết rất điên rồ mà” tôi nói. “Trong giả thiết này, cái giá cho sự biến mất của anh ta là Cecil phải thu xếp sao cho các vở kịch của anh ta tiếp tục được công diễn ở London”.

“Vậy là ‘Shakespeare’ đi tới Valladolid” Ben nói. Anh ta đang bận rộn dùng chiếc điện thoại của mình để lướt Net trong khi chúng tôi nói chuyện.

“Chính xác”.

“Mối quan hệ còn lại là gì?” Henry hỏi, vẫn tiếp tục rảo bước.

“Cervantes”.

Henry dừng lại.

“Có thể ông ta đã viết những vở kịch của Shakespeare” Ben nói với vẻ mặt thẳng thắn.

Tôi bực bội nhìn anh ta. “Cũng có người nghĩ vậy. Và một số khác cho rằng Shakespeare đã viết Don Quixote ”.

“Và hẳn có những người khác nữa tin rằng ông ta đầu thai trở lại thành Einstein và viết ra thuyết tương đối” Henry phản pháo. “Tại sao không gán cho ông ta luôn cả Chiến tranh và Hòa bình cùng Illiad và cả Kinh thánh nữa?”

“Tôi đề nghị chúng ta hãy tập trung vào Shakespeare và chỉ Shakespeare thôi trong một phút” tôi bắt đầu.

“Tiểu thuyết làm sao” Hnery nói.

“Chúng ta đã ít nhiều quên mất vở kịch, nhưng Cardenio vẫn là một phần của câu chuyện này” tôi tiếp tục. “Và Cardenio , có thể nói, được ra đời ở Valladolid. Khi vua Philip Đệ tam đưa toàn bộ triều đình Tây Ban Nha từ Madrid về Valladolid, Cervantes đi cùng với họ. Chính tại Valladolid năm 1604 ông đã hoàn chỉnh bản thảo để in phần một của Don Quixote , đồng thời hoàn tất việc viết phần hai”.

Không ai động đậy. Tôi đưa tay vuốt phẳng bức thư.

“Cũng vào mùa xuân năm đó, vua James mới lên ngôi cử một sứ giả tới Tây Ban Nha để ký hòa ước. Bá tước Nottingham - một người của dòng họ Howard - mang theo một đoàn tùy tùng gồm bốn trăm người Anh, trong đó có những chàng trai trẻ xuất thân quý tộc rất quan tâm đến những gì liên quan tới Công giáo, và đã được học để có sự quan tâm cũng sâu sắc như vậy về tất cả những gì liên quan tới Tây Ban Nha. Bao gồm cả sân khấu và văn học. Và tôn giáo. Một số người e ngại dòng tu Jesuit có thể lung lạc những thanh niên này, và những chàng trai đó sẽ có một ngày cố gắng quay trở lại trong những bối cảnh không lấy gì làm vui vẻ cho nước Anh”

Trong bức tranh, chàng thanh niên cầm tượng chịu nạn trong tay, đôi mắt đầy vẻ táo bạo. Ad Maiorem Die Gloriam .

“Nếu chàng trai tóc vàng này tới Valladolid với ý định gia nhập dòng Jesuit, vào lúc đó hay muộn hơn, anh ta hẳn sẽ có cơ hội đưa câu chuyện về Cardenio của Cervantes vào sự chú ý của Shakespeare. Hay của một trong những người đỡ đầu anh ta. Có thể là gia đình Howard. Điều đó chính là nguyên do việc ‘Will’ viết thư giải thích vì sao vở kịch Tây Ban Nha không được có mặt trong Tuyển tập ”.

Trên giường, Ben đã nhổm dậy. “Có thể nó cũng giải thích bằng cách nào một bản thảo của một vở kịch Anh lại có mặt ở biên giới giữa Arizona và New Mexico”.

Tôi quay lại nhìn anh ta.

“Vào thế kỉ mười bảy, khu vực đó, chính là giới hạn cực bắc của Tây Ban Nha. Vùng đất do các nhà chinh phục Tây Ban Nha khai phá và cai trị”.

“Những người này mang theo các tu sĩ Tây Ban Nha” tôi nói.

“Hoặc, ít nhất cũng là các tu sĩ Tây Ban Nha tới”.

“Có thể một trong số họ là người Anh” Henry nói.

Phía sau chàng trai tóc vàng, những ngọn lửa bằng màu vẽ dường như đang bùng cháy. Tôi nghĩ tới những từ được viết bằng mực đã phai màu trên một trang thư: Tôi xin gánh lấy trách nhiệm viết thư xin lỗi tới St. Alban vì sự im lặng này của chúng ta .

Ben ngẩng đầu lên khỏi chiếc Blackberry của anh ta. “Ryanair có hai chuyến bay trực tiếp mỗi ngày. Từ London tới Valladolid”.

Chúng tôi đặt ba vé trên chuyến bay buổi sáng.